Thứ Hai, 31 tháng 5, 2010

Người hóm hỉnh sót lại của làng văn

Nguyễn Việt Chiến

(TNTT>) Nhà văn Đỗ Chu (sinh năm 1944, quê Bắc Ninh) là một con người khá đặc biệt và thật thú vị. Đặc biệt là bởi tài năng văn chương của Đỗ Chu đã “vang bóng” từ thời ông mới in tập truyện ngắn đầu tay Hương cỏ mật năm 1963 và tập truyện ngắn Phù sa năm 1967.

Đến nay, với hơn chục tác phẩm để đời, Đỗ Chu có hẳn một bộ sưu tập các giải thưởng văn chương, từ giải thưởng Hội Nhà văn VN, giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật đến giải thưởng ASEAN. Còn thú vị là bởi, ông luôn xem nhẹ các giải thưởng văn chương này và chỉ có thú vui thích ngồi kể những câu chuyện khôi hài theo kiểu “châm chọc” cho bạn bè nghe.

Dạo này, tôi thường xuyên gặp ông ngồi uống nước chè, hút thuốc lào vặt và kể chuyện phiếm “miễn phí” ở phòng làm việc của tạp chí Thơ, Hội Nhà văn Việt Nam. Hình như, đến tạp chí Thơ mà không gặp Đỗ Chu là thấy buồn hẳn. Bởi nếu Hội Nhà văn VN mở cuộc thi kể chuyện khôi hài hấp dẫn nhất về “làng văn” thì ở nước ta bây giờ, có lẽ khó ai theo kịp Đỗ Chu. Trong đầu ông chứa bên trong cả một kho tàng “linh tinh mục” đủ các thứ chuyện trên giời dưới bể, chuyện văn chương, chuyện thế sự, chuyện xã hội, chuyện thành thị, chuyện làng quê, chuyện quá khứ, chuyện tương lai… chuyện nào cũng độc đáo, khôi hài cả. Có người biết khá nhiều chuyện “bếp núc” thú vị về làng văn ở nước ta nhưng lúc kể ra, không hiểu vì sao cứ thấy nhạt phèo. Còn nếu chuyện ấy mà nghe Đỗ Chu kể, chắc chắn mang một phong vị khác hẳn. Cái hấp dẫn ấy có lẽ cũng là do cách kể chuyện, cách thong thả, nhâm nhi, nhấn nhá các tình tiết quan trọng với vẻ mặt rất đặc biệt hóm hỉnh của Đỗ Chu. Lúc ấy, con mắt tinh ranh của ông sau cặp kính dày cộp, tròn xoe giống đít chai, cứ như muốn nhảy xổ ra, chụp lấy người nghe mà đè sấp xuống, bảo rằng “Chuyện ông kể là sự thật một trăm phần trăm, ông nghe chúng nó kể, rồi ông kể lại cho chúng mày nghe ở một cấp độ hay hơn nhiều cái sự thật giản đơn lúc ban đầu”. Rồi Đỗ Chu cười, nụ cười mới thật sung sướng, rạng rỡ, hể hả làm sao.

Sở dĩ Đỗ Chu thường hay ngồi kể chuyện phiếm “miễn phí” trong phòng khách của tạp chí Thơ là vì ông rất quý trọng nhà thơ Ngô Thế Oanh, Phó tổng biên tập ở đây. Nể nhau vì tài đã đành, còn quý hóa nhau là vì chuyện nhân cách, chuyện tình nghĩa tri âm, tri kỷ. Khi Đỗ Chu kể chuyện, ông trở thành một nhà “độc tài”, ông chỉ cho phép mỗi mình ông nói và không bắt tay ai trong lúc kể chuyện.

Có điều khá lạ, không hiểu vì sao vốn là một nhà văn xuôi nổi tiếng, nhưng ông không ít lần tỏ ra coi thường người viết văn xuôi và thường ngả mũ khâm phục người làm thơ.

Có lần Đỗ Chu nheo mắt, ví von so sánh bảo với mấy nhà thơ chúng tôi đang ngồi xung quanh hóng chuyện ông: “Thi ca nó sang trọng lắm chứ, nó như viên ngọc quý lấp lánh trên vương miện của nữ hoàng văn chương. Nó hơn hẳn cái anh văn xuôi cứ phải hì hục viết suốt ngày, suốt đêm đến ho lao, thối phổi. Tôi kính trọng người làm thơ vô cùng. Vừa qua, đọc được chùm thơ mới của ông Nguyễn Khoa Điềm ở Huế gửi ra, tôi thấy xúc động vì cái “tôi” trong thơ của ông ấy nó sang trọng quá, sâu sắc quá. Nó chẳng hề véo von, vay mượn, sáo rỗng như mấy anh “cười thuê khóc mướn” khác. Nhất là vừa rồi, tôi đọc được một chùm thơ của Ý Nhi mới in trên tạp chí Thơ thì mới thấy, thơ của cô ấy hiện nay là hay nhất nước, nó vượt qua các cậu rồi. Thơ kiểu ấy là nó “ngồi” lên mặt mấy ông nhà văn đương đại ấy chứ và chả đùa với thơ của nó được đâu, các cậu nghe chưa!”.

Nghe nhà văn Đỗ Chu hào hứng nhảy sang “chiếu” phê bình thơ, tôi cùng hai nhà thơ Ngô Thế Oanh và Nguyễn Đức Mậu cứ há hốc mồm ra mà cười. Với vẻ mặt nghiêm trọng, Đỗ Chu hóm hỉnh nói tiếp: “Các cậu đừng tưởng bở chỉ có các cậu mới là nhà thơ chính hiệu đâu nhé, tất cả cánh viết văn xuôi chúng tớ, thằng nào thằng ấy cũng đều âm thầm quyết liệt làm thơ ngay từ lúc chưa làm văn xuôi. Tớ cũng làm thơ từ rất lâu rồi, trường ca, đoản ca, độc ca…tớ đều viết cả, chỉ có cái chưa bao giờ thèm in ra thôi! Vì thật ra, thơ của tớ cũng không có gì hay ho hơn thơ của các cậu, vả lại, có in ra, nó cũng không đóng góp gì được cho nền thi ca hiện đại, nên tớ “đếch” thèm in, cho các cậu biết tay. Chuyện tớ làm thơ, “cu” Thỉnh, “cu” Oanh, cu “Mậu”…đều biết cả đấy chứ. Tớ chỉ cho phép các “cu” thơ ấy đọc thơ của tớ để biết tài thơ của tớ mà thôi, chứ dứt khoát tớ không cho in!”.

Chúng tôi được một mẻ cười nghiêng ngả. Tôi chất vấn “Tại sao, bác lại gọi mấy nhà thơ là “cu” nọ, “cu” kia, thế bác không sợ các nhà thơ phật lòng à?”. Đỗ Chu cười toác loác phân giải “Tao yêu lắm lắm thì tao mới gọi là mấy thằng cu chứ! Chúng nó hồn nhiên thành thực dâng hiến cả cuộc đời cho nàng thơ sang trọng. Thế thì làm sao tao lại không yêu mấy thằng cu ấy được nhỉ, mày cũng là một thằng cu thơ đáng yêu đấy em nhé!”.

Đỗ Chu lại tít mắt cười.

_________________________________________________

Chủ Nhật, 30 tháng 5, 2010

Thơ hay là cái chết của thời gian

Ngô Tự Lập

Em ở đâu đó sau tất cả những thứ này:
Ngôn ngữ của bụi
Màu sắc của chiều tà.

Về thơ như là một tổ chức ngôn ngữ quái đản

Tiểu luận Thơ là gì là một bài viết rất đặc trưng cho phong cách của ông Phan Ngọc: nhiều tâm huyết nhưng cũng nhiều võ đoán. Suốt bài viết với giọng cực kỳ tự tin này lấp lánh đây đó những nhận xét sâu sắc bên cạnh những từ ngữ và thuật ngữ cố tình lạ tai gây cảm giác khó chịu: “Quái đản”, tính thao tác”, “sự thức nhận”… (Tôi xếp vào loại này cả những từ to tát không cần thiết khác như vượt gộp", "thao tác luận"... rất nhiều trong các bài viết của ông). Mặc dù thú vị, bài viết này, theo tôi, có nhiều điểm chưa thích đáng, cả trong các nhận định lẫn trong thao tác khoa học. Sau khi đưa ra những đòi hỏi cho một định nghĩa thơ là :

1. Có giá trị phổ quát, tức là áp .dụng cho mọi hiện tượng gọi là thơ trên trái đất này, bất chấp ngôn ngữ, thời gian. tập quán, trường phái...
2. Mang tính hình thức, giúp người ta nhận diện được ngay thơ để làm thơ, đọc tho, giảng thơ có kết quả" và khẳng định: "Các công trình ngôn ngữ học nước ngoài như tôi theo dõi, quan tâm, không phải tới điểm thơ là gì mà cái nên thơ (le poétique) là gì", ông đưa ra định nghĩa của mình: "Thơ là một cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc và, phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức này.

Ông giải thích từ “quái đản" như sau:
"Nói rằng hình thức tổ chức ngôn ngữ của thơ hết sức quái đản là nói rằng trong ngôn ngữ giao tiếp không ai tổ chức ngôn ngữ như thế. Trong' ngôn ngữ hằng ngày, chẳng ai tổ chức ngôn ngữ thẹo âm tiết, vần, nhịp, khổ, số câu, niêm luật... hết".
Trước hết, tác giả sử dụng cụm từ "như tôi theo dõi" là để giảm bớt tính chất võ đoán của kết luận. Nhưng nó vẫn còn đó: rất nhiều công trình ngôn ngữ học, như các từ điên giải nghĩa từ điển Oxford hay Larollsse rõ ràng là những công trình ngôn ngữ học mà chắc chắn là một dịch giá cỡ Phan Ngọc không thể không biết - đều đưa ra định nghĩa thơ. Hẵng khoan bàn chuyện đúng sai, tôi chỉ lưu ý rằng ờ đây tác già uyển chuyển dẫn từ một nhận xét chủ quan ("như tôi theo dõi",) sang một kết luận có vẻ khách quan rằng vấn đề nhơ là gì" chưa được ai trước ông nghiên cứu. Ở đây có vấn đề ngôn ngữ. Theo tôi, ông Phan Ngọc dịch từ "le poétique" thành "nên thơ" là không hoàn toàn chính xác. "Le poétique" là một tính từ được danh từ hoá, đúng hơn nó có nghĩa là “bản chất thơ", “nên thơ", "đặc tính của thơ", tức là cái làm cho một văn bản là thơ, và đúng hơn nữa phải dịch là "Thơ". Điêu này cũng tương tự như "le beaut" có nghĩa là "cái đẹp" chứ không phải là "có vẻ như là đẹp", hay "le fantastique" là "cái kỳ ảo", "sự kỳ ảo" chứ không phải là "có vẻ kỳ ảo". Trong tiếng Việt, từ "nên thơ" hàm nghĩa "có vẻ thơ nhưng không phải là thơ", gần giống từ "thị vị". .như khi ta nói, phong cảnh nên thơ". Vì thế định nghĩa "le poétique" chính là định nghĩa thơ chứ không phải là định nghĩa cái nên thơ. Ví dụ, người ta có thê áp đụng mô hình: "Thơ là một văn bản mang đặc tính của thơ. Đặc tính của thơ là ..."
Ở đây tác giả đã rơi vào cái bẫy dịch thuật do chính ông tạo ra.

Chỗ khác, ông khẳng định rằng hình thức cân đối tạo nên hàm nghĩa "hiện tượng chung mang tính chất thói quen thường gặp trong xã hội"- rằng hàm nghĩa này "nằm trong hình thức câu, ở đâu có hình thức cân thì có nghĩa ấy" và ông lấy câu "Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng" làm dẫn chứng.

Tôi nghĩ rằng ở đây có sự nhầm lẫn. Câu dẫn trên là một thành ngữ, và cái hàm nghĩa ông Phan Ngọc nói đến chính là hàm nghĩa của thành ngữ đó. Điều này cũng tương tự như khi ta dẫn ra một điển tích. Và ta có thể nói rằng thành ngữ cũng là một dạng điển tích. Khi ta nói: "Anh ta vừa tậu được một con ngựa thành Troy" thì đâu phải là nói về con ngựa thành Troy! Trên thực tế, có vô số cấu trúc cân đối hoàn toàn không làm nảy sinh ra hàm nghĩa mà ông Phan Ngọc mô tả. Hãy thử xét những câu nói trong đời sống hàng ngày như : "Các bạn nam đứng bên trái, các bạn nữ đứng bên phải". Hãy thử xét câu đối, như : "Kia mấy cây mía; Có vài cái vò". Ta cũng có thể dẫn ra những câu văn biền ngẫu trong văn chương Việt Nam và 'Trung Quốc. Chúng không hề làm cho "nghĩa của thông báo" lập tức thay đổi như khẳng định của ông Phan Ngọc.

Bây giờ ta xem xét chính định nghĩa của ông. Chẳng cần phải mất nhiều công sức cũng có thể thấy rằng định nghĩa này không chặt chế. Không chặt chẽ bởi nếu điều kiện.đủ để một văn bản là được gọi là thơ là có "tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc và, phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức này" thì một câu đối - mà tổ chức ngôn ngữ còn quái đản hơn nhiều: luôn luôn chỉ có hai câu, đối nhau cả về từ loại, ngữ nghĩa, ngữ âm, điển tích đến những trò chơi chữ...; và cũng "bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc và, phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức này" - có phải là thơ không? Và, trái lại, những bài thơ tự do, nhất là những bài thơ văn xuôi, với tổ chức ngôn ngữ giống hệt những bài văn xuôi, có phải là thơ không?

Xin bàn đôi chút về cách giải thích từ "quái đản" của ông. Mọi ngôn ngữ sử dụng trong những lĩnh vực khác nhau đều có những nguyên tắc riêng mà trong ngôn ngữ giao tiếp không ai tổ chức ngôn ngữ như thế. Liệu có ai trong cuộc sống hàng ngày luôn luôn nói ở ngôi thứ ba số ít hay không? Liệu có ai nói bằng nhiều ngôi và nhiều vài, liên tục trong hàng trăm, thậm chí hàng ngàn trang không?

Đó là tôi chưa nói đến thứ văn biền ngẫu. Đó là tôi chưa nói đến văn vần trong truyện nôm. Đó là tôi chưa nói nên thứ văn chương của những nhà tiểu thuyết mới ở Pháp. Tôi xin lỗi các dịch giả khi phải nhắc lại một điều sơ đẳng là trong tiếng Pháp, khi viết tiểu thuyết người ta thường dùng động từ ở thì quá khứ đơn giản (passé simple) còn trong cuộc sống hàng ngày người ta dùng quá khứ phức hợp (passé composé). Vậy tô chức ngôn ngữ trong tiểu thuyết cũng hết sức quái đản, trong ngôn ngữ giao tiếp không ai tổ chức ngôn ngữ như thế. Và tiểu thuyết, tôi giả thiết đó là một cuốn tiểu thuyết hay, cũng "bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc và, phải suy nghĩ". Cuốn tiểu thuyết ấy có phải là thơ không?

Bài viết còn nhiều lập luận không chặt chẽ, khiên cưỡng thậm chí giả tạo khác. Chẳng hạn khi ông nói vê "thơ tự do nhìn như văn xuôi":

"Nhà thơ bỏ sự gò bó bên ngoài về hình thức, không phải để quay trở về văn xuôi, mà chấp nhận những gò bó khác, ở cấp độ cú pháp và từ vựng. Bài thơ của anh ta phải mới lạ về nội dung tư tưởng và tạo nên những liên hệ tư tưởng bất ngờ, do cách dùng chữ mang tính nên thơ. Tóm lại, đây vẫn là một cách tổ chức ngôn ngữ khác thường. Tại sao nội dung tư tưởng mới lạ và những liên hệ tư tưởng bất ngờ lại "do cách đùng chữ mang tính nên thơ", nhất là trong một văn bản "như văn xuôi" được? Một nội dung tư tưởng mới lạ có thể được biểu đạt chẳng cần cái tính nên thơ để mới lạ. Và thế nào là tính nên thơ? Phải chăng ông Phan Ngọc định nói đến sự mượt mà? Hay cách chơi chữ và những thủ pháp đại loại như thế? - Nhưng xin lưu ý răng chúng ta đang nói về thơ tự do, thứ thơ "thậm chí có vẻ lủng củng". Ta sẽ nói sao về những bài thơ rất mới mà chỉ dùng những từ ngữ thông thường, hay thậm chí là từ ngữ địa phương, bài Nhớ của Hồng Nguyên hay bài Nhớ máu của Trần Mai Ninh chẳng hạn?

Tôi xin nói thêm một nhận xét cá nhân: trong nhiều trường hợp, khi dịch thơ, những bản địch nghĩa (địch thô) chưa hề có vần, nhịp...lại hay hơn, "thơ" hơn so với bản dịch đã hoàn chỉnh.

Rõ ràng là định nghĩa của ông không thoả mãn được đòi hỏi đầu tiên do chính ông đặt ra là "Có giá trị phổ quát, tức là áp dụng cho mọi hiện tượng gọi là thơ trên trái đất này, bất chấp ngôn ngữ, thời gian, tập quán, trường phái”.

Ảo ảnh của các định nghĩa

Thực ra Phan Ngọc không phải là người đầu tiên thất bại. cũng không phải là người thất bại nặng nề nhất, khi cố gắng định nghĩa thơ. Bài viết của ông chứa đựng những sai lầm rất căn bản và cũng rất phổ thông. Đó chính là lý do khiến tôi lựa chọn bài viết của ông để phân tích.

Trước khi định nghĩa thơ, chúng ta phải xem xét lại chính khái niệm về định nghĩa. Theo tôi, quan niệm về định nghĩa của ông Phan Ngọc là một quan niệm vừa máy móc vừa không tưởng. Khi viết rằng một "Định nghĩa thơ" phải "Có giá trị phổ quát, tức là áp dụng cho mọi hiện tượng gọi là thơ trên trái đất này, bất chấp ngôn ngữ, thời gian, tập quán, trường phái", rằng nó phải "giúp người ta nhận diện được ngay thơ để làm thơ, đọc thơ, giảng thơ có kết quả", ông Phan Ngọc đòi hỏi rằng "Định nghĩa thơ" phải tuyệt đối khách quan, phi lịch sử, chính xác và cụ thể. Liệu một định nghĩa như thế tồn tại hay không?

Chúng ta hãy cùng xem các định nghĩa được thực hiện như thế nào.

Xin lấy một ví dụ rất gần gũi, khái niệm "Nhà văn Việt Nam" và "Nhà văn Pháp". Một nhà văn có cha mẹ ông bà định cư lâu đời trên đất Việt, bản thân anh ta sinh ra và lớn lên trên đất Việt và viết văn bằng tiếng Việt, đĩ nhiên là nhà văn Việt Nam. Nếu anh ta có sáng tác bằng tiếng Pháp, anh ta vẫn cứ là nhà văn Việt Nam, tuy rằng đã bớt Việt Nam đi đôi chút: anh ta là "nhà văn Việt Nam viết tiếng Pháp". Nếu anh ta có cha Việt mẹ Pháp và viết văn bằng tiếng Việt, anh ta nói chung vẫn là nhà văn Việt Nam. Nếu cả gia đình anh ta định cư tại Pháp từ nhỏ và anh ta viết văn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp như nhau, cán cân đã lệch về phía Pháp, dù phần "Việt" trong anh ta vẫn còn đáng kể. Nhưng nếu anh ta viết tiếng Việt rất tồi so với tiếng Pháp, phần "Việt" trong anh ta sẽ chẳng còn lại bao nhiêu. Cuối cùng, nếu cha mẹ ông bà anh ta là người Pháp và anh ta viết bằng tiếng Pháp, dĩ nhiên anh ta là nhà văn Pháp. Đó là chưa kể những tình huống phức tạp hơn: một người có bố Việt, mẹ Pháp, sinh ra ở Trung Quốc nhưng lại lớn lên và mang quốc tịch Hoa Kỳ...

Ta thấy rằng từ hai phía, hai thái cực chúng ta có hai khái niệm lý tưởng: Nhà văn Việt Nam thuần tuý và Nhà văn Pháp thuần tuý, ở giữa hai thái cực đó là vô số những cấp độ trung gian: nhà văn Việt Nam chịu ảnh hưởng của Pháp, nhà văn Việt Nam có một phần dòng máu Pháp, nhà văn Pháp gốc Việt, nhà văn Pháp có một phần dòng máu Việt Nam...

Thực ra đó chỉ là cách mô tả trực quan và giản lược, bởi lẽ còn có rất nhiều yếu tố chính trị, văn hoá, lịch sử, tôn giáo, tâm lý, sinh lý... khác ảnh hưởng đến việc phân loại, khiến cho nó luôn luôn chỉ là tương đối và nhiều khi là không thể nào thực hiện được. Và điều này không phải chỉ là những khó khăn thuần tuý lý thuyết. Tôi từng gặp nhiều người gốc Việt về thăm quê hương mà không biết lấy một từ tiếng Việt. Tôi cũng từng gặp những công dân Hoa Kỳ nói giọng Sài Gòn phẫn nộ vì bị coi là người Việt Nam!

Định nghĩa chỉ có thể tuyệt đối khách quan và rõ ràng trong hai trường hợp. Thứ nhất, nếu nó dựa trên một hay một vài dấu hiệu cụ thể nào đó, ví dụ ta có thể định nghĩa “Người Việt”, như là "người có quốc tịch Việt Nam". Các định nghĩa kiểu này chỉ thoả mãn được đòi hỏi của một ]oại công việc cụ thể, như ở đây là công việc của nhân viên hải quan; Thứ hai, nó dựa trên những tiêu chí mang tính tuyệt đối trong rất nhiều trường hợp là sự đối lập tuyệt đối hai thái cực giả định. Chẳng hạn trong ví dụ trên, ta phải định nghĩa "nhà văn Việt Nam" (đối lập với “Nhà văn ngoại quốc") như là nhà văn có dòng máu thuần Việt, cư trú tại Việt Nam, mang quốc tịch Việt Nam, chỉ viết văn bằng tiếng Việt và chỉ chịu ảnh hưởng của văn hoá Việt Nam... Một định nghĩa như vậy chắc chắn là hết sức triệt để, bởi lẽ chỉ cần anh ta viết một câu thơ, một từ bằng ngoại ngữ, hay thậm chí chỉ cần anh ta chịu chút ít ảnh hưởng của nước ngoài, anh ta đã không còn là nhà văn Việt Nam thuần túy!

Bạn có thể phản bác rằng một định nghĩa lý tưởng như thế sẽ quá trừu tượng và không có lợi ích gì. Tôi nghĩ ngược lại là đằng khác. Định nghĩa đường trong hình học như là một cái gì đó chỉ có chiều dài mà không có chiều ngang, chẳng hạn, là một định nghĩa lý tưởng. Nhưng dù chưa và sẽ chẳng bao giờ có một ai được thấy một đường thực sự, chắc chắn nó không trừu tượng hơn và chắc chắn nó có ích lợi hơn việc định nghĩa đường như là một cái gì đó có chiều dài nhưng thiết diện không vượt quá một số đo cụ thể nhất định. Tại sao như vậy? Ta có thể tham khảo cách lý giải độc đáo của Platon, rằng mọi ý niệm tuyệt đối đã từng tồn tại và ý thức của chúng ta chỉ làm một việc là nhớ lại những gì đã bị lãng quên.

Tôi xin đề xuất một lý giải khác. Tôi cho rằng vấn đề nằm ở chỗ những định nghĩa dựa trên các tiêu chí định lượng chỉ có thể áp dụng cho các khái niệm mang tính định lượng. hoặc những khái niệm cụ thể, hạn hẹp, ví dụ định nghĩa "học sinh giỏi" là học sinh thi đạt từ 8,5 điểm trở lên, người "vị thành niên" là người dưới 18 tuổi hay ví dụ về người có quốc tịch Việt Nam vừa nói ở trên... Những định nghĩa như thế rất có ích trong thực tế: nhưng thường máy móc và không có giá trị phổ quát. Mức điểm để đạt được danh hiệu "học sinh giỏi" tay thuộc vào từng trường. từng thời kỳ và cách tính điểm... Và mọi học sinh đại mức điểm đó đều đoạt danh hiệu học sinh giỏi, nhưng chưa chắc đã là học sinh giỏi thực sự.

Đối với các khái niệm định tính, chúng ta chỉ có thể định nghĩa bằng cách đưa ra những tiêu chí định tính. Chẳng hạn chúng ta có thể định nghĩa “học sinh giỏi" là một học sinh có đầu óc thông minh vượt xa các bạn, luôn luôn hiểu bài và sáng tạo trong suy nghĩ, luôn luôn khiến thầy cô giáo phải hài lòng về kết quả học tập hiếm có của mình...Chắc chắn cách định nghĩa như vậy là khá mơ hồ. Nhưng nhìn nhận một cách tinh táo, chúng ta thấy rằng chính bằng cách ấy mà chúng ta định nghĩa hầu hết các sự vật và hiện tượng: điểm, mặt phẳng, chân không, tổ quốc, hiện tại, cái tốt, cái xấu... và cả tình yêu nữa.

Nhân nói về tính lý tưởng của các định nghĩa, tôi muốn nói thêm đôi điều về định nghĩa "Cái đẹp". Từ nhỏ, tôi đã được nghe rất nhiều người nói rằng cái đẹp có ba thành tố là "Chân", "Thiện", "Mỹ" liên quan với nhau khăng khít. Nhưng Mỹ chính là Đẹp. Tôi không biết ai là người đầu tiên nói đến ba khái niệm này, và cũng không biết có thực là người đó lý giải về chúng như ba thành tố của cái đẹp hay không, nhưng vẫn thường tự hỏi, tại sao Cái đẹp lại bao gồm Cái đẹp và hai cái khác? Mãi sau này, khi đọc Platon, tôi tìm thấy một cách hiểu hoàn toàn khác, trong đó "Chân”, "Thiện", "Mỹ" đúng là liên quan với nhau khăng khít, nhưng hoàn toàn không phải là ba thành tố của Cái đẹp. Quan niệm của ông, thường được hình dung qua cái gọi là Kim tự tháp Platon, có thể tóm tắt như sau: Khi tiếp xúc với một sự vật, cái đầu tiên chúng ta cảm nhận được là những gì có thật. Chẳng hạn, khi gặp một cô gái, chúng ta sẽ nhận biết những đặc điểm có thật ở cô ta, như dáng người, màu mắt, nước da, mái tóc... Từ những đặc điểm có thật đó, chúng ta sẽ rút ra được những đặc điểm nào của đối tượng là tốt là hài hoà, nói cách khác, là "thiện". Ở đây, thiện được hiểu theo nghĩa rộng, như là đúng, hợp lý. Ở trường hợp trên, khi yêu một cô gái cụ thể, người ta sẽ cảm nhận những tính tốt, những điểm hài hoà ở cô. Thế rồi, từ những nét đẹp, tốt ở những đối tượng cụ thể, người ta có thể hình dung về một đối tượng hoàn mỹ với tất cả các đặc điểm tốt đẹp. Một đối tượng được coi là Đẹp nếu tất cả các đặc điểm của nó đều hài hoà, đều tốt, hay đều "thiện". Như vậy, có thể thấy rằng Đẹp là một khái niệm lý tưởng, người ta chỉ có thể cảm thấy, hình dung thấy và dần dần tiếp cận, chứ không bao giờ có thể đạt tới hoàn toàn.

Xin trở lại với vấn đề của chúng ta. Sai lầm của ông Phan Ngọc nằm ở ảo tưởng về một định nghĩa vừa mang tính định lượng và cụ thể lại vừa phổ quát và tuyệt đối trong khi các định nghĩa chỉ có thể phổ quát và tuyệt đối nếu như nó dựa trên những tiêu chí định tính và vì thế luôn luôn mang tính lý tưởng. Thơ ca cũng không phải là ngoại lệ. Chúng ta không bao giờ có thể đưa ra một hay một vài tiêu chí cụ thể để xác định một văn bản có phải là thơ hay không. Cái chúng ta có thể làm là đưa ra định nghĩa thơ thuần tuý, một khái niệm thực ra là lý tưởng, bằng cách đối lập nó với một thái cực khác, một khái niệm lý tưởng khác, mà thôi.

Thơ và truyện

Vậy đối lập với thơ là gì?

Rất nhiều người nghĩ đến văn xuôi. Ông Phan Ngọc, trong bài Thơ là gì vừa nhắc ở trên, cũng vậy. Ông viết: "Ta chỉ nghe nói những lời hoa mỹ về ngôn ngữ này (tức "ngôn ngữ quái đản"-NTL), mà không thấy một sự đối lập thích đáng (pertinent) giữa thơ và văn xuôi.

Ngoài sự không thích đáng của việc sử dụng từ pertinent hoàn toàn không sáng sủa hơn - nếu không nói là tù mù hơn - để giải thích cho từ thích đáng rất sáng sủa và chính xác của. tiếng Việt, câu văn này lại chứa đựng một nhầm lẫn rất phổ thông khác. Thơ dù ở phương Đông hay phương Tây, dù kim hay cổ đều có thể có vần hoặc không vần, truyện cũng không phải lúc nào cũng phải viết dưới dạng văn xuôi - Những truyện Nôm là bằng chứng không thể chối cãi.

Thật ra, cái đối lập của văn xuôi không phải là thơ mà là văn vần, còn cái đối lập của thơ là truyện. Sự đối lập của văn xuôi và văn vần là dựa trên sự khác nhau về tổ chức ngôn ngữ: âm tiết, vần, nhịp, khổ, số câu, niêm luật..., chính là cái mà ông Phan Ngọc gọi là "cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản" còn sự đối lập giữa thơ và truyện mới dựa vào. bản chất của chúng. Ta có thể tham khảo ý kiến của L.I
Timôphêép trong cuốn Nguyên lý lý luận văn học khi ông phân chia văn học thành ba loại: "Loại trữ tình biểu hiện một cách ngắn gọn tâm trạng cá biệt của con người, loại kể chuyện thuật lại cuộc sống của con người trong những biểu hiện ít nhiều phức tạp của nó trong các truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết; kịch không đùng ngôn ngữ tự sự, mà giới thiệu các nhân vật qua những hành động". Trong bài viết Những đường bay của mê lộ tôi đã có ý kiến về cách phân loại này, chỉ xin nhận xét thêm rằng các thể văn gọi là trữ tình và kể chuyện (tự sự) của L.I. Timôphêép rất gần với các khái niệm thơ và truyện mà tôi vừa nói.

Trên thực tế, không bao giờ có thơ hay truyện thuần tuý. Mọi bài thơ đều ít nhiều có tính truyện và mọi văn bản thuộc loại truyện đều ít nhiều có tính thơ. Bây giờ, nếu chúng ta thử thực hiện phép đối lập để phân biệt một văn bản thơ với một văn bản truyện thì phải hiểu rằng chúng ta đang nói đến một văn bản thơ thuần tuý và một văn bản truyện thuần tủy. Theo tôi, sự khác nhau cơ bản giữa truyện và thơ là ở chỗ: ấn tượng thẩm mỹ mà truyện gây nên ở người đọc là ấn tượng “về một quá trình, còn ấn tượng thẩm mỹ mà thơ tạo ra ở người đọc là ấn tượng về một trạng thái. Nói cách khác, ấn tượng thẩm mỹ ở truyện mang tính thời gian, còn ở thơ thì phi thời gian. Chúng ta hãy thử khảo sát bốn tình huống sau đây.

1 Đội bóng đá của những người cùng khổ có tên là "Nước mắt" thi đấu với một đội bóng khác. Một cổ động viên của các cầu thủ có hoàn cảnh không may tuyên bố: "Tôi đứng về phe “nước mắt”.
2. Một nhà cách mạng bênh vực quyền lợi cho những người bị áp bức. ông nói trong một cuộc, trả lời phỏng vấn: "Tôi đứng về phe nước mắt".
3. Một người viết nội dung câu đó dưới một nhan đề:
Để ghi lên mộ chí sau này
Tôi đứng về phe nước mắt.
4. Chúng ta chọn một nhan đề và viết thêm:

Trận đấu

Tôi đứng về phe "Nước mắt". "Nước mắt" thua. Về sau tôi mới biết rằng họ nhận tiền để làm điều đó.
Trong trường hợp đầu. đó là câu thông báo về một thái độ hoặc một hành động cụ thể đối với một đối tượng cụ thể - một đội bóng đá.
Trong trường hợp thứ hai, đối tượng trừu tượng hơn, nhưng nội đung thông báo vẫn là một hành động - thể hiện thái độ bênh vực những người cùng khổ. Cả hai đều chỉ là những thông báo thông thường.

Trường hợp thứ ba là một bài thơ. Và tác giả bài thơ ấy là Dương Tường.

Cái gì làm cho nó trở thành thơ? Rõ ràng trong trường hợp này không phải là vần điệu hay những yếu tố tổ chức ngôn ngữ. Sự khác nhau chắc chắn nằm ở ấn tượng thẩm mỹ mà văn bản tạo ra ở người đọc. Bài thơ của Dương Tường có nói đến một hành động, nhưng đó không còn là một hành động cụ thể, có thật. Và nội dung thật của nó cũng không phải là sự thông báo về hành động ấy nữa. Nội dung thật của nó là một trạng thái tình cảm. Chính cái nhan đề, "Để sau này ghi lên mộ chí' đã xoá bỏ tính cụ thể về thời gian và của cái hành động "đứng về phe nước mắt", biến nó thành ẩn dụ cho một trạng thái tình cảm, hay xa hơn là một nhân cách. Một cảm giác phi thời gian, ta có thể nói vậy. Và nó trở thành thơ.

Trong trường hợp thứ tư, chúng ta có một truyện. Có thể bạn chê nó nhạt nhẽo, nhưng chắc chắn là nó có một câu chuyện, một cốt truyện như ta thường nói. Và cốt truyện ấy được hình thành nhờ một chuỗi các sự kiện nối tiếp nhau theo một trình tự thời gian nào đó. Xin lưu ý rằng trật tự thời gian ở đây là trật tự thời gian tác phẩm, không phải là thứ thời gian tự nhiên mà ta thường nghĩ luôn luôn chảy từ quá khứ qua hiện tại đến tương lai. Thời gian đồng hiện, chẳng hạn, cũng là một thứ trật tự thời gian.

Cũng cần phải nói thêm rằng, một cách tự nhiên, một quá trình phải có nhiều sự kiện, nghĩa là phải trải qua nhiều trạng thái. Tuy vậy, chúng ta có thể lường trước những trường hợp đặc biệt, khi quá trình chỉ có một sự kiện duy nhất. Khi đó nó cũng chính là một trạng thái. Đó chính là nơi thơ và truyện gặp nhau. Tôi biết rằng nói như vậy vẫn còn chưa đủ sáng tỏ. Tôi đề nghị chúng ta hãy khảo sát thêm một ví dụ khác, một bài ca dao, thực ra là một bài thơ dân gian nổi tiếng:

Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em lấy chồng anh tiếc lắm thay
Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh không hỏi những ngày còn không...

Cái đầu tiên chúng ta có thể nhận thấy là bài thơ liệt kê rất nhiều hành động nhưng các hành động này lại chẳng hề thông báo một sự kiện hay quá trình nào. Cái mà những câu thơ này thực sự mang tải là một trạng thái tinh thần: nỗi luyến tiếc đầy chua xót của kẻ thất tình. Thật vậy, hãy thử thay đổi trật tự của các câu, chẳng hạn:

Trầu cay ba đồng một mớ
Nụ tầm xuân xanh biếc nở ra
Nụ tầm xuân nở giữa vườn cà
Anh trèo lên hái hoa cây bưởi
Ngày còn không sao anh không hỏi
Em lấy chồng anh tiếc lắm thay

Hãy bỏ qua sự so sánh bài nào hay hơn bài nào, ta có thể thấy rằng phương án !hứ hai vẫn cứ là một bài thơ, và hơn thế nữa, ấn tượng về nỗi luyến tiếc đầy chua xót của kẻ thất tình gieo vào tâm trí độc giả gần như không hề thay đổi ấn tượng ấy phi thời gian, và vì thế nó vẫn nguyên vẹn cả khi chúng ta chỉ đọc một phần, một câu hay khi chúng ta xáo trộn trật tự các câu như chúng ta đã thấy.

Những điều vừa nói không thể có ở truyện.

Sự đảo lộn trật tự các câu trong một cuốn tiểu thuyết, chẳng hạn, đồng nghĩa với sự huỷ hoại nó. Chúng ta cũng không thể đọc một câu trong một truyện ngắn để cảm nhận cái hay của truyện ngắn ấy. Nếu có một câu hay, thì đó là cái hay của thơ. Truyện, tôi xin nhắc lại, là nghệ thuật ngôn từ dựa trên cảm giác của chúng ta về quá trình, và vì thế thời gian luôn luôn hiện diện.

Tất nhiên, những nghiên cứu của chúng ta là những nghiên cứu đã được mô hình hoá. Chúng ta cũng không được nhầm lẫn giữa bài thơ thuần túy với bài thơ hay. Một ngôi nhà thuần tuý khác hẳn một chiếc xe thuần tuý. Nhưng điều đó không đảm bảo rằng một ngôi nhà thuần tuý không thô kệch, xấu xí, cũng như nó không hề ngăn cản chiếc xe - nhà của các kiến trúc sư Hoa Kỳ trở thành một kiệt tác kiến trúc. Thêm nữa, chúng ta cũng cần lưu ý rằng văn học bao giờ cũng có một xu hướng hoà trộn các thể loại, các trào lưu, các thủ pháp và cả các chủ đề.

Có thể các bạn sẽ đòi hỏi tôi đưa ra những ví dụ trực quan về thơ và truyện, kiểu như sợi chỉ căng thẳng là ví dụ trực quan về đường mà tôi đã nói. Tôi cho rằng truyện trinh thám là thể loại gần với truyện thuần tuý nhất. Ở đó cốt truyện ngự trị. ở đó thời gian là chúa tể. Còn thơ? Tôi cho rằng các nhà thơ siêu thực có thể là một ví dụ không tồi, cho dù theo tôi, di sản thơ của họ không phải là nhiều kiệt tác. Ta cũng có thể chọn nhiều ví dụ khác, như bài thơ Bóng chữ của Lê Đạt, khi nhà thơ nói mà không kể về bất cứ điều gì cụ thể. Thi ca là hiện tại, đó là lời của Oetavio Paz dưới ngòi bút Charles Simic. Tôi tin rằng Paz đã nói hơi khác: thi ca là khoảnh khắc ngừng lại của thời gian.

Thời gian ngừng lại, hay nói đúng hơn: thời gian đã chết. Nhưng đó là một cái chết màu nhiệm, chết để hoá thân thành thi ca. Và, nếu được phúc lành của Chúa, chết để có thể hoá thành vĩnh cửu.

_________________________________________________

Một số bài thơ Hoàng Cầm

Hoàng Cầm, Tên khai sinh: Bùi Tằng Việt, sinh ngày 22 tháng 2 năm 1922, tại Bắc Giang, quê gốc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Hiện sống ở Hà Nội. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957), mất ngày 6.5.2010 tại Hà Nội.

Tác phẩm xuất bản: “Hận ngày xanh” (phóng tác theo Lamartine 1940); “Bông sen trắng” (phóng tác theo Andersen 1940); “Cây đèn thần” (phóng tác theo “Nghìn lẻ một đêm”, 1941); “Tỉnh giấc mơ vua” (phóng tác theo “Nghìn lẻ một đêm”, 1942); “Thoi mộng” (truyện vừa, 1941); “Hận Nam Quan” (kịch thơ, 1944, 1942); Bốn truyện ngắn (đăng tiểu thuyết thứ bảy từ 1930 đến 1943);

“Ông cụ Liên” (kịch nói, 1952); “Đêm Lào Cai” (kịch nói 3 hồi, 1957); “Tiếng hát quan họ” (trường ca, in chung trong tập Cửa Biển, 1956);

“Những niềm tin” (thơ dịch của Bonalan Kanfa - Algérie, 1965); “Men đá vàng” (truyện thơ, 1989); “Tương lai” (kịch thơ, 1995); “Kiều Loan” (kịch thơ 3 hồi, 1992); “Mưa Thuận Thành” (tập thơ, 1991); “Lá diêu bông” (tập thơ, 1993); “Bên kia sông Đuống” (tập thơ chọn lọc, 1993); “Về Kinh Bắc” (tập thơ, 1994); “99 tình khúc” (tập thơ tình, 1995) và một số tập thơ, văn khác.

Mưa Thuận Thành

Nhớ mưa Thuận Thành
Long lanh mắt ướt
Là mưa ái phi
Tơ tằm óng chuốt
Ngón tay trắng nuột
Nâng bồng Thiên Thai

Mưa chạm ngõ ngoài
Chùm cau tóc xoã
Miệng cười kẽ lá
Mưa nhoà gương soi

Phủ Chúa mưa lơi
Cung Vua mưa chơi
Lên ngôi Hoàng hậu
Cứ mưa Thuận Thành
Giọt mưa chưa đậu
Vai trần Ỷ lan

Mưa còn khép nép
Nhẹ rung tơ đàn
Lách qua cửa hẹp
Mưa càng chứa chan

Ngoài bến Luy Lâu
Tóc mưa nghiêng đầu
Vành khăn lỏng lẻo
Hạt mưa chèo bẻo
Nhạt nắng xiên khoai
Hạt mưa hoa nhài
Tàn đêm kỹ nữ
Hạt mưa sành sứ
Vỡ gạch Bát Tràng
Hai mảnh đa mang

Chiều khô lá ngải
Mưa gái thương chồng
Ướt đầm nắng quái
Sang đò cạn sông

Mưa chuông chùa lặn
Về bến trai tơ
Chùa Dâu ni cô
Sao còn thẩn thơ
Sao còn ngơ ngẩn
Không về kinh đô

Mưa ngồi cổng vắng
Mưa nằm lẳng lặng
Hỏi gì xin thưa
Nhớ lụa mưa lùa
Sồi non yếm tơ

Thuận Thành đang mưa...
+++

Bên kia sông Đuống
(Trích)

Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ

Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

..........
Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai

Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em xột xoạt quần nâu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
Bãi Tràm chỉ người dăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa màu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?
..........
Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương
………
Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trảy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh

Việt Bắc tháng 4.1948

+++

Cuộc lưu đày vương giả
(Nhớ chuyện Công chúa Huyền Trân, đời nhà Trần)

Một đi biền biệt về Nam
Như rơi một đoá hoa vàng giữa xuân
Ý hoàng gia dám ngại ngần
Một vì nghiệp đế trăm lần dân thương
Lên xe có kịp mẹ ôm?
Người yêu có kịp lệ buồn chia xa?
Một thân thui thủi quan hà
Bốn phương mây trắng nắng nhoà quê hương
Khóc sao dềnh sóng đại dương?
Hận sao nghi ngút Trường Sơn nghìn trùng?
Đi bao giờ tới cõi không?
Đồ Bàn đâu biết tận cùng hư vô?
Hai châu Ô Lý hoang sơ
Nâng chân Công chúa sạt bờ chiến chinh
Biên cương rộng mơ thanh bình
Hỏi sao hoàng hậu Chiêm Thành hoá câm?
Tên phố giờ cũng xa xăm
Còn ai sẻ nỗi đau thầm nghìn xưa?

Mùa lạnh 2005

++

Theo đuổi

Em ơi thử đếm mấy giêng hai
Đêm hội Lim về
đê quai rảo bước
Đuổi tà lụa nhạt
ánh trăng đầm thấm đường sương

Ấy bởi thương em
vườn khô bỏ ngỏ
Gió vào ra bưởi trụi hồng thui
Ấy bởi thương em
mái nhà um cỏ
Chim vào ra vách đứng cột ngồi

Em về đồng chiêm đất rạn chân chim
Em đi mưa ngâu nước ngập đồi chè
Hồ nghe đêm hội ới a
Lại xót mắt em mi trường khép bóng
Lòng tay êm mái rừng tơ xa
Lại xót tay anh đêm trường ru võng
Rừng chân mây chưa động sấm quê nhà

Chân em dài đi không biết mỏi
Má em hồng em lại nổi
đồng mùa nước lụt mênh mông
Lưng thon thon cắm sào em đợi
Đào giếng sâu rồi
đừng lấp vội đầu xanh

Lý lý ơi khát khô cả giọng
Tình tình ơi chớ động mành thưa

Chìa vôi quệt gió hững hờ
Bờ ao sáo tắm bây giờ…
… hở em.


Quả vườn ổi

Nằm trên bãi cát thư tâm
Sông nước sinh thuyền Em đẩy tới
Có gió có buồm có dòng có lái
Trách gì ai xô giạt đến bờ hoang

Em mười hai tuổi tìm theo Chị
Qua cầu bà Sấm bến cô Mưa
Đi…
ngày tháng lui
tìm không thấy
Giải yếm lòng chai mải phất cờ
Cách nhà ba bước vào vườn ổi
chị xoạc cành ngang
em gốc cây
- Xin Chị một quả chín!
- Quả chín quá tầm tay
- Xin Chị một quả ương!
- Quả ương chim khoét thủng

Lẽo đẽo Em đi vườn mai sau
Cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng.

+++

Về với ta
Ta con bê vàng lạc dáng chiều xanh
đi mãi tìm sim chẳng chín
Ta lên đồi thông nằm miếu Hai Cô
gặm cỏ mưa phùn

Dóng dả gọi về đồng sương
đôi ba người lận đận
Đêm nay mẹ chẳng về chuồng
Ta con chào mào khát nước
Về vườn xưa hạt nhãn đã đâm mầm
Cây ổi giơ xương
chống đỡ mùa đông
xập về đánh úp
Ô này tám đỏ ra hoa

Ta con chim cu
về gù rặng tre
đưa nắng ấu thơ
về sân đất trắng
đưa mây lành những phương trời lạ
về tụ nóc cây rơm

Ta ru em
Lớn lên em đừng tìm mẹ
phía cơn mưa
Ta con phù du ao trời chật chội
đứng cánh bèo đo gió lặng tìm sao

Uống nước mắt con vành khuyên nhớ tổ
vừa rụng chiều nay
dềnh mặt nước hương sen

Ta soi
chỉ còn ta đạp lùi tinh tú
Ngủ say rồi
đôi cá đòng đong

+++

Ngủ vỉa hè

Thường đêm đày đoạ tấm thân
Để trong đói khát được gần em hơn

Dưới hiên mê chập ngủ chờn
Nghe anh xẩm nối giọng đờn đứt dây
Sương khuya mèo rú mái tây
Thôi Oanh Oanh rẽ lối này được không?

Bỗng dưng nước mắt ròng ròng
Hoá ra em trói chặt vòng tay anh
Đêm đi chậm quá không đành
Xích lô máy lạnh tung hoành…cơn đau…

Nhà em đâu? Anh ngủ đâu?
Ổ gà hạnh phúc giục mau gập ghềnh
Xe đời bẹp bánh chông chênh
- Vá cho tôi!
- Nắn lại vành mê si

__________________________________________________

_____________________________________________________________

Thứ Sáu, 28 tháng 5, 2010

Lưu Quang Vũ và khuynh hướng cách tân xa rời ẩn dụ thơ ca (1/2)

Khánh Phương

Lưu Quang Vũ là trường hợp đặc biệt, khi những chuyển dịch trong sáng tạo ngôn ngữ thơ của ông đến từ biến chuyển tự nhiên của tâm thức, chứ ít có liên quan trực tiếp đến những ảnh hưởng từ sách vở [1].

Tiếp sau thế hệ vàng, Trần Dần, Quang Dũng, Hữu Loan, Hoàng Cầm, Đặng Đình Hưng, Văn Cao… với những cách tân âm thầm, nhẫn nại xói mòn thứ cảm thức chiếu lệ và kiểu ngôn từ sáo rỗng, áp đặt cùng thời, Lưu Quang Vũ là nhà thơ duy nhất của miền Bắc tự tìm đến những phạm vi hiện thực khác biệt sâu sắc của thơ ca, làm phát lộ những đường biên mới mẻ trong con người sáng tạo, và bước đầu khơi mở một dòng ngôn ngữ vừa mang tính siêu thực - tượng trưng, vừa tiềm ẩn những lối phá vỡ kiểu trữ tình truyền thống, đạt tới lối biểu tượng hiện đại và đương đại.

Xét trên toàn bộ văn bản thơ, mật độ dùng lại những ẩn dụ truyền thống của Lưu Quang Vũ khá nhiều, liên tục và rộng khắp. Tuy nhiên, ngay cả trong những lối dùng ẩn dụ này, cũng đã hình thành một trường giao tiếp ngôn từ đặc biệt, mà chúng ta sẽ trở lại ý tưởng này sau đây. Những biến chuyển quan trọng nhất của ngôn ngữ thơ Lưu Quang Vũ tập trung ở thời kỳ sáng tác 1970 - 1975, và đó là phạm vi khảo sát căn bản của bài viết này.
***
Bi kịch của Lưu Quang Vũ, trên góc độ con người lịch sử, là bi kịch của lý tưởng làm người bị bội phản và xúc phạm. Tuy nhiên, điều chúng ta quan tâm hơn là con người sáng tạo của ông, chi phối mọi nhân cách khác. Lưu Quang Vũ viết thơ xuất phát từ tư duy lý tưởng hoá, nhưng không có gì liên quan đến những hình mẫu áp đặt duy lý. Lý tưởng hoá của ông gần gụi với bản năng tôn giáo, xuất phát từ nhu cầu nội tại, là sự hoá nhập trong sáng của kính ngưỡng và ham muốn, vừa kiếm tìm vừa chiếm hữu, vừa từ bỏ vừa khao khát

Đêm tối đen chiều hoang buồn tủi / người đàn bà ấy đến bên tôi / mắt mênh mông lặng lẽ ngón tay gầy / giọt mưa lạnh chảy dài trên má / ngọn đèn vàng ô kính vỡ / con ngựa gầy phiêu bạt thảo nguyên xa / Tôi lớn lên trong ngọn gió nhà ga / ngọn gió dữ của rừng già khắc nghiệt / bao giấc mộng gió đuổi về dĩ vãng / chỉ thổi bùng nỗi nhớ về em / bao lưỡi lê đỏ sẫm máu hoàng hôn / tường gạch đổ bao tờ lịch nát / tôi bôi xoá rất nhiều thề ước đẹp / riêng với em tôi chẳng phản bao giờ / Người đàn bà chơ vơ / đi vòng quanh chiếc đĩa hát khổng lồ / trong bản nhạc đợi chờ của Grich / gương mặt đẹp chập chờn sau lọ mực / khi âm thầm tôi viết những dòng thơ…

Điều dễ hiểu là lý tưởng làm người của Lưu Quang Vũ xuất phát từ sự lý tưởng hoá sáng tạo này, trở thành một phần sống động, không thể thiếu, trở lại lay động và thôi thúc con người sáng tạo. “Đạo đức” với Lưu Quang Vũ là sự thuần khiết của lý tưởng, là dâng hiến, nó là vấn đề của tâm hồn chứ không liên quan đến giáo lý. Chính vì thế, chưa bao giờ ông thoả hiệp [2] và cũng chưa bao giờ có tiếng nói đạo đức chung với môi trường bên ngoài.
Thơ Lưu Quang Vũ tráng lệ bởi thẩm mỹ lý tưởng:

Những ban mai xanh biếc tiếng đàn bầu

Nhưng điều quan trọng nhất là không còn một dấu vết nào của thế giới luận lý, của lối hình dung mang tính luận lý. Dòng thơ trữ tình Việt truyền thống vốn là một kiểu biến tướng qua lại giữa cảm xúc và logic luận lý, nên chưa bao giờ đi được tới những lãnh địa xa xôi của tâm thức, chưa vỡ vạc những dòng chảy hình ảnh lạ lùng, cảm hứng luôn bị bó hẹp trong những mô thức trữ tình đã mòn mỏi, xơ xác, kể cả với những tên tuổi Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên thời kỳ Thơ Mới [3].
Chỉ riêng đặc điểm kể trên đã đủ để xếp Lưu Quang Vũ là một trong những nhà cách tân hiện đại và đương đại sớm nhất của thơ miền Bắc.

Dòng thơ miền Bắc đương thời, tiếp nối truyền thống “thi dĩ ngôn chí” cổ văn, thừa kế rất ít những biến chuyển tư duy của Thơ Mới, coi lãnh vực đạo đức xã hội và quan hệ giữa con người là nội dung hiện thực cơ bản [4]. Trong khi đó Lưu Quang Vũ, bằng tâm hồn nhạy cảm mãnh liệt đã tạo ra một thế giới thơ gây chấn động, với xáo trộn, dằn vặt, âu lo, run rẩy, sợ hãi, khao khát, mặc dầu chưa tới mức cuồng nộ, nhưng là sự vượt thoát khỏi trạng thái cân bằng tâm lý và cảm xúc thông thường.

Chính sự dao động khỏi cái ổn định mà nhận thức thông thường bị khép vào, bị buộc thừa nhận như kiểu bản thể phổ biến trong trật tự trì trệ; hé lộ cái nhìn về phần bất an, nghịch dị, nổi loạn và phóng túng trong bản chất thiên phú của con người, mà thơ Lưu Quang Vũ trở nên hấp dẫn, quyến rũ với người đọc tại nhiều thời điểm.
Ham muốn thuần khiết, sự đổ vỡ của con người đạo đức, nỗi đau đớn âm thầm là những động lực chính yếu mạnh mẽ nhất thúc đẩy Lưu Quang Vũ xoá bỏ cái thực tại vật chất, cái gọi là “hiện tại” với số đông, phiêu dạt và hành hương tới những ranh giới của tiềm thức và vô thức, hút lấy cái vô biên kỳ diệu của những biểu tượng nguyên khối, và trở về trong lối biểu đạt thơ mới mẻ.

Cũng chính nỗi dằn vặt thường xuyên của một tâm hồn chỉ được nương nhờ vào sự mênh mông và khao khát, tự ý thức của riêng nó, đã dẫn ông tới những cửa ngõ vô biên
Tâm hồn anh dằn vặt cuộc đời anh / Thắp một ngọn đèn hồng như ánh lửa
Cho đến hiện tại, ít có nhà thơ Việt nào, dù đạt tới những đổi mới đáng nể về ngôn ngữ, thi pháp, có được một trực cảm mãnh liệt, phá huỷ, và nội tâm huyền ảo như Lưu Quang Vũ.
***
Cho đến thời đại Thơ Mới, những yếu tố siêu thực - tượng trưng đã xuất hiện khá rõ nét trong tư duy thơ của Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Vũ Hoàng Chương… nhưng chưa đảo lộn được nền móng ngôn ngữ cổ điển. Tương quan trung tâm của con người trong phối cảnh với thế giới khách thể, nhất là với các hình ảnh thiên nhiên, cho phép tạo ra những ẩn dụ tương đồng, một chiều, như “ lệ liễu”, “nét thu”, “áo mơ phai”, “ màu quan tái”, “ bến nước, con đò”, “ vầng trăng sẻ nửa”, “ gió mây”, “ bóng chim tăm cá”, “ bầu rượu túi thơ”, “dặm trường”, “ sóng lòng”, “ hoa tường liễu ngõ”, “đài gương dấu bèo”, “ con cá lá rau”… Lối ẩn dụ tương đồng này trói chặt cảm thức thi ca trong khuôn mẫu tương tác “tức cảnh sinh tình” và “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, thế giới khách thể mãi mãi là đối tượng tham chiếu một cách buồn tẻ với nội tâm con người, trong những vui buồn kiểu cảm thán, là hệ quả trực tiếp của sự kiện vật thể trong đời sống (ví dụ, đói nghèo hay chiến tranh, hay bất mãn với văn minh vật chất… ).

Lặn sâu vào những giấc mơ của tiềm thức, hay tìm đến mối tương hợp của các cảm giác, làm hiển hiện thế giới trước hết ở những hình ảnh giấc mơ hay cảm giác dịch chuyển, là một cách xoá bỏ ẩn dụ đơn nhất, xoá bỏ mối tương quan đối ảnh chán ngấy giữa con người và thế giới bên ngoài, đồng thời làm hiện hình một thế giới mà hình bóng, cảm giác từ “cái bên ngoài” đang chuyển hoá thành “cái bên trong”, thành nội tâm sâu, cao, rộng thăm thẳm của con người. Tư duy siêu thực - tượng trưng làm nhoè những vùng đơn nghĩa của ngôn từ và hình ảnh, tạo ra những trường nghĩa, trường biểu cảm mạnh mẽ, lay động.

Khách thể hoá, hay thơ khách thể, cực đoan và ở cấp độ cao nhất, xoá bỏ ẩn dụ đơn nghĩa. Không còn dấu vết của đối ảnh hay sự chuyển hoá giữa “bên ngoài” - “ bên trong”, mà cái khách quan không kịp lý giải, không qua “nhận thức”, tràn vào xâm lấn chủ thể; chủ thể trữ tình theo cách gọi quen thuộc, biến thành cái liên - chủ thể, bao gồm nhiều thực tại, nhiều mối tương tác mà kinh nghiệm cá thể cũng như hoạt động tinh thần đơn lẻ của một con người (cảm xúc, trực giác, lý tính ) không thể thâu tóm, định hình và trao cho các thực tại ấy một bản sắc đơn nhất. Thơ khách quan triệt để xoá bỏ “con đường vòng” ẩn dụ, đẩy ngôn ngữ thơ trở về hình thái biểu tượng ban đầu vốn tràn đầy của nó, nén chặt trong nội hàm các cấp độ thông tin khác nhau.

Thơ Lưu Quang Vũ xuất hiện cả hai yếu tố siêu thực- tượng trưng và khách thể hoá một cách dễ nhận biết, đậm đặc.

… Những ban mai xanh biếc tiếng đàn bầu
Bà hiền hậu têm trầu bên chõng nước
Em đi gặt trên cánh đồng cổ tích
Lúa bàng hoàng chín rực cả triền sông…


Hay:

Chúng ta ăn một quả dưa vàng
vào lúc mười hai giờ trưa mùa hạ nắng
nở bàng hoàng hoa tím khắp đường đi…
… Em tới làm gì có phải đúng em không
Cảng đã thêm những con tàu mới những manh buồm
con còng gió đã về với biển
hàng dương xanh loá mắt
chiếc dù mở đến mênh mông
màu da nâu lấp loáng không trung
vầng trán bàng hoàng xa thẳm…

Dòng chảy tâm thức khái hoạt xô vỡ hoàn toàn những đập chắn của trật tự vật lý và quan sát lý tính, từ không gian, sự vật, màu sắc, đường nét, hương vị, để câu thơ trở thành cảm giác và giấc mơ thuần túy. Sự đảo lộn cảm giác về không gian là một trong những yếu tố quan trọng để sắp đặt kiểu ngôn ngữ siêu thực - tượng trưng cũng như ngôn ngữ biểu tượng trong thơ Lưu Quang Vũ. Không còn cảm giác của con người đứng trên mặt đất nhìn không gian cao hơn đang mở ra, mà là con người hiện hữu ở những độ cao khác nhau, thu hết mênh mông từ nhiều chiều

Sao em chẳng cùng anh ra cửa biển
Mùa thu cao mây trắng xóa mênh mông


Những hình dung từ, trạng từ thông thường, trong không gian thơ Lưu Quang Vũ trở thành những kết hợp đa hướng, miêu tả đồng thời tâm thức và cảm giác “ngoại giới”, mà quan trọng hơn là tạo thành một trường - cảm giác trung gian, ở đó cái “bên ngoài” và “ bên trong” cùng chia sẻ, cùng trở thành kiểu chủ thể đa dạng thức.
Cảm giác không gian của Lưu Quang Vũ, ngoại trừ với những bài thơ “phóng sự”, “ ghi vội” năm 1972, và một vài trường hợp đặc biệt, cũng hạn chế tối đa miêu tả âm thanh, tiếng động, những bài còn lại gần như hoàn toàn triệt tiêu mô tả tiếng động bên ngoài cũng như cảm giác về tiếng động đó. Chỉ tồn tại âm nhạc của nội tâm vừa xô đẩy dồn nén, vừa mênh mông, mỗi lúc thêm trùng điệp, tỏa ra vô tận nhờ sự cắt đứt với âm thanh bên ngoài. Nhịp thơ Lưu Quang Vũ chưa hoàn toàn thoát khỏi vần điệu, nhưng một phần nhờ vần điệu, lại bao hàm cung cách tự do vô tận, nén chặt nội tâm, một thứ âm nhạc vô biên, “ nhạc trắng” (như cách nói của A. Baricco).
Gắn liền với yếu tố không gian, lối xây dựng hình ảnh trong thơ Lưu Quang Vũ mang những đột biến về tư duy, mà phía sau nó chính là sự bí ẩn của dòng biểu tượng mà chúng ta đang quan tâm.
Sự chiếm lĩnh của những yếu tố khách thể “ bất tri” vào dòng tâm thức diễn ra trên nhiều cấp độ. Yếu tố tự sự, như một cách phá vỡ dòng trữ tình cảm thán quen thuộc của thơ Việt, tràn vào thơ Lưu Quang Vũ không phải như một thực hành cố ý, mà giống như trạng thái “quá tải” của tâm thức.

Nửa đêm tới thành phố lạ gặp mưa
những vòm cây cao và tối
chúng ta đã gặp nhau chúng ta đã tới đây
tất cả điều này có vẻ gì không thực
đến bây giờ anh vẫn còn kinh ngạc
Em
con tàu về cảng mưa đêm
ngã tư ngô đồng rụng lá
con sông mờ thân cầu đổ
dãy nhà hoang ống khói âm thầm

Hay:

Anh lên xứ Đoài xưa / Ba vì mây trắng / nhớ mặt em gầy sau lá mưa / Lênh đênh bến nước Trung Hà / những chị buôn chè ngủ hè phố cũ / con bò gầy đói cỏ / đi trên đồng mê man / Những pho tượng gỗ chùa Phùng / thiêm thiếp dưới tầng lá mục / còm cõi bà già chợ huyện / khóc thời con gái thuốc lào say / ông tiến sĩ giấy ngồi chắp tay / ham rượu nên vua bỏ / hia rách áo hồng ủ rũ / Em mua về cho anh khuôn tượng dân gian / anh treo lên tường / nhìn mà thương em / thắp một tuần nhang / lau lại bức sơn dầu lấm bụi / cô Kiều đàn nguyệt tặng chàng Kim / Người họa sĩ nay giả điên / mặc áo mưa đi lang thang / giấy vụn lông chim dính đầy tóc bạc / Tranh đẹp chẳng ai mua / căn gác xép gió lùa / họa sĩ già nằm dưới pho tượng cổ / nghe trong đầu sóng vỗ / tiếng trẻ con thì thào / bàng hoàng thức dậy / ôm phích nước hát nghêu ngao / “người đẹp trong tranh chẳng có đâu / mong gì kỳ ngộ” / Em đừng thương anh nữa / anh đi lủi thủi trên đường / đánh mất lòng tin / tìm về bếp lửa / xem trẻ mục đồng múa trong tượng gỗ / những đôi vợ chồng cởi áo cho nhau / Bài thơ không đề / chép trên giấy bản / em cần gì giếng lạnh / tâm hồn anh cô quạnh dưới lòng sâu / Ngẩng lên biền biệt mây cao / cuộc đời thăm thẳm / tình anh như cỏ lau / tìm nhau trên đất vắng / nơi ấy em về mưa sẽ tạnh/ hoa cúc vàng nở trên cánh tay...

Câu thơ được lược bỏ hầu hết các tính từ, từ cảm thán, thay thế bằng những hình dung từ đa hướng, gia tăng các yếu tố thông báo, những chi tiết tự sự tỉ mỉ, tưởng như có thể kể lại theo lối văn xuôi, hoặc làm thành những sence, trường đoạn liền mạch trong điện ảnh, với đủ cả cận, trung, viễn, toàn cảnh, traveling, lia, chúc, hất…

Ở đây có thể nghĩ tới khả năng tái tạo hình ảnh rất mạnh của tưởng tượng hồi tưởng Lưu Quang Vũ, nhưng cũng có thể cả quyết hơn, hay mạo hiểm hơn, đặt vấn đề điểm nhìn khách quan (như của máy quay phim) tự quan sát những gì xảy ra bên ngoài bản thân, nhưng lại bao gồm cả chính mình tham gia, như một nhân vật trong “phim”. (Nó tương tự câu chuyện xảy ra trong giấc mơ, nhưng khác ở chỗ người nằm mộng tách ra, quan sát câu chuyện của giấc mơ, chứ không phải đang bị giam trong đó). Thực tại nhiều chiều của Lưu Quang Vũ thường được hiển hiện, hoặc nhờ ánh sáng loá mắt, hoặc từ bóng tối bao trùm hiện dần các mảng khối, tương tự như thủ pháp hội hoạ của Rembrant

Những mái nhà lụp xụp/ những hàng cây đắm mình vào bóng tối/ chiều sương leo lét đèn dầu/ lũ trẻ ngồi quanh mâm gỗ/ lèo tèo mì luộc canh rau/ Mấy mươi năm vẫn mái tranh này/ dòng sông đen nước cạn/ tiếng loa đầu dốc lạnh/ tin chiến trận miền xa…

Nửa đêm tới thành phố lạ gặp mưa…

Có thể xem đó là thứ ánh sáng rất mạnh có sự tham gia của tiềm thức và vô thức, là lãnh địa bao hàm vùng ngoài ý thức, ý đồ cá nhân.

Còn tiếp...
------------
Chú giải:
[1] Theo đạo diễn điện ảnh Đào Trọng Khánh (Đào Nguyễn, Nguyễn, một người bạn thân của Lưu Quang Vũ từ khi còn rất trẻ, cũng là người chia sẻ nhiều về sáng tạo với nhà thơ), sau khi có đường sắt lưu thông Bắc - Nam vào năm 1976, Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh tìm kiếm được nhiều tư liệu từ các sách văn học và triết học mang khuynh hướng hiện đại - đương đại của miền Nam, và đây là nguồn ảnh hưởng chính đến tư duy văn học của hai người thời kỳ sau này. Từ 1975 trở về trước, Lưu Quang Vũ chủ yếu nhận được ảnh hưởng từ chủ nghĩa cổ điển.
[2] Sau năm 1975, Lưu Quang Vũ vẫn tiếp tục viết một số bài thơ, nhưng lúc này dòng thơ siêu thực - tượng trưng và khách thể hoá của thời kỳ 1970- 1975 không còn được tiếp nối, theo đánh giá của người viết bài này. Những thành công vang dội trên sân khấu kịch là một chiều kích biểu hiện khác của sáng tạo Lưu Quang Vũ, nhưng việc dòng tư duy thơ mới mẻ của ông bỗng nhiên bị cắt đứt, còn cần phải tìm hiểu nghiêm túc, kỹ lưỡng. Một bước chuyển quan trọng trong đời sống cá nhân liên quan đến kinh nghiệm và tư duy thơ, đó là việc Lưu Quang Vũ trở lại một đời sống bình ổn, cân bằng, trong sinh hoạt thông thường. Không thể khẳng định rằng đời sống bình ổn này đã dập tắt “những giấc mơ điên rồ, những ngọn lửa không có thật” trong tâm hồn ông, bởi vì tự sâu xa Lưu Quang Vũ chưa bao giờ là một người chấp nhận thứ trật tự thô bạo của cuộc đời vật chất. Việc “sống như mọi người” chỉ gợi ý cho ta nghĩ về việc Lưu Quang Vũ tìm đến một cách bộc lộ nào gần gũi với mức cảm thụ chung của mọi người mà thôi.
[3] Nguyệt cầm, bài thơ được cho là giàu yếu tố siêu thực - tượng trưng của Xuân Diệu:
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương trăng nhớ hỡi trăng ngần
Đàn buồn đàn lạnh ôi đàn chậm
Từng giọt rơi tàn như lệ ngân
… Đêm lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước lạnh trời ơi
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người
Hay Huy Cận sầu vũ trụ trong Tràng giang: Nắng xuống trời lên sâu chót vót/ sông dài trời rộng bến cô liêu
Chế Lan Viên về với thành Đồ Bàn non nước giống dân Hời, muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi, lấy ra một khúc xương rợn trắng…
Tất cả vẫn chỉ dừng ở lối hình dung bị giới hạn bởi khuôn thước vật lý và không gian cảm giác theo trật tự lý tính thông thường.
[4] Những bài thơ cùng thời với thơ Lưu Quang Vũ:
Đồi trung du phơ phất bóng thông già
Trường sơ tán hồn trong chiều lộng gió
Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ
Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu
Lẵng quả thông trong suối nhạc nhiệm màu
Hay Chuyến xe đêm thầm thì mê đắm
Mùi cỏ dại trên cánh đồng xa thẳm
Một bầu trời vĩnh viễn ướp hương hoa…
( Bằng Việt )
Hay Chẳng bao giờ anh ước đâu em/ một ngôi nhà bão dừng sau cánh cửa (Bằng Việt); chỉ là mơ mộng hay quyết liệt trong ranh giới kiểm soát của lý trí cũng như của những ẩn dụ sẵn có.
Cho đến những năm giữa thập kỷ 90 người ta vẫn còn viết kiểu Khối buồn đâu dễ nguôi ngoai/ hào khí bên ngoài yếm khí bên trong/ Tỉnh say một búi bong bong/ nào ai chia nửa cõi lòng Bolsa… (Nguyễn Duy)

________________________________________________

Thứ Năm, 27 tháng 5, 2010

Hồ Quý Ly - cách tân hay bạo chúa?

ĐỖ NGỌC YÊN

Hồ Quý Ly là một nhân vật lịch sử có thật. Hơn nữa ông đã từng làm đến chức quan Thái sư dưới thời nhà Trần khoảng từ năm 1370 - 1400, và lập nên nhà Hồ từ năm 1400 - 1407.

Nhưng cho đến nay giới sử gia trong và ngoài nước vẫn chưa tìm được tiếng nói thống nhất về con người lắm tài nhiều tật này. Vì thế việc chuyển hóa nhân vật Hồ Quý Ly và thời đại lịch sử mà ông đã sống thành những hình tượng văn học vừa là một lợi thế, vừa là một vấn đề hết sức phức tạp và khó khăn.

Với tiểu thuyết Hồ Quý Ly dày gần 850 trang, được chia làm 13 chương, mở đầu bắng Hội thề Đồng Cổ và kết thúc bởi Hội thề Đốn Sơn, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã làm sống lại thời kỳ bi tráng của triều đại nhà Trần những năm cuối cùng và khởi đầu của triều đại nhà Hồ, mà ở đó Hồ Quý Ly nổi lên như là một nhân vật trung tâm đang ra sức lái con thuyền lịch sử dân tộc vượt cạn.

Theo tôi thành công lớn nhất của tiểu thuyết Hồ Quý Ly chính là ở chỗ các mối quan hệ ấy luôn được miêu tả một cách chân thật, tự nhiên và sống động trong suốt gần 850 trang tác phẩm. Chúng quện chặt với nhau thành một khối thống nhất, cái này vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của cái kia và ngược lại. Nhân vật này là tấm gương phản chiếu đối với nhân vật kia. Và không ai khác chính nhân vật Hồ Quý Ly đã bổ sung thêm những phẩm chất mới mẻ, mà có lẽ trước đó không một vị trung quan nào có được. Đó là một con người kiêu ngạo mà giản dị, cứng rắn mà dịu dàng (tr 93), và cũng rất đa nghi: Cái lo của nhà vua là ở chỗ tin người. Mình tin người sẽ bị người kiềm chế... Gần đến như vợ, thân đến như con, còn không thể tin; cho nên không tin ai vậy... (tr 473). Mặt khác là em con cô con cậu với Trần Nghệ Tôn, nên Hồ Quý Ly luôn mang trong mình mặc cảm ngoại tộc. Dù ông có làm tốt chức quan Thái sư và thanh liêm đến mấy thì vẫn bị những người trong tôn thất nhà Trần coi ông chỉ là kẻ giúp việc cho họ. Những đức tính kiêu ngạo và cứng rắn ấy với tham vọng nhằm canh tân đất nước lại bị mặc cảm ngoại tộc chèn ép ắt Hồ Quý Ly sẽ phải đi theo hướng tư tưởng vừa dân chủ vừa độc tài; vừa cách tân, lại vừa thủ cựu.

Hồ Quý Ly muốn muôn dân trăm họ đều có nghĩa vụ và quyền lợi bình đẳng trước thực trạng đất nước đang gặp vấn nạn từ nhiều phía cả giặc ngoại bang lẫn quân nội phản: Ở phía Nam, quân Chiêm Thành đã không ít hơn 10 lần tiến quân ra giao chiến với nhà Trần; phía Bắc nhà Minh cũng đang lăm le dòm ngó Đại Việt; bên trong vừa mới tiễu trừ được quân phiến loạn của Dương Nhật Lễ thì đến Phạm Sư Ôn ở lộ Quốc Oai kéo xuống đánh chiếm Thăng Long 3 ngày làm vua Nghệ Tôn phải rút về Bình Than lánh nạn. Chính Hồ Quý Ly đã biết quá rõ ràng vận mệnh xã tắc lúc này như ngàn cân treo sợi tóc. Vua tôi nhà Trần đã đến thời mạt vận. Triều đình lục đục, công việc triều chính bỏ bễ chẳng ai quan tâm, phần lớn các quan lại từ trưng ương đến địa phương thì tham nhũng, lo đục khóet của dân, trở thành những tham quan, kẻ thì ăn chơi sa đọa suốt ngày rượu và gái, một số người khác có tâm hơn thì trốn vào nương nhờ cửa Phật. Thời này, thời đại loạn, thời của những mưu sâu, kế lạ; đâu có phải thời của những kẻ hữu dũng vô mưu (tr 225). Trước tình cảnh đó cải cách nền chính trị quốc gia, tổ chức lại bộ máy của triều đình là việc làm hết sức cấp thiết, dù có mất mát và thiệt hại. Hồ Quý Ly đã nói với con trai Nguyên Trừng: đất nước ta quá ư hỗn loạn, cần có một sự thay đổi, cần có một sự đảo lộn. Lẽ dĩ nhiên,tàn nhẫn đấy, đau thương đấy, nhưng ta sẽ cố gắng cho bớt cảnh đầu rơi máu chảy (tr 486). Về khía cạnh khách quan ý tưởng đó của ông đã đem đến cho xã hội lúc bấy giờ một cuộc cách tân theo khuynh hướng tích cực và một bầu không khí dân chủ. Không rõ Hồ Quý Ly coi đây là một cơ hội để canh tân đất nước này hay là số phận đã định sẵn. Có lẽ là cả hai. Hồ Nguyên Trừng đã không ngần ngại nói về quan điểm của cha mình:sự tranh giành ấy cha tôi bảo là điều lành mạnh, ông bảo những người sinh ra nơi cửa quyền quý phải hiểu điều đó, ta đâu có thoát được số phận của mình, nên đón nhận nó bằng lòng cam chịu can đảm, để điều khiển nó (tr 58- 59).

Trong tình thế như vậy Hồ Quý Ly đã cho ban hành một loạt chính sách như hạn điền: bắt người có ruộng tự cung khai, cắm biển đề tên ruộng, ai thừa số quy định thì sung công (tr 468). Làm như vậy vì Hồ Quý Ly không muốn trong dân gian có kẻ lang thang. Sắp tới, ta sẽ cho làm sổ hộ khẩu khắp nước. Không một người dân nào được sót. Các xã trưởng sẽ phải trách nhiệm chú ý đến từng người dân, cấp đất cho họ làm ruộng (tr 559). Về chính sách hạn nô, Hồ Quý Ly chỉ cho phép nhà giàu giữ lại một số nô tì nhất định, còn số thừa ra phải trả họ về với gia đình và bắt các sư sãi hoàn tục,không được lợi dụng nhà chùa để trốn tránh nghĩa vụ quốc gia. Những chính sách đó nhằm mục đích tập trung sức người, sức của để chống thù trong giặc ngoài, nhằm cứu đất nước ra khỏi cơn nguy khốn lúc bấy giờ là hết sức cấp thiết và mới mẻ. Và theo ông: khi cơ đồ đã rệu rã; khi mà toàn bộ quan lại chỉ là lũ sâu mọt; khi mà nhà Trần không có nổi một nhân tài tầm cỡ; khi mà tất cả phải cày xới lên để gieo giống mới, thì dù nhà Trần có công với Đại Việt cũng phải trải qua một nạn kiếp, muôn dân cũng phải trải qua một cuộc đổi đời (tr 476).

Một nhân vật được Trần Nghệ Tôn lúc sinh thời rất tin dùng là nhà chép sử Văn Hoa (tất nhiên đây là nhân vật hoàn toàn hư cấu), chỉ vì viết cuốn Minh Đạo luận có ý chống lại tư tưởng cách tân và sau đó dâng tấu phản đối ý định dời đô vào Tây Kinh của Hồ Quý Ly, đã bị ông bắt và tra tấn bằng cách làm nhục. Ông lệnh cho Hồ Nguyên Trừng: Hãy giam hắn vào hầm xử chém, đeo gông cổ thật nặng, cùm chân tay, mồm đóng hàm thiếc, bỏ đói, bỏ rét... Sau đó một sáng sớm. mang ra pháp trường. Hãy cho hắn sợ đến vãi cứt, vãi đái ra...đến lúc đó, con hãy mang lệnh của ta đến, ân xá cho hắn, đuổi về thôn quê (tr 551). Cuối cùng lúc về già cũng đã bị Hồ Quý Ly dùng tay chân giết chết bằng cách cắt bỏ ngọc hành tại ngôi chùa đổ ở giữa đất kinh thành Thăng Long và sau đó đốt luôn cả ngôi chùa để phi tang.

Dưới con mắt của một người vừa giàu mưu lược lại vừa đa nghi như Hồ Quý Ly, đứng giữa cũng có nghĩa là chống lại tư tưởng canh tân và phát triển đất nước lúc bấy giờ, mà muốn canh tân và phát triển đất nước trước hết cần phải thay đổi triều đình, đó là logic tự nhiên của lịch sử và đã hối thúc Hồ Qúy ly dấn sâu vào công việc đó. Nhưng vì nóng lòng, muốn làm nhanh để đưa đất nước vừa thoát ra tình trạng bế tắc trì trệ, vừa muốn chứng minh rằng nhà Trần đã hết thời và để giải thoát tâm trạng ngoại tộc của mình nên Hồ Qúy Ly đã hành động như một bạo chúa. Và đến phút chót ông đã nhổ được cái gai làm vướng tầm mắt trên con đường đi tới thực hiện ý đồ chiến lược của mình, tức là bức ông vua tu sỹ Thuận Tôn phải tự vẫn. Trước và sau đó còn biết bao người chống đối từ quan tư đồ Trần Đĩnh, quan thiếu bảo Trần Tôn, Trang Định Vươnng Trần Ngạc cho đến Trần Nhật Đôn, quan hành khiển Hà Đức Lân, thượng thư Lương Nguyên Bưu... đều đã bị Hồ Qúy Ly giết hại (tr 605 và 815).

Sự diễn biến tâm lý và tư tưởng của nhân vật Hồ Qúy Ly trong tác phẩm rất phức tạp. Ông đứng trước sự lựa chọn của những quan hệ đầy mâu thuẫn và đối địch nhau ở mức đỉnh điểm. Đó là các quan hệ Phụ - Tử, Quân - Thần, Quyền lực - Đạo đức, Phật giáo - Nho giáo... Tình thế lúc này không cho phép ông chần chừ và tính toán quá kỹ càng. Cái này tạo được sức ép tâm lý ưu trội hơn thì cái đó sẽ chiến thắng. Mặc cảm ngoại tộc và tham vọng chấp chính để thay đổi triều đình và canh tân đất nước lúc này dường như đã chín muồi và là hai nhân tố quan trọng nhất được chuyển thành nội lực mãnh liệt trong lòng cậu bé thích chơi với lửa từ tuổi ấu thơ và muốn một ngọn lửa không bao giờ tắt (tr 564), đã đè bẹp các quan hệ tình cảm và đạo đức khác. Từ sự đan xen, chồng chéo và ràng buộc của các mối quan hệ kể trên đã tạo nên một sự dồn nén tâm lý cùng cực trong con người Hồ Quý Ly, và không biết từ lúc nào nó đã trở thành sức mạnh không cưỡng lại được, buộc ông phải lựa chọn tức thì, như là một phản xạ bản năng vô thức để tự vệ. Và thế là các quan hệ đạo đức và tình cảm đã vô tình trở thành vật thế chấp, làm mồi cho tham vọng quyền lực của ông. Hồ Quý Ly bẩm sinh là một con người thích phiêu lưu, ưa mạo hiểm và luôn có nhu cầu muốn thay đổi tình thế Cẩu nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân (tr 534) là điều mà ông hằng tâm đắc. Trò chơi giữ lửa trong hang với quận chúa Huy Ninh thuở nhỏ và truyền thuyết dân gian về con cáo đen có 9 đuôi đã sống trong hang hàng ngàn năm hóa thành yêu quái có thể biến hóa vạn cách thành người hoặc thành quỉ đi khắp nhân gian. Sau đó đẻ được 9 con, 8 con và mẹ nó đã bị Long quân giết chết chỉ còn một con duy nhất chạy thoát về Diễn Châu và Hồ Quý Ly là cháu của con cáo đó (tr 56) đã phần nào nói lên tính cách không bình thường về nguồn gốc xuất thân của con người này.

Qua tác phẩm ta thấy ông ngoài quan hoạn Nguyễn Cẩn là kẻ duy nhất trung thành với Hồ Quý Ly và được ông ân sủng, còn lại tất cả từ Hoàng đế, Thái Thượng hoàng, đến các hoàng thân, quốc thích của nhà Trần; từ vợ con, cháu chắt cả nội lẫn ngoại đến anh em họ hàng, kết nghĩa; từ các sư sãi đến nhà chép sử; từ các người thầy dạy chữ và dạy võ đến các học trò... đều sớm muộn nằm trong tầm giáo trừng phạt của ông. Chỉ có khác là mỗi người chết theo một cách, tùy thuộc vào quan hệ thân sơ, tước vị và khả năng ngăn cản của họ đối với tham vọng cá nhân của ông. Và tình thế lịch sử lúc bấy giờ càng như đổ thêm dầu vào đám lửa ở một con người có tính khí thất thường, giàu tham vọng đổi mới và đầy mặc cảm ngoại tộc đã bùng cháy, khiến ông càng đẩy nhanh quá trình canh tân bao nhiêu, thì càng lún sâu vào chém giết bấy nhiêu. Điều đó làm cho nhiều người dễ có những cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau về ông: Người đời bảo ông táo bạo, cương nghị, sắc sảo, cả gan làm đất trời rung chuyển. Có kẻ chê ông tàn nhẫn, gian hùng, xảo quyệt và lắm tham vọng (tr 524). Còn nhà chép sử Văn Hoa lại cho rằng: Chí của cha con họ thật rõ ràng như vậy. Một người thì muốn làm mây làm mưa để thấm nhuần cho toàn thiên hạ. Một người ngày từ lúc trẻ đã dự định làm rường cột cho nước non (tr 538). Nhưng ở một chỗ khác khi Thượng tướng Trần Khát Chân giao cho Văn Hoa viết một cuốn sách về Hồ Quý Ly thì nhà chép sử lại nói: Quý Ly là một người đầy táo bạo. Một kẻ cướp phải có gan... ông ta là một người dám trên đầu chẳng có ai (tr 661)

Cùng với những cải cách về kinh tế, chính trị, Hồ Quý Ly còn là người đầu tiên trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam chủ trương dùng tiền giấy thay tiền đồng. Tiền đồng đã được sử dụng từ lâu và trở thành một thói quen trong đời sống dân sinh. Thay đổi nó tức là thay đổi một tập quán lâu đời, mà trước đó chưa một vị vua nào dám làm, ngoài Hồ Quý Ly ra. Vì thế dễ bị mọi người phản đối. Một chủ trương nữa mang tính cải cách rõ rệt là từ khi Hồ Quý Ly giữ chức quan Thái sư ông đã đệ trình với nhà vua đặt chức liêm phóng sứ để dò la những kẻ tham nhũng chống đối (tr 307) và làm sổ hộ khẩu để biết thực lực số người trong nước (tr.136) vì ông đã quan niệm rằng: Quản lý được từng người dân mới đích thực thời thái bình (tr 559). Những việc là đó thể hiện Hồ Quý Ly là người khá mới mẻ và táo bạo. Trong khi ông chỉ là một quan ngoại thích nhà Trần mà vẫn muốn làm người nước Nam đầu tiên dám xem xét lại đức Khổng Phu tử (tr 484).

Nhưng chính những chính sách cách tân đó đã gây cho ông bao phen lao đao trong khi trên danh nghĩa ông chỉ là một người giúp việc cho Hoàng thượng. Hồ Quý Ly đã phạm và chính danh nên kẻ sỹ trong nước nhao nhao phản đối. Lại cũng vì muốn nhanh nên chính sách thay đổi trong khi người dân đen chỉ muốn ăn no ngủ kỹ (tr 486) Thật khó có thể biết được rằng đó là sự nhìn xa trông rộng của một người đầy mưu lược như Hồ Quý Ly, là một chủ trương cải cách xã hội hay là sự thúc ép của những tham vọng quyền lực trong con người ông chi phối. Những chính sách mới ấy luôn là con dao hai lưỡi mà bản thân Hồ Quý Ly lại luôn tin rằng mình đã nắm được phần chuôi dao. Hồ Quý Ly càng chủ động ra sức cải cách bao nhiêu thì ông càng biến mình trở thành kẻ chống lại tôn thất nhà Trần bấy nhiêu. Càng tìm cách chống lại tôn thất nhà Trần ông càng bị cô lập, và những người như ông, nỗi cô đơn là bạn đồng hành (tr 571). Càng cô lập và cô đơn, ông lại càng phải tiến thêm những bước mới trong việc trừng phạt kẻ thù. Càng chống lại kẻ thù thì càng đẩy nhanh công cuộc cải cách.

Có thể nói ở chỗ sâu xa nhất Hồ Quý Ly là hiện thân của một con người chứa đầy mâu thuẫn và những bi kịch cá nhân và thời đại. Ông càng ra sức gỡ thì tình thế càng trở nên rối thêm, càng rối lại càng ra sức để gỡ. Cứ thế trong cái vòng luẩn quẩn đó, Hồ Quý Ly đã có lúc rơi vào trạng thái hư vô trống rỗng, nên ông muốn làm một cái gì đó để thoát khỏi sự ám ảnh của nỗi cô đơn đến cùng cực trong lòng một kẻ ngoại thích. Hồ Quý Ly đã biết cách hay nói đúng hơn là bằng mọi cách, dù cho nó có tàn bạo, nhẫn tâm đến mấy ông cũng kiên quyết giành cho bằng được quyền lực từ tay nhà Trần. Và ông đã làm được điều đó, mà nhiều người cho rằng ông đã tiếm vị nhà Trần. Âu đấy cũng là cái giá đáng phải trả cho một cuộc hóa sinh của một người giàu tham vọng thích đổi thay, nhưng trên danh nghĩa lại chưa phải là một người hoàn toàn có quyền lực. Xét cho cùng từ cổ chí kim, từ đông sang tây có cuộc chiến nào không đẫm máu, nhất là cuộc chiến tranh giành ngôi báu và quyền lực. Bởi vì: Hỡi ôi! Kẻ làm quan làm vua có thể chẳng ác nhưng phải làm ác. Cái ác gắn với vua quan. Cái ác làm món ăn của vua quan. Cái ác là đôi cánh của vua quan. Thiếu cái ác một ngày ngai vàng buồn rầu. Thiếu cái ác vài tuần trăng ngai vàng rung rinh. Thiếu cái ác một năm ngai vàng sụp đổ. Cái ác là nguồn sống của vua quan. Điều đó đã ghi rành rành trong sử sách (tr 723) Thanh trừng phe cánh đối lập không bằng sự thuyết phục của các ý tưởng mới mẻ và táo bạo, mà bằng sự chém giết lẫn nhau để dẫn đến cảnh nồi da nấu thịt mà Hồ Quý Ly đã áp dụng thực sự cũng là cái cách mà xưa nay các triều đại phong kiến phương Đông vẫn hay làm. Vậy là ông càng ra sức canh tân bao nhiêu thì ông càng thủ cựu bấy nhiêu, càng dân chủ bao nhiêu thì càng độc tài bấy nhiêu. Xét đến cùng canh tân hay thủ cựu, dân chủ hay độc tài chỉ là tương đối và không có ranh giới thật rõ ràng. Nó giống như điểm đầu và điểm cuối của một đường tròn trong quá trình vận động của những quy luật lịch sử.

Qua Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh không chỉ mang đến cho thể loại tiểu thuyết lịch sử một sinh khí, nâng vị thế của nó lên một tầm cao mới về nội dung đề tài, chủ đề, kết cấu tác phẩm, cách xây dựng tính cách nhân vật và hình thức thể hiện. Nhưng theo tôi với tiểu thuyết này Nguyễn Xuân Khánh đã giải quyết một cách căn bản và khá dứt khoát rằng tiểu thuyết lịch sử cao hơn biên niên sử vì nó hoàn toàn có khả năng vươn ra và vượt lên trên những sự kiện lịch sử bởi khả năng lựa chọn các sự kiện lịch sử để hư cấu và miêu tả, thông qua việc thổi vào đó luồng xúc cảm thẩm mỹ của chủ thể sáng tạo, làm cho các sự kiện ấy trở nên sinh động hơn, gây hứng thú cho bạn đọc. Từ đó bạn đọc có thể nhận thức sâu hơn về bản chất của quá trình vận động lịch sử, tự rút ra cho mình những bài học bổ ích và lý thú. Điều này biên niên sử rất khó có thể đạt tới và không phải ai cũng làm được như Nguyễn Xuân Khánh.


Đ.N.Y
______________________________________________

Chuyện làng văn: Không thể tự thanh tra

Yên Thao được biết đến ở thể loại thơ châm biếm. Có lần trò chuyện về các sáng tác gần đây của nhau, nhà thơ Hoàng Cầm hỏi:

Hẳn là ngoài thơ châm chọc người đời, ông vẫn giữ cảm hứng sáng tác thơ trữ tình đấy chứ? Ông cho nghe một bài mới làm gần đây đi!
- Mới làm gần đây?
- À, đại loại là thế!
- Nếu vậy thì xin mạo muội hầu ngài một bài mới làm ngay tối qua đây.
Nói vậy rồi Yên Thao cao giọng đọc:

Đêm mơ thấy vợ hóa đàn ông
Con cò thay chỗ lá diêu bông


- Trời! Công nhận là cậu không hổ danh là thi sĩ họ nhà châm, nghĩa là rất hóm. Nhưng mà ở đây, nói thế không có được. Lá diêu bông của tớ là dùng cách nói trừu trượng, cớ sao lại đăng đối với cái con cò cụ tượng vậy?
Mới đọc được hai câu, đã thấy thi sĩ họ Hoàng giẫy nẩy phản đối, nhà thơ châm biếm vẫn bình tĩnh đọc tiếp:

Hoảng hồn tỉnh dậy thanh tra thử
Di tích còn nguyên có sướng không!


Đến đây thì tác giả Lá diêu bông không kìm được khoái trá, bật cười ha ha, rồi gật đầu lia lịa. Tuy vậy, ông vẫn giơ tay, miệng kêu:
- Xin được khiếu nại! Xin được khiếu nại!
- Chẳng hay ngài còn có điều gì cần dạy bảo?
Ngạc nhiên, Yên Thao trợn trừng hai con mắt, hỏi. Hoàng Cầm liền làm mặt nghiêm, nhưng lại tủm tỉm cười:
- Muốn kết luận là di tích còn nguyên thì ông phải đến nhờ Cục Di sản bên Bộ Văn hóa họ thanh tra, rồi cấp giấy chứng nhận, chứ ông tự thanh tra sao đặng! Có phải không?

Hoàng An st
__________________________________________________

Thứ Tư, 26 tháng 5, 2010

Đọc thơ Nguyễn Trọng Tạo

HOÀNG CẦM

(cảm nhận qua tập thơ “Đồng dao cho người lớn” của Nguyễn Trọng Tạo)

Hình như đã lâu lắm, hoặc như chưa bao giờ tôi bắt gặp trên đời này một người mà chỉ qua một buổi sơ ngộ tôi đã thấy quý và yêu... như anh ta.

Vì một lẽ cũng đơn giản thôi, trong cái xóm văn ồn ào tấp nập, chín người mười làng như Hội (và không hội) nhà văn của chúng mình đây, loại người như anh ta kể cũng hiếm ở một ngành nghề có vẻ khá phong phú, hơi hơi đa dạng mà cũng hơi hơi tạp phí lù này. Anh ta điên chăng?

có anh hề nói với tôi
đời thằng hề buồn lắm anh ơi
và tôi đã khóc
(Tin thì tin không tin thì thôi - ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN)

- Ừ, có lẽ hơi điên thật! Anh ta có lúc nào tỉnh không?
- Nhiều chứ, độ một vài phần trăm!
- Ồ, thế thì anh nào làm thơ hãycung điên quá chín mươi phần trăm à?
- Tôi cho là thế. Vì đông tây kim cổ, những bậc thi hào thi bá trước cuộc đời đều khiến người ta cứ phải nghĩ rằng các vị ấy giông giống như điên gần 100%.
- Anh ta say à?
- Ừ, say luôn
- Say liên miên hay sao?
- Có thể là như vậy
- Nghe nói anh ta buồn lắm chăng?
- Buồn nhiều đấy
- Thế không có tí vui nào à?
- Vui cũng nhiều chứ. Nhưng chỉ thỉnh thoảng. Vui đấy buồn ngay đấy
- Anh ta phải lo nghĩ ưu tư nhiều lắm ư?
-Tất yếu là thế. Không lo nghĩ ưu tư thì giết ai ra thơ?Mà cũng không hoàn toàn là như vậy
- Anh ta yêu nhiều đàn bà chứ?
- Ồ, cái đó đương nhiên rồi. Nhưng tưởng nhiều mà hóa ra ít
- Thế thì không đam mê hay sao?
- Chết chửa? Không đam mê sao lại thành thi sĩ. Nhưng cũng tùy cái đáng đam mê
- Hay thật! Vậy có đúng anh ta là Người Ham Chơi như có một ông đồ hơi hơi gàn là Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phân loại các đấng người không?
- Đúng một tẹo thôi, chứ phải nói cho đúng thật anh ta là người chơi (vì ham thì ai mà chả ham, nhưng ham có "được" chơi không? Đằng này, người chơi (homs ludus) là người được Thượng đế ban cho cái khả năng và cái phép chơi như anh ta ấy. Chơi là bẩm sinh của những thi sĩ đồng thời sống phải có bản lĩnh mới chơi được. Thiếu bản lĩnh mà học đòi chơi thì có khi té nhào, gãy cổ đấy)
- Ôi giào! Ông nói lan man vòng vèo sốt ruột quá. Thời buổi “hiện đại” này, ông cứ nói toạc ra, nói ngắn và nói thẳng ra đi: anh ta, cái anh Nguyễn Trọng Tạo ấy là loại người gì ở cõi nhân gian đã quá đông đúc, mà xô bồ lắm khi hỗn loạn, cái chỗ ở đã chẳng rộng rãi gì mà còn nay khủng bố mai đảo chính chém giết, luôn luôn đem võ khí với nhiều thứ lý thuyết rởm ra để dậm doạ nhau, che dấu tội ác, tranh dành và cố bám lấy cái quyền lực bẩn thỉu và ích kỷ của từng phe nhóm.

chuột quá nhiều chuột chẳng chịu giảm biên

- Thưa các bạn, thực ra tôi cũng khó trả lời cho vừa ý mọi người. Vì thơ hay giống như một món ăn rất quý hiếm, nhưng mỗi người yêu thơ lại có sở thích riêng. Cùng một bài thơ, có người yêu lại có người ghét, lại có người thờ ơ. Tốt nhất xin các bạn cứ coi đây là ý kiến riêng của một người đọc bình thường.

Tôi chỉ biết gọi Nguyễn Trọng Tạo đúng là một thi sĩ, thi sĩ từ khi Thượng đế gieo mầm thơ cho một loại động vật siêu đẳng mà ta gọi là con Người (Người viết hoa, Người ở đẳng cấp cao nhất, vì Người cũng chia ra năm bảy đấng cơ đấy). Đọc thơ Nguyễn Trọng Tạo, lắm lúc tôi như nhìn thấy rõ cái uyển chuyển màu nhiệm trong tâm tư và trong thơ anh. Có khi nó vút lên rất cao đến mức không ai nhìn thấy anh ta đâu nữa:

tung tăng thanh xuân trôi ngược chiều
phút chốc mộng du lên phiêu diêu

Lại có lúc thơ chìm rất sâu khiến đôi ba bạn thân thiết nhất phát sợ, chẳng biết anh ta mất tăm vào cõi nào đây

tôi trở lại dòng sông bờ cỏ thi xanh mướt
xưa em đánh mất trâm giờ lặng lẽ tôi tìm

Nhiều phen anh đứng sững giữa cái nhân gian vừa giả dối vừa lố lăng vừa ngốc nghếch

có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi
có con người sống mà như qua đời

(Xin phép mở dấu ngọăc. Riêng câu vừa rồi, anh ta có bị mềm lòng nên đã gượng dùng từ mềm mỏng có vẻ "lịch sự" là "qua đời", chứ tôi biết ý anh định nói khối người đang sống mà như chết rồi, nhưng hình như anh kém bạo dạn, như né tránh nể nang gì đó bèn làm một câu thơ đáng lẽ ra là phải thẳng thắn, lại làm nhẹ đi cho đỡ chối tai một số người đang còn sống đấy mà như đã chết).
Tuy vậy, ở nhiều chỗ, anh đã phải nói thẳng tuột, cũng chẳng cần che đậy gì nữa

trộm cắp đâm nhau dưới đèn mờ
xích lô máu me cấp cứu
tham nhũng nâng ly mừng thắng lớn
u ớ nói mê người đói không nhà

Còn nhớ về thời chinh chiến, anh ta cũng chẳng dấu diếm sự khủng khiếp của chiến tranh

nười thủng tim, người thủng đầu
nười cụt chân, người cụt tay
nười bên ta người bên địch

Đặc biệt bài thơ BÓNG thì đọc rồi, tôi cứ gai gai rờn rợn khắp người
hn là hắn, hắn chính là chiếc bóng

kông thanh âm, không màu sắc, không buồn vui
thế mà hắn suốt đời sát kề tôi
không xóa được, tôi đành chào thua hắn.

nhất là câu kết thật đáng đau buồn cho một cộng đồng người

tôi đã chào thua khối người như chiếc bóng

Thế nghĩa là nhân loại này còn sinh ra rất nhiều rôbốt bằng xương bằng thịt y như con người. Nhưng anh Trọng Tạo lại rất thanh thản, như một nhà hiền triết đã thấu hiểu đến tận cùng cái sợi dây vô hình ràng buộc chặt chẽ thiên nhiên với số phận người, hơn nữa là số kiếp thi sĩ.

mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ
mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió

Được cái thanh thản trong như pha lê ấy là do Nguyễn Trọng Tạo luôn yêu cuộc sống, ham sống, và khát khao tình người vô hạn độ, anh luôn tiếc cho những ngày tháng trôi nhanh trên mọi kiếp người

có thương có nhớ có khóc có cười
có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi

Rất nhiều điều anh nói thật, có người tưởng anh mỉa mai hay chế riễu. Chính ra là anh chỉ nói thật. Thi sĩ chỉ đáng giá khi nói thật bằng những hình tượng chắt lọc từ sự thật (Boileau)
Ví dụ cái chuyện ăn uống thô thiển này

tôi đã tới hang động yến sào đã thèm ăn yến
vậy mà chưa được nếm bao giờ
hàng quốc cấm

Nói đến một thi sĩ, trước hết phải xem cái tình của anh ta nó thường hiện lên bằng hình ảnh, bằng nhịp điệu, bằng ngôn từ, nghĩa là xem những nỗi niềm rung động của thi sĩ ấy từ da thịt bên ngoài vào tít bên trong đến những tế bào tận cùng của người thơ. Tình của chính mình trước đã, rồi đến bố mẹ, vợ con, người yêu, bạn hữu, người láng giềng, người đồng bào, đồng loại... nói chung với những ai được gọi là Người, kể từ người bé mọn bình thường nhất trên trái đất này. Thế thì ở Trọng Tạo, tôi lại thấy anh thật đắm đuối với cuộc sống con Người mà do đó cũng được nếm nhiều vị đắng cay, chua chát, gây thương tích cho mình và cho những người thân yêu của mình. Thôi thì "rầu lòng vậy, cầm lòng vậy". Nhưng cũng lại vì quá yêu rồi nên bất chợt thốt ra những lời khiến người đọc dễ cảm như tôi cũng phải đau lòng theo anh.

cầm lòng sao cứ vân vi
mây thì nặng trĩu, núi thì nhẹ tênh

Chỉ vì một lẽ, Trọng Tạo làm thơ như bó buộc từ đáy tâm linh. Bao nhiêu nỗi niềm buộc anh phải viết ra nếu không thì sức nén, sức dồn ép của nó sẽ khiến anh ngạt thở hoặc ứa máu khắp các lỗ khiếu: mắt, tai, mồm, mũi. Cũng vì sự chân thực ấy mà trong cả tập ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN, không một bài nào giả tạo vay mượn hoặc điệu bộ, làm duyên, làm dáng. Mỗi câu, mỗi bài đều có sức đi vào chiều sâu của ý thức và tâm thức, đôi khi bật ra từ vô thức, như một khám phá bất ngờ.

sẽ dở hơi nếu là tôi đứng khóc
nhưng cười vui thì tôi sẽ còn gì
....
em lộng lẫy mộmg mơ giờ nhàu nát bên đường
anh là kẻ chót vớt trăng bao lần trăng vỡ nát

Thơ anh lại có lúc như tiếng nói của định mệnh hoặc một thoáng rùng mình của số phận

ôi sự sống như đỉnh trời chân cỏ
thoáng heo may. Nghe mình chợt sang chiều

Và chỉ bốn câu sau đây mà sao tôi thấy hết cả một vũ trụ hoang lạnh, một nỗi cô đơn mênh mông buồn tưởng chừng cả thế giới này tan đi đâu hết:

... rồi xa lắc. Bỏ một trời nhung nhớ
ơi mùa thu áo ấm đã mặc chung
rồi biền biệt. Hoa vàng như hơi thở
mimôza. Giọt nắng... Có theo cùng

Những xúc cảm tinh vi tế nhị đến thế, chỉ những thi sĩ biết nắm giữ lại được từng phút giây sâu thẳm nhất trong tâm tư mới diễn tả được trọn vẹn những điều mong manh khó biểu hiện nhất bằng bất cứ loại hình nghệ thuật nào.

Quả vậy thơ cứ như bốn câu ấy thôi là tình người đã hiện ra thành người thật, đứng ngồi ngay trước mặt ta, để ta có thể ôm vào lòng như ôm toàn thân người yêu mà nâng niu, trìu mến.
Rõ ràng thơ Trọng Tạo đi thẳng ngay vào cái đang thực có để rồi phiêu diêu, tan man trong hư vô, để lại cho tôi cái cảm giác của gió lạnh đầu mùa mơn man da thịt hòa vào một nỗi nhớ tiếc xót xa ảo diệu về một vài điều gì quá đẹp đã trôi qua, đã đi xa và xa xa mãi, không tài nào cầm lại được mà éo le thay, nó vẫn cứ đôi khi hiện hình rõ mồn một trước mắt mình.
Thơ Trọng Tạo không mấy khi đi một chiều. Mà phong cách quán xuyến toàn tập lại rất hấp dẫn, đáng yêu, không ai chỉ đọc một lần. Không hiểu sao, mỗi lần đọc lại ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN, tự nhiên tôi liên tưởng ngay đến dáng dấp một nhân vật của Nguyễn Du tạo ra cho cuộc đời này:

... một tiểu Kiều
có chiều phong vận... có chiều thanh tân
sương in mặt tuyết pha thân
sen vàng lãng đãng
(Nguyễn Du)

Ngôn từ và nhịp điệu thơ Trọng Tạo cứ tâng tâng, tưng tửng thường khi lênh tênh tưởng như nhẹ nhõm lắm, cũng có lúc hì hục tưởng như nặng nhọc lắm. Mà như chẳng định nói gì quan trọng lại hóa ra toàn những cái đau khổ, cái vui cái buồn nhân thế vào cuối một thế kỷ quá nhiều bi kịch, (tuy cũng lắm hí kịch), máu và nước mắt, ai oán thương tâm quá nhiều, yên vui quá ít, đi theo nhiều khát vọng ấm no, xum vầy, hạnh phúc. Chỉ một bài Mùa Thu áo ấm đủ cho tôi thấy nỗi lạnh lẽo thăm thẳm đến gai gai tê tê khắp người.

Với cái “tạng" yếu ớt, dễ xúc động như riêng tôi, thì tập thơ này của Nguyễn Trọng Tạo là một trong vài ba tập đứng hàng đầu trong một tâm tưởng thơ chân thực, gợi ra cái ĐẸP, ĐIỀU LÀNH và SỰ THẬT cứ coi như cho riêng mình thôi kể từ ngày non sông thu về một mối. Cũng là đã 25 năm mà qua tập thơ này, tôi thấy tâm tư tình cảm và khát vọng ước mơ của con người Việt Nam hiện lên rất rõ nét sau bấy nhiêu tang tóc, chia lìa, sau những thủy chung và phản bội, thành tâm và dối trá, yêu thương và thù hận. Số bài thơ xấp xỉ số triệu dân của đất nước này, cầm tay thì nhẹ nhõm tưởng như chỉ là một cơn gió cuối thu, mà thật ra nặng bằng trọng lượng nước của dòng sông quê anh Trọng Tạo. Cái sức nặng ngôn ngữ và âm thanh Đồng dao khiến tôi nhiều đêm trằn trọc, phải tung chăn ngồi dậy, tìm đúng bài Đ bài C bài M mà đọc lại để được an ủi, được sẻ chia những khía cạnh thương cảm và cô đơn, nỗi sầu riêng và lòng trắc ẩn. Tính từ 1975, ít có tập thơ nào xâm chiếm lòng tôi lâu và sâu như ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN. Đồng dao ư? Đúng vậy. Trọng Tạo như chú bé nhà quê đi kiếm củi, trơ vơ và lủi thủi trên cánh đồng chiều, vừa vác bó củi khá nặng về nhà vừa hát rất vô tư về những chuyện đời, những niềm riêng, nỗi chung của rất nhiều người Tạo phải gọi bằng anh chị hay cô dì chú bác thường ngày vẫn dạy em dạy cháu về những điều sơ đẳng của lẽ sống con người. Bởi vì cậu ta cứ nâng trên tay những âm thanh nhịp điệu kết thành những con chữ luôn luôn ngọ nguậy, chấp chới vỗ cánh chỉ dình bay lên, mà bay xa, khoan thai chững chạc, như chẳng có gì vội vã. Anh đã đi những bước chân vững chắc và đĩnh đạc của số mệnh lúc chậm lúc nhanh, lúc nhẹ nhàng, lúc nặng trĩu lướt trên số phận cuộc sống mỗi con người, tựu trung là những bước đi định sẵn rất ráo riết và quyết liệt. Riêng Trọng Tạo, anh chủ định đi theo nhịp bước nghìn năm của dân tộc, nhịp song hành là chính, nhịp chẵn, hai bốn, sáu tám, cả chín mười, rất nhiều câu thơ dẫu số chữ lẻ vẫn luôn theo nhịp chẵn như vợ chồng như âm dương như đôi chim liền cánh, hễ nghe kỹ từ phía bên trong hay phía ngoài của ngôn từ, nhất là ở những dấu lặng và khoảng cách giữa hai câu (entreligne), tôi vẫn thấy cái ung dung thư thái của nhịp chẵn, nhịp sáu tám. Tôi nghĩ hình như anh cố tránh sự trúc trắc, sự sai nhịp trong cùng một câu, cái gồ ghề và cái gấp gáp của cuộc sống túi bụi thị trường mà tôi thường gặp ở một số tác giả mới cứ tự cho mình là “hiện đại" lắm bất chấp một nguyên tắc lớn của thơ phương đông là nhạc điệu trong thơ. Nhạc điệu trong thơ chính là cái ta thường gọi là hồn thơ, không có nó, bài thơ chỉ còn là một đống xác chữ.

Có thể anh “phớt" hẳn cái nhịp cuống cuồng, sô bồ, nhốn nháo, lạo xạo của lối sống hôm nay, kiểu kinh tế thị trường chen lấn, bừa bãi, đua nhau làm giàu, nhiều nơi tích lũy tư bản dã man, bất chấp cả lương tâm. Đồng đô-la Mỹ đang muốn chỉ huy cái loại “nhịp điệu" phi dân tộc đó trên phạm vi toàn thế giới.

Tôi thấy Nguyễn Trọng Tạo lúc nào cũng như muốn đi đến đáy của nhiều tâm trạng và suy tư thời đại. Anh nói chắc nịch như thân cây lim cây táu về tình người, cả về những diễn biến tâm tư trong một xã hội lẽo đẽo theo sau những bước dài bước ngắn rất chớp nhoáng của thời đại mà kỹ thuật khoa học càng lên cao càng đi sát sạt ngay bên cạnh cái nguy cơ hủy diệt toàn cầu. Anh như ngậm đau mà nói ra bằng những con chữ khá sắc cạnh những nỗi thống khổ và lòng tin yêu trong cuộc sống hôm nay, tưởng như anh thây kệ mọi điều thị phi, bỏ ngoài tai những lời khen chê vô bổ. Một ví dụ của tính u trầm thảnh thơi, tính kiêu kỳ không lộ liễu mà rất có duyên của lòng tin yêu đích thực thi sĩ ấy:

... nghe nói từ xưa làm vua sướng lắm
mà đôi khi tôi cũng sợ làm vua

hoặc:
... con sông mình hạc xương mai
vàng son in bóng đền đài hoa khôi
đến đây tôi gửi bóng tôi
vớt lên thì vỡ, tan rồi lại nguyên

để rồi anh cứ phải nói đi nói lại mãi như thách thức, như hờn dỗi mà lại như một lời âu yếm rất vợ chồng, cái điệp khúc rất trẻ con, rất hiền triết, rất đáng yêu:

tin thì tin không tin thì thôi

Và riêng tôi, thú thật, tôi cũng muốn mượn nguyên văn câu thơ trên của Trọng Tạo làm chủ ý cho bài viết sơ sài này. Tin thì tin không tin thì thôi!

MẤY LỜI NÓI THÊM NHÂN BÀI GIỚI THIỆU THƠ NGUYỄN TRỌNG TẠO
Quả thế, xưa nay thường có nhiều ý tứ sâu xa của thi sĩ mà cứ phải chờ hàng chục, hàng trăm năm sau khi thi sĩ về trời rồi, thiên hạ mới khám phá ra những góc cạnh quí báu của tấm lòng thi sĩ thường bị bóng tối ngu si của thời gian vùi lấp. Ít lâu nay, ta thường nghe hai cụm từ quen thuộc đến nhàm chán: TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI. Hình như Hồ Xuân Hương đã thành cổ lỗ huống chi còn Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Tản Đà, Tú Xương v.v...! Ai biết quý trọng vốn quý thì còn xếp các vị tiền bối ấy vào loại cổ điển còn những kẻ vong bản, vong ân thì vơ đũa cả nắm là “cũ kỹ, cũ mèm" tuốt! Tưởng cổ điển thì từ cấp 2, cấp 3 học xong rồi thì xếp vào ngăn tủ, tìm hiểu lại làm gì. Còn có những thái độ hỗn xược với người xưa nữa, có anh giở tờ Văn Nghệ thấy tên bài viết có ý nói về một vài câu nào đó trong truyện Kiều hoặc Chinh Phụ Ngâm thì quẳng ngay tờ báo xuống chiếu, nhại ngay câu bất hủ của cụ Cố Hồng (Vũ Trọng Phụng) mà rằng: “Biết rồi! Khổ lắm! Nói mãi!..." Ấy là chưa kể rất nhiều bài nghiên cứu thơ đăng báo, in ra thành sách rồi, mà còn trích sai, sai đến thảm hại, chứng tỏ người viết không hiểu gì văn học, nghệ thuật. Tình trạng này hầu như gần đây khá phổ biến khiến những độc giả chân chính nghĩ mà lo cho nền văn học dân tộc sao lại có nhiều người vô trách nhiệm quá. Nghiên cứu chỉ là sao chép lại của người khác để "cứu" cái túi tiền của mình đang có nguy cơ đói đô- la thành ra nghiên cứu văng- tê, phê bình văng- tê, trích dịch văng- tê, để rồi tiêu tiền của công quỹ cũng văng- tê.

Từ mười năm nay, tôi cứ ao ước và cũng có lần xin phép Hội Nhà Văn cho xuất bản một tờ báo thơ. Để ít ra thì cũng có nơi đãi cát lấy vàng. Kể thì nhiều báo lắm. Báo về thương mại, về tài chính cũng đăng thơ. Còn chính thức, RA MỘT TỜ BÁO THƠ thì không có mặt. Đó là điều cũng gọi là khá kỳ quặc trong khi dân tộc ta là một dân tộc yêu thơ. Đến cả người mới biết đọc biết viết cũng có thể làm ra một vài câu lục bát. Một tập thơ hay như ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN này phát hành đã sáu năm rồi mà cũng ít người nhắc đến, hoặc chỉ giới thiệu như một lời quảng cáo sơ sài. Có thể trong hàng mấy trăm tập thơ in ra mỗi năm, có nhiều bài hay, nhiều câu thơ hay mà rất ít người biết đến. Nếu có một tờ báo thơ, hẳn nhiều người làm thơ hoan nghênh vì đa số các bạn in thơ đều là những người nhiều cảm xúc mang nhiều suy tư trước thời đại đang biến chuyển vùn vụt, ai cũng mong giãi bày lòng mình muốn nói điều gì đó với thời đại. Tuy cũng có đôi ba anh “tập sự thơ" cố chạy được món tiền nhỏ in thơ ra để khoe mã, để “ra đều" ta cũng là “nhà thơ" cho sang trọng với phố với làng, thì vẫn là số rất ít, ta cũng nên chỉ gật đầu khích lệ thôi, vì điều đó chẳng hại ai. Nhưng gần 15 năm đổi mới mọi mặt của đất nước mà tôi cứ gào, cứ gọi, cứ ao ước mãi chẳng ai hồi âm, điều đó mới thật có hại cho nền văn học dân tộc của chúng ta. Tôi xin phép làm vui một chút viết mấy câu bằng lối chơi chữ (chẳng qua cũng chỉ là đôi lời than thở)

Này báo thơ ơi, liệu có nhầm
Ngủ đâu ngủ mãi chẳng tri âm
Nàng Thơ tài sắc không ra thớ
Dân tộc đầy thơ, thơ cứ câm

Muốn hỏi vào Thơ không thở được
Dẫu đăng nhan nhản cũng như thừa
Hay vì nặng nợ đi làm thơ
Huyền hoặc thờ ai? Ới hỡi Thơ

Anh Trọng Tạo và các bạn đã làm thơ, đã có thơ in sách, đăng báo ơi! Không có báo thơ, phải chăng vì đất nước chúng ta nhiều nghịch lý? Đầu làng hạn hán, cuối làng úng thủy. Trong nhiều ngành công tác, người ngay thẳng thường bị mất việc hoặc bị dìm dập, kẻ lươn lẹo giả trá, cái lưỡi quá mềm, càng lắt léo thì cột xương sống càng cong xuống lại lên xe xuống ngựa, nhà cao cửa rộng, đô- la ních chật tủ. Tài nguyên thì giời ban quá rộng, rừng vàng biển bạc đấy, vẫn nhiều nơi túng thiếu, chỉ no lưng lửng. Tài nguyên đã rồi rào mà tài năng càng không thiếu. Học sinh thông minh hiếu học, hàng năm tốt nghiệp các trường đại học phải kể hàng nghìn chàng trai cô gái ngoan cường nết na, sao dân tộc nói chung còn nghèo, hàng triệu thanh niên không việc làm ổn định? Do đó tệ nạn sinh ra, sinh theo nhiều tội ác. Tài năng thì nhiều, dân cần cù lao động tốt sao công nghiệp ì ạch mãi? Các cậu cử, cô tú cô nghè, ông tiến sĩ thật khối ra đấy mà nay đang làm gì? Chúng mình cứ thành thực thống kê đi, nghịch lý đến mức nào! Tôi nhớ có một vị lãnh đạo chính trị cao cấp của ta, có lần đã phải thốt ra bằng cách chơi chữ về một trong nhiều điều nghịch lý của đất nước:

Thẳng thắn thật thà thường thua thiệt
Lỗi lầm lươn lẹo lại lên lương

(ý muốn phê phán một số cán bộ lãnh đạo chính quyền và kinh tế sợ và ghét bỏ những người hay nói thẳng mà chỉ ưa những kẻ nịnh hót. Đó chính là điều nguy hại đến uy tín và sự lãnh đạo của Đảng). Cũng như nhiều bài thơ Nguyễn Trọng Tạo cũng mỗi dòng một nghịch lý trong tâm tư và ngoài xã hội:

có câu trả lời biến thành câu hỏi
có kẻ ngoại tình ngỡ là tiệc cưới
có cha có mẹ có trẻ mồ côi
có ông trăng tròn nào phải mâm xôi

Sống trong những nghịch lý ngoài đời và trong tâm tình, thơ anh vẫn tràn trề sinh lực, vẫn theo đúng luật trời luật người có lương tâm, thơ anh vẫn đầy nắng ấm:

mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ
mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió
...
nhưng tôi người cầm bút than ôi
không thể không tin gì mà viết

Tôi được cái may là người bạn quên tuổi của anh từ ngày tôi trở lại Hội Nhà Văn 1988. Tuy trước đấy có biết qua loa về anh do bài hát Làng quan họ quê tôi khá xúc động. Quê tôi chính gốc là môt làng quan họ Bắc Ninh. Thấy anh gốc ở Nghệ An lại vì nghệ thuật mà nhận vơ Kinh Bắc làm quê mình, tôi rất vui thích. Các em ngày xưa hát đùa nhau: Nhận vơ là vợ (thằng) nhân
Dẫu Trọng Tạo có “nhận vơ" khi đặt tên cho một bài hát đẫm tình yêu quê hương Kinh Bắc của tôi, thì tôi càng thấy rõ tâm tư anh đúng thật là tâm tư người Kinh Bắc.

Tên anh là Nhân ư? Bình luận rộng ra một chút, xin phép các bạn, anh đúng là người quê tôi, chỉ bằng vào giai điệu và lời bài ca nổi tiếng, bài ca được dân vùng quê tôi đã hát say sưa và còn hát mãi. Là vì nghe quan họ, đọc dân ca, xem tranh dân gian, nghe truyện cổ tích Việt Nam, những cốt chuyện xuất xứ từ đất Kinh Bắc xa xưa ta đều thấy tố chất NHÂN - yêu thương con người, yêu thương xứ sở, một chữ NHÂN lồng lộng sáng, bao phủ cả bầu trời Kinh Bắc hàng bao nhiêu thế kỷ và lan tỏa ra các bầu trời của toàn cõi Việt Nam, một tố chất duy nhất làm nên các tác phẩm nghệ thuật của dân tộc. Từ cổ tích nhuốm màu huyền thoại như: Tấm Cám, Thạch Sanh, Trương Chi, Thánh Gióng, đến các nhân vật huyền thoại có thật trong lịch sử như Tiên Dung Công Chúa, Mỵ Nương, Mỵ Châu, Như Vương phi Ỷ Lan, Lý Chiêu Hoàng, Huyền Trân Công Chúa,, Ngọc Hân Công chúa. Sau đến các thi sĩ lớn Lý Nhân Tông, Lý Thường Kiệt, Trần Thái Tôn, Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, Cao Bá Quát, Cao Bá Nhạ... toàn là người Kinh Bắc.

Tôi thấy Nguyễn Trọng Tạo rất xứng đáng đứng vào hàng ngũ những người thơ Kinh Bắc hôm nay. Tôi một đứa con trai Kinh Bắc đến 80 tuổi tự rót chén rượu mừng cho quê mình có thêm đứa con Nguyễn Trọng Tạo, sau rót chén thứ hai mừng anh Trọng Tạo kết nghĩa anh em với chúng tôi, những người được đất quê vun trồng, chăm bón cho thành được một thi sĩ của quê hương nhà Lý khoan hòa nhân ái suốt hai thế kỷ, mà hương ngát của lòng bác ái, đức nhà Phật còn tỏa dài sắp tới kỷ niệm 1. 000 năm Lý Công Uẩn lên ngôi rồi rời đô ra Thăng Long, đem lại gốc nhân, cây nghĩa bền chặt và lung linh sáng đẹp đến muôn đời sau.
Để kết thúc đoạn viết hơi xa đề cũng là kết thúc cả hai phần của bài viết về thơ Nguyễn Trọng Tạo này, tôi lại xin phép tác giả, xin phép các bạn “nhại" câu thơ trên kia
Thi sĩ đã tin thì không ai không tin

Tháng 7 năm 2.000
H.C
(139/09-2000)

______________________________________________________

Văn nhân với thị trường

Hoài Nam

Viết không chủ yếu nhằm phục vụ cho một tư tưởng chỉ đạo nào đó, hướng mạnh mẽ cái viết của mình đến công chúng độc giả - càng đông càng tốt - nhiều người viết tất yếu sẽ đặc biệt quan tâm đến nhu cầu đọc, đến thị hiếu thẩm mỹ đọc của đại đa số độc giả.

Thuở trước ở xứ ta, văn chương là tuyệt đích, là tối thượng cao khiết của sinh hoạt tinh thần. “Văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí”, tất thảy những ai đã bước qua Khổng môn đều thấm nhuần tôn chỉ văn chương này. Nho gia động bút, mục đích là để xiển dương Đạo thánh hiền, để “tịch tà cự bí”, nêu gương sáng, răn dạy cho thế đạo nhân tâm, hoặc chí ít, cũng là để tỏ rõ cái bản ngã trong sáng, cao thượng, “nhuộm chăng đen, mài chăng khuyết” của mình. Thứ văn chương ấy, ở giác độ phương thức phổ biến của nó, là để biếu để tặng, để xướng để họa với bạn hữu, và rồi ghi lại thành văn tập thi tập lưu truyền cho con cháu trong nhà. Nó không để bán, vì chẳng tiền bạc nào (hoặc những thứ lợi lộc có thể quy thành tiền) mua được, vả chăng thời ấy cũng nào đã có một cái chợ (thị trường) để sản phẩm văn chương trở thành thứ có thể cho người ta bán và mua?

Tất cả đã thay đổi kể từ những năm đầu thế kỷ XX. Đô thị tư sản ra đời. Xuất bản và báo chí phát triển. Một lớp công chúng mới của văn chương hình thành: họ đọc văn chương qua việc mua sách và báo. Một kiểu văn nhân sống bằng việc viết văn bán cho các tòa báo, các nhà xuất bản cũng dần hình thành. Tiêu biểu cho “làn sóng thứ nhất” của kiểu văn nhân này chính là Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Không của nả, không đỗ đạt, ông ấm Hiếu bước chân vào đô thị tư sản chỉ với một thứ lợi khí: tài thơ văn. Không khỏi có những lúc ló ra cái mặc cảm của kẻ biến văn chương thành cần câu cơm (nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng), song nói chung thị trường văn chương đã cho Tản Đà nhiều thứ, và ông biết rõ điều đó: “Trời sinh ra bác Tản Đà/ Quê hương thời có, cửa nhà thời không/ Nửa đời nam, bắc, tây, đông/ Bạn bè sum họp, vợ chồng biệt ly/ Túi thơ đeo khắp ba kỳ/ Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió trăng”. Nhà thơ rong ruổi từ Bắc vào Nam không phải bằng tiền túi của mình hoặc bằng công vụ phí của nhà nước, mà ông đi bằng cái hầu bao nặng của các Mạnh thường quân yêu mến văn chương. Sẽ không thể có chuyện đãi đằng như vậy nếu Tản Đà không sáng tác thơ văn bán trên mặt báo, nhờ sức phổ biến của báo chí mà làm nên một “cơn gió lạ” thổi suốt thi đàn cả nước những năm 1915-1930. Nhưng mặt khác, bước vào chợ văn, “ông thần ngông” Tản Đà cũng “được” ngấm đến độ cái khắc nghiệt của nó. Ông giãi bày: “Bao nhiêu củi nước mới thành văn/ Được bán văn ra chết mấy lần/ Ông chủ nhà in in đã đắt/ Lại ông hàng sách mấy mươi phân/ Mười phân gửi bán lấy tiền sau/ Bán hết thu tiền đợi cũng lâu/ Lắm lúc túng tiền đem bán rẻ/ Trừ đầu trừ cuối nghĩ càng đau” (Lo văn ế). Cuối đời, Tản Đà phải sống rồi chết trong cảnh khốn khó, trong một căn nhà nát ở phố Cầu Mới, ấy cũng là kết quả và là sự hiển hiện tê tái của một tác giả đã lỗi thời, một thứ sản phẩm văn chương đã “hết date”, không hợp khẩu vị thị trường đương thời, bán không ai mua!

Sau Tản Đà, cả một thế hệ văn thi sỹ Việt Nam dấn thân vào thị trường văn chương. Người thành kẻ bại, người ung dung thư nhàn kẻ đầu tắt mặt tối. Ung dung thư nhàn, không phải lo lắng nhiều lắm về tiền bạc như kịch tác gia Vũ Đình Long - ông chủ nhà xuất bản Tân Dân, hay như những người chủ trương báo Phong Hóa, Ngày Nay (Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo) vốn chỉ là thiểu số: họ biết cách kinh doanh với mặt hàng văn chương. Đa số còn lại đều sống khá chật vật giữa chợ văn. Say đắm hết mực với những thứ ái tình mây bay gió thoảng như Xuân Diệu mà cũng có lúc phải thốt lên: “Nỗi đời cơ cực giơ nanh vuốt/ Cơm áo không đùa với khách thơ”. Trần Huyền Trân viết những câu thơ như chan hòa huyết lệ: “Đã có lần khói bếp không lên/ Vợ ngược con xuôi túi hết tiền/ Chồng gục cả lòng trên giấy mực/ Đen ngòm mặt đất tối như đêm/ Trang lại trang máu lẫn mồ hôi/ Từng dòng tay bút đã buông xuôi/ Giữa khi ông chủ buôn văn ấy/ Tiệc rượu lầu cao ngả ngốn cười” (Đời một nhà văn). Nguyễn Vỹ thốt lên đầy phẫn hận: “Bây giờ thời thế vẫn thấy khó/ Nhà văn An Nam khổ như chó/ Mỗi lần cầm bút viết văn chương/ Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương/ Rồi nhìn chúng mình hì hục viết/ Suốt mấy năm trời kiết vẫn kiết/ Mà thương cho tôi, thương cho anh/ Đã rụng bao nhiêu mớ tóc xanh” (Gửi Trương Tửu). Đó là các nhà thơ, nhưng những người viết văn xuôi cũng chẳng khác là mấy. Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Tô Hoài, Lê Văn Trương v.v... viết miệt mài, xuất hiện từ số báo này sang tới số báo khác, và không ít lần họ đã phải lên tiếng than vãn về cái cảnh thân trâu cày trên cánh đồng chữ nghĩa, cứ hễ ngưng bút là túi rỗng bụng đói! Nhìn một cách “có lập trường”, ai đó sẽ bảo rằng đó là những tiếng nói tố cáo sự bất công xã hội, là lời lên án thói bóc lột trong làng văn làng báo đương thời. Nhưng nhìn theo cách khác, lại có thể mạnh dạn cho rằng chính những tiếng nói ấy đã làm hé lộ diện mạo của một đời sống văn chương mang tính chuyên nghiệp, chuyên nghiệp theo nghĩa: sáng tác văn chương là một nghề để sống, và người làm nghề thì chỉ có thể sống bằng cách đeo bám lấy nghề (có giàu được bằng nghề hay không lại là chuyện khác). Kết quả: đa số những người làm nghề kể trên đều là những tác giả lớn của văn chương Việt Nam trước 1945, lớn nhờ những sản phẩm mà họ đưa vào chợ văn. Vậy xét ra, thị trường có “công” chứ chẳng mấy có “tội” với văn chương!

Từ sau năm 1945 cho đến trước thời đổi mới, thị trường văn chương như vậy đã bị biến dạng đi rất nhiều (thậm chí khó có thể nói đến sự tồn tại một thị trường văn chương trong khoảng thời gian này). Sự sáng tác của văn nhân được hướng dẫn sát sao, việc in ấn tác phẩm phải theo chỉ tiêu (thậm chí cả chỉ tiêu cá nhân) chứ không theo quy luật cung cầu “tự nó”, và bản thân người viết thì phần công chức cũng dày hơn phần văn nhân. Nói chung, suốt ba mươi năm chiến tranh rồi khoảng mười năm sau chiến tranh, tính chất “chợ” của nền văn chương ta khá nhạt. Nhà nước lo việc làm, cơm ăn, áo mặc cho tất cả, văn nhân không phải hì hục viết văn để kiếm sống như lớp người cầm bút thời tiền chiến (cho dẫu cuộc sống của phần nhiều trong số họ chẳng có gì gọi là dư dả, và cho dẫu vẫn có những người sống khá tốt bằng việc viết văn. Nguyễn Khải chẳng hạn: trong một cuốn tiểu thuyết tự truyện, ông cho biết những năm đó ông viết rất khỏe, lại là nhà văn được ưu ái nên sách in ra liên tục với số lượng ấn bản lớn, tiền nhuận bút đủ để gia đình sinh hoạt thoải mái). Sự trở lại với quỹ đạo vận hành bình thường của thị trường văn chương ở ta chỉ diễn ra trong khoảng mười mấy hai mươi năm nay. Nhưng có vẻ như quán tính của thời bao cấp vẫn mạnh, nên lớp nhà văn chỉ sống và có thể sống được bằng nghề văn rất ít, đếm trên đầu ngón tay (vì thế cũng có cái hay là ít thấy ai lên tiếng bắt nghề viết văn phải chịu trách nhiệm trước cái nghèo!). Dẫu sao thì thị trường đã có và đã cho thấy sức chi phối của nó trên cái viết của văn nhân thời nay. Viết không chủ yếu nhằm phục vụ cho một tư tưởng chỉ đạo nào đó, hướng mạnh mẽ cái viết của mình đến công chúng độc giả - càng đông càng tốt - nhiều người viết (nhiều, chứ không phải tất cả) tất yếu sẽ đặc biệt quan tâm đến nhu cầu đọc, đến thị hiếu thẩm mỹ đọc của đại đa số độc giả. Nó là cái gì vậy? Là những chuyện, nói chung, có thể đánh vào tâm lý hiếu sự, thỏa mãn tính tò mò của độc giả, giúp họ có dịp trải nghiệm những hiện thực ảo mà họ không, hoặc ít có dịp trải nghiệm trong cuộc đời thực tế khá nhạt nhẽo của mình (chuyện tình ái éo le mùi mẫn, chuyện phòng the, chuyện trong thế giới bán phấn buôn hương, chuyện của các mối quan hệ đồng tính... đang trở thành những mặt hàng đắt khách hiện nay). Cái lý cho sự tồn tại của văn chương giải trí là như vậy. Thực tế, nhu cầu giải trí là nhu cầu thường hằng trong sự tiếp nhận văn chương, nhưng chỉ ở điều kiện tác phẩm văn chương có thể đưa ra thị trường, có thể bán và mua, nó mới tạo đất cho văn chương giải trí phát triển mạnh. Nhưng viết giải trí cũng dứt khoát là phải có nghề, và rõ ràng là rất nhiều tác phẩm “có nghề” đã xuất hiện. Vì vậy, chỉ nhìn vào việc tác phẩm viết theo những đề tài thời thượng và có được một lượng phát hành lớn mà vội bĩu môi cho đó là “văn chương thị trường”, kém phẩm chất, không có khả năng tồn tại lâu dài, e rằng đó là cái nhìn nếu không quá khắt khe thì cũng đầy ghen tức!

____________________________________________________