Thứ Bảy, 31 tháng 7, 2010

Nhà văn không cần dùng cô đơn để gây kịch tính

VNT Phỏng vấn Nguyễn Danh Lam

PV: Là một người vừa làm thơ, viết truyện ngắn, và cả tiểu thuyết nữa. Anh đã bao giờ rơi vào tình trạng được/ bị người đọc đánh giá về những sáng tác của mình trên bình diện tư tưởng. Vì mọi người vẫn có thói quen nhận xét một tác phẩm hay là phải có nội dung tốt, mang tính tư tưởng cao. Tại sao không nghĩ một cách khác, vì biết đâu tâm thế người sáng tác ngay khi bắt đầu đặt bút đã đặt ra tiêu chí đơn giản là giải trí. Đọc/ viết tiểu thuyết điều đầu tiên anh nghĩ đến là gì?

NGUYỄN DANH LAM (NDL): Cho đến lúc này, nếu tự nhìn nhận, tôi thấy những trang viết của mình “có chứa đựng tư tưởng”, một cách chủ động, chủ đích. Đến độ, một trong những nguyên nhân để tôi… không dám làm thơ nữa là do tôi đã “nhét” vào thơ quá nhiều… triết lí! Thuở bé đọc văn học Nga cổ điển, tôi còn lưu trong trí nhớ những trang viết dài dặc, nơi tác giả, nhân vật “tung hoành” với triết lí. Bước vào tuổi thanh niên, với bước chuyển hậu bao cấp, kéo theo đó là bao đổi thay, như chiếc xe chạy qua khúc cua, hay con thuyền phút bẻ lái chòng chành, tôi càng chú trọng đặt cho mình vấn đề lí tưởng sống. Kế đó, tôi đọc nhiều sách triết. Vừa đọc vừa viết và rơi vào tình thế… lí sự. Cho đến nay, tôi vẫn đang nỗ lực rút dần ra khỏi mớ “lí sự” này, hòa nó vào ngôn từ, mà đích đến tự đặt ra là “văn học có suy tư”. Còn “những tác phẩm văn học có nội dung tốt, tính tư tưởng cao”, câu này mỗi người có thể hiểu theo một cách khác nhau. Tôi thực hiện nó theo cách của mình. Riêng tiêu chí “đơn giản là để giải trí”, tôi đang “đánh đu” với nó bằng những công việc khác, chứ không dùng văn học.

PV: Khi nhận định về tiểu thuyết trẻ hiện nay nhà phê bình Nguyễn Chí Hoan cho rằng “Một số tiểu thuyết trẻ tôi đọc thì thấy hàm lượng tri thức không nhiều. Không nên coi tưởng tượng như là mơ mộng bịa tạc và kiến văn như là trí nhớ của một giáo sư đáng kính nào đó. Trí tưởng tượng của một nhà văn nằm ngay trên ngôn từ của tác phẩm. Phần nhiều tiểu thuyết trẻ chưa có được ngôn từ riêng của mình”. Anh có thể chia sẻ những suy nghĩ của anh với bạn đọc?

NDL: Mọi nhận định và phát biểu đều có “căn cớ” riêng của nó, tôi nghĩ Nguyễn Chí Hoan có lí của anh, cho dù có nhận được sự đồng tình hay không. Tôi không phải là người phát ngôn của những bạn viết tiểu thuyết trẻ hôm nay, chỉ xin tự soi mình, tôi thấy cái thiếu của tôi là… vô tận! Trong đó có nhiều cái thiếu không thể khắc phục được, bởi nó đã thuộc về vô thức, nền tảng. Khi đọc những người cùng trang lứa với tôi trên thế giới, như Kiran Desai với Di sản của mất mát, hay Jonathan Littell với Những kẻ thiện tâm… cùng rất nhiều ví dụ khác, tôi không đủ huyễn hoặc để an ủi mình, ta chẳng thua gì họ!

PV: Có người cho rằng văn chương trẻ hoặc là quá nhiều triết lí, nhiều tuyên ngôn, hoặc là quá nhiều những câu sáo rỗng, sến. Hai khuynh hướng đó có quá cực đoan không khi rõ ràng có rất nhiều tác giả đã tạo được tên tuổi của mình, tạo được thương hiệu của mình, và điều đơn giản nhất là mỗi khi họ xuất hiện bạn đọc đều chờ đợi và tò mò xem sẽ có cái gì mới?

NDL: Những nhận xét trên, cũng như nhận xét của nhà phê bình Nguyễn Chí Hoan, đều có “căn cớ” của nó. Nhưng tôi nghĩ những thứ “bệnh” này là tất yếu, giống như ho gà, sởi, sốt xuất huyết… ở trẻ em vậy! Thậm chí nó còn cần thiết ở mặt nào đó. Nó giúp cho các cây bút tự điều chỉnh, qua đó mà tiến lên. Có thể lấy ví dụ như khi bạn chạy xe, để có thể tiếp tục chạy, bạn phải liên tục đánh tay lái qua lại, nghĩa là chuệch chọac, lảo đảo một tí. Còn nếu ai đó đem cột thẳng đơ tay lái chiếc xe của bạn, không cho nó “lắc lư” chút nào cả, tôi đảm bảo bạn ngã lăn quay ngay! Không tin bạn cứ thử cột mà coi!

PV: Có lẽ chẳng ai phải thử điều đó nếu muốn chiếc xe của mình đi được. Trong tiểu thuyết mới nhất của anh “Giữa dòng chảy lạc” những nhân vật đều mang những nỗi cô đơn, sự lạc lõng trước cuộc sống của mình thậm chí không còn cảm giác gì nữa. Đó dường như là tâm trạng của những người trẻ thời hiện đại. Sự bế tắc là tâm sự của một thế hệ hay phải chăng nỗi cô đơn dễ tạo nên những kịch tính, những dằn vặt và cả những suy tư của con người, của câu chuyện?

NDL: Nếu tôi trình bày ở đây mọi thứ tôi cần nói, có thể vấn đề sẽ đi sang một hướng khác, không gần lắm với phạm vi câu chuyện này. Hơn nữa, tôi cũng không muốn nói thêm ngoài những gì mà mình đã viết ra. Tuy nhiên, tôi có thể phác qua. Tương ứng với giai đoạn “mười mấy đôi mươi” của thế hệ tôi là thời kì thoát khỏi nền kinh tế bao cấp, cùng nhiều thứ liên quan. Kế theo một khoảng nôn nao chuyển đổi, những “giá trị sống mới” bắt đầu hình thành, rồi “lên ngôi”. Khi tôi ngồi học trong nhà trường, thì lí tưởng vẫn là những thứ rất… sách vở, nhưng bước ra khỏi cổng lại là một thực tế rất khác. Tôi bắt đầu cảm nhận, mình là thành viên của một “Lost Generation”, khi cái cũ đã qua mà cái mới còn chưa tới. Ở vế thứ hai của câu hỏi, nhìn vào bề mặt cuộc sống hôm nay, bằng những thông tin từ báo chí, thì những gì văn học đang “phản chiếu” vẫn còn rất hiền hòa! Vì thế, tôi không nghĩ nhà văn phải dùng đến cô đơn để làm chất liệu gây kịch tính. Thậm chí, cô đơn là thứ lắng lại sau những dằn xóc bề ngoài mà người trẻ đang phải đối mặt, dù có chủ động ý thức hay không.

PV: Nói như thế có nghĩa nhà văn hiện nay có rất nhiều tư (chất) liệu, nhiều điều để viết và cần viết. Cái quan trọng là viết thế nào cho người đọc cảm thấy hứng thú, rằng đó không phải là cuộc sống được bê nguyên xi vào, mà đó là cuộc sống thông qua con mắt của những người trẻ. Vậy trong số những tác giả trẻ hiện nay anh chú ý đến cây bút nào?

NDL: Tôi vẫn tìm đọc lại Phan Thị Vàng Anh, Phan Triều Hải, Đỗ Phước Tiến… vì rất thích họ. Dù họ không còn trẻ về tuổi nữa! Ngoài ra, sau này tôi đọc Nguyễn Vĩnh Nguyên, Trần Nhã Thụy… Đọc, chứ không phải “chú ý” vì họ đã ở đó rất rõ ràng rồi!

PV: Và còn một điều tôi muốn nói đó là vẫn còn đâu đó lối viết coi tiểu thuyết chỉ là tả và kể cho xong một câu chuyện dài mà ít chỗ dừng lại để ngẫm ngợi, suy tư dằn vặt về cuộc sống quá vội và cũng có quá nhiều cạm bẫy như hiện nay?

NDL: Tôi đang thực hiện công việc của mình theo chu trình: có sẵn cái “ngẫm ngợi”, sau đó mới tìm một câu chuyện, giống như một li nước để hòa cái “ngẫm ngợi” kia vào đó, đem tới người đọc, như kiểu pha một li cà phê, thay vì bắt họ… ăn cà phê bột, hoặc ngược lại chỉ đem tới cho họ nước đuờng.

PV: Anh từng nói mỗi truyện ngắn trước đây anh viết khoảng một đêm. Những truyện sau này viết chậm hơn, khoảng ba đêm. Riêng “Đất”, khoảng một tuần, với mỗi đêm chừng hai tiếng vì lúc ấy anh bận nhiều việc. Còn với “Giữa dòng chảy lạc” phải mất bao lâu cuốn tiểu thuyết này mới hoàn thành?

NDL: Tôi phải làm báo kiếm sống, mất rất nhiều thời gian, mỗi tuần nỗ lực thu xếp lắm cũng chỉ rảnh ra được đôi ba tiếng để có thể viết văn. “Giữa dòng chảy lạc” được tôi viết túc tắc hơn một năm, với hơn 100 ngàn từ (âm tiết), so với hai cuốn tiểu thuyết trước đó thì quá chậm!

PV: Anh đang nói nhiều đến những suy tư. Liệu điều đó có bao giờ làm anh cảm thấy mỏi mệt không? Và anh đến với văn chương vì lẽ gì, giải thoát hay giãi bày đây?

NDL: Không, “con người là cây sậy biết suy tư” mà. Nên suy tư đâu hẳn đồng nghĩa với mỏi mệt. Thậm chí chừng nào không còn biết suy tư nữa mới là “mệt”! Văn chương là một phần đời sống, công việc, của tôi. Nên nhiều khi tôi đã “quên” mất lí do sự tồn tại của nó bên mình. Vì vậy không loại trừ khả năng nó “ở đó” bằng tất cả những lí do như, giải thoát, giãi bày, trách nhiệm công dân, cây cầu bắc giữa mình với đời sống xã hội…

PV: Để nói về thế hệ những nhà văn trẻ theo anh, họ đang thiếu điều gì và cần phải đánh giá họ như thế nào cho công bằng?

NDL: Xét riêng trường hợp của mình, ngoài những thứ thiếu “bó tay” thuộc về nền tảng như tôi đã nói, cái mà tôi thấy thiếu nhất bây giờ là… thời gian. Thời gian để đọc, để học, để suy tư, để viết một cách chuyên nghiệp. Còn việc đánh giá? Lại là “giải pháp” cũ mèm “xin chờ thời gian”.

PVVNT thực hiện

Nguồn: VNT

___________________________________________________

Cú mèo và rượu hoa (tiếp theo)

Truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ

Ông Nhân vái rầm rập, nước mắt tuôn xối xả trên khuôn mặt vẫn vương những đường nét rõ ràng, chút thanh lịch văn minh phảng phất không phai. Mừng và Sim mủi lòng. Có bao giờ thân phận một thằng kiếm củi bán dạo từ năm lên chín không biết chữ, với con bé quanh đời sống trên thuyền trôi vật vờ ngoài mé biển, hết chạy buôn cá lại đến phơi cá, học hết lớp ba thì bỏ tắt đi buôn vặt với mẹ, đâu ngờ đến ngày, có hẳn tiến sĩ thành phố vái đầu lạy ràm rạp thế này. Thế quái nào, ba người khóc tu tu. Còn Tâm vẫn nằm nguyên một góc, ngoẹo ngoẹo lầm bầm “Tôi không ở chợ. Cho tôi về nhà. Chợ đông quá. Tôi về nhà tôi”.
***
Trước ngày về bển, vợ chồng cú mèo bỗng hạ nhiệt, thoắt tử tế, pha chút thương người. Vẫy Mừng vào, đưa ra một cuộn giấy dày, hoa văn chìm màu sắc rất tươi, to và dài gấp ba lần cuộn giấy vệ sinh nhà ông Nhân thường dùng “Cho mày đấy. Tao thấy mày cũng thật thà, chăm chỉ hầu anh tao, cháu tao”. Mừng cầm cuộn giấy, nhìn, gọn lỏn “Thì cũng giấy chùi đít chứ gì” Nghe thấy thế, con mắt duy nhất trên mặt cú mèo vợ giật lên đùng đùng, nháy nhanh như có người cầm dây giật con rối. Vội lấy bàn tay gầy, móng tay đính đá bảy màu, mu bàn tay gân to bằng cái đũa nổi chằng chịt, xoa nhanh, xát mạnh lên con mắt cú mèo to màu tro xám đang nhắm nghiền lại. Bàn tay vừa xoa rối rít, vừa như muốn giữ cho con mắt khỏi bật ra. Bà bị kích động mạnh. Cú mèo chồng rít lên “Mày nói năng thế hả? Láo. Đúng là giấy chùi đít, nhưng mà là của Tây. Với loại chúng mày, có mang chùi mồm cũng phí đi. Đường sá xa xôi, cất công mang về đây cho, mày cất vào cái tủ kính kia kìa, ai vào cũng nể đấy”. Mừng lì lì mặt, cầm cuộn giấy mang đặt vào trong ngăn tủ kính, cạnh mấy cái bằng khen của ông Nhân. Giấy khen của trường Nga tặng, nằm trong khung cũng mang ở Nga về, thời gian trôi lâu, màu vàng vẫn không xỉn. Thêm một cái mở rượu vang, một móc khóa có hình cái tháp rất cao. Xếp vào tủ kính hết. Cú mèo vợ cho Sim ba cái chân váy, mai kia mày chửa to, mặc cho mát. Nhà quê chúng mày không quen mặc thứ đồ xa xỉ này, ngượng lắm đấy, nhưng cứ mặc cho quen dần với văn minh đi. Cú mèo chồng cho Mừng một cái quần, lúc về đây, nó chưa rách gấu, chẳng may đi chơi, móc vào que sắt ven đường biển, toạc một đoạn. Mày khâu lại, mặc chục năm không bạc màu đâu.
Sau cái đêm ông Nhân lạy cồm cộp Mừng và Sim, ba người ra nghị quyết là im lặng, đón nhận bình thản tất cả mọi lời lẽ, hành động của vợ chồng cú mèo, vì đằng nào họ chẳng biến. Thế nên, cho chân váy, lấy luôn. Cho quần rách, vâng, cháu xin, sẽ vá lại mặc chục năm còn bền. Anh em chia cái nhà đã bán bằng cách anh viết giấy nợ tiền em, trả dần trong hai năm, theo giá vàng. Bán vàng, đổi sang đô la chuyển vào tài khoản là gọn. Bữa cơm chia tay toàn món hai vợ chồng cú mèo thích. Cua biển lột, chất lượng đến từng cái chân. Tôm bơi, bóc vỏ chấm mù tạt, một con thế này ở bển đến trăm đô không ít. Mừng chạy lên hàng bán đồ biển to nhất vùng, mua được vài lạng ốc hương, thứ này xưa đầy không ai thiết, giờ có con gì ngon, bổ là bán sang Tàu, phải dặn mãi, mới kiếm được chục con ốc, đắt lòi con mắt bà cú mèo. Bốn người quây quần bốc bốc mút mút. Riêng anh Tâm, ngẩn ngơ nhìn chân núi xa, giục mọi người ăn nhanh cho tôi về nhà, mấy hôm nay cứ bắt tôi ra chợ ở, đau đầu quá. Ở nhà, tôi đang xây tháp treo cái chuông, chiều đến thỉnh cho không vắng mé rừng.
Chiếc taxi hôm nào đưa hai vợ chồng cú mèo về nhà ông Nhân, rõ ràng hẹn chắc chắn mà quá gần một giờ, vẫn không thấy đến. Mừng và Sim nói, để chúng cháu kéo va li cho cô chú ra ngoài đường nhựa, đón xe khác đi không có muộn giờ. Các cuộc chia tay bao giờ cũng bồi hồi, bịn rịn như thể không có những ngày rin rít tiếng khoan bê tông của cú mèo mái, tiếng chì chiết trách móc của cú mèo trống. Tâm vẫn cười nụ cười từ sau khi ngã đập đầu xuống gờ đá, ngô nghê như trẻ sáu tháng tuổi, người lớn bảo “làm xấu đi” thế là nhíu cái mũi, nhành cái miệng làm xấu cho người lớn vỗ tay. Ông Nhân được Mừng đẩy ra tận cổng, vòng cánh tay cong cong như nửa cái mắc áo, ôm lấy thằng em duy nhất ngày xưa, nó bị đau bụng, anh cõng em trên vai chạy đi gọi bố. Đưa được em vào viện truyền nước xong, thở phào, quay về. Đi đến đâu cũng thấy mọi người nhăn mũi, bịt miệng. Mãi mới biết là cu em vãi cứt đầy lưng thằng anh, suốt một con đường dài.
Mừng và Sim kéo hai chiếc va li to đi trước. Đường dốc. Vợ chồng cú mèo đeo túi nhỏ đi sau, không dừng miệng chửi thằng taxi làm ăn mất dậy. “Cái xứ này cấm không tin được ai, ở bên kia mà thế này, có ngay luật sư kiện mày sạt nghiệp. Mà đây là vùng du lịch, phục vụ thế này, chả trách khách trót dại đến một lần, chạy mất tiêu. Kinh quá, kinh quá. Không vì cái việc bán nhà của ông Nhân, đừng hòng ông lôi tôi về cái nơi man rợ này. Ở bển, muốn ra được sân bay, không bị cướp giật giữa đường, tao đã phải nghi binh trước cả tuần. Bọn chuyên săn người về thăm quê hương, biết có mang theo tiền bạc về quê, toàn chặn đường cướp ngang. Mày biết không, va li gửi ở khu siêu thị, khi đi khỏi nhà, tao phải làm như đi mua đồ một lúc rồi về. Hàng xóm láng giềng may không quan hệ với ai nên có đi hay về, chẳng đứa nào quan tâm”. “Con gái cô có biết cô về quê không?” Sim hỏi. “Điên à, ba năm nay chúng tao không nhìn mặt nó. Mày biết là dây với nghiện thì có mà sạt nghiệp. Nó con tao đẻ ra thật, nhưng cơn nghiện lên, nó chỉ quý thuốc, chứ biết ai là cha là mẹ. Cái loại ấy, cứ cho vào trại, cảnh sát dạy”. “Thế cô chú về đây không ai biết à”. “Chúng tao sống ở bển văn minh độc lập lắm, không kéo dây kéo dắt như lũ chúng mày ở xứ này. Ông bà con cháu chui rúc vào một cái nhà không biết kinh”. Sim và Mừng thoáng nhìn nhau, Mừng hỏi tiếp, như thể câu chuyện vu vơ làm cho đường dốc bớt cao, đường dài bớt xa: “Thế cô chú sang bên ấy, không chơi với ai, lúc buồn thì đi đâu?”, “Xời, lo gì buồn. Lão ấy trồng vườn, tỉa lá. Tao thì xem ti vi. Cứ phim truyền hình dài tập mà xem, có mà hết năm này qua tháng khác không hết phim”. “Thế cũng buồn” Sim đế thêm, nhìn Mừng. “Buồn còn hơn dính với người. Vợ chồng tao kinh nhất là phải dính đến người. Tao ghét người nhất chúng mày ạ. Bao năm nay, lâu lắm, tao mới ở chung với đông người như mấy ngày vừa rồi mà chưa phát điên đấy. Kể ra, ở với vợ chồng chúng mày, cũng được”. Cú mèo mái nói một hồi, quay sang, chợt thét lên the thé, sao không có xe, đi bộ sưng chân rồi. Cú mèo trống đang nhìn đăm đăm phía trước, không nghe thấy vợ hết người chửi, quay sang chửi chồng, mắt hút vào đường rãnh giữa hai cái mông tròn đầy của cô gái đang gò người đạp xe leo dốc. Gió biển thổi tung tà áo cánh hở mảng lườn đầy cong, thấy rõ khóe mông hồng.

Họ đi bộ giữa trưa. Hôm nay trời âm u. Gió biển thổi ràn rạt và tiếng sóng vọng về, như có chục người đàn bà ngồi giũ quần áo bên bờ ao. Tâm ngồi ngoài cổng, đang chơi với mấy thanh gỗ, cậu lấy cái bào, bào nhẵn, rồi vẽ lên đó hình những con cua. Ông Nhân được Mừng nhấc lên mặt đường, ngồi lặng trên xe, chưa thích nghi ngay được với sự bình yên vốn dĩ của ông bao năm nay đang quay về. Như tìm thấy một nơi chốn, một không gian, trống toang, trong lành, sung sướng quá, đến nỗi không biết phải làm gì với nó. Nhìn bốn người lếch thếch đi dần về cuối con dốc, những lọn tóc hung vàng của cô em dâu bay quẩn trong gió, cái váy nhung đen lấm tấm hoa trắng bay tạt về sau làm dáng em dâu thêm cao. Bên cạnh là tấm lưng ngay ngắn của thằng em trai, áo sơ mi màu đỏ huyết bầm. Từ bé, nó luôn thích mầu máu đông này. Ông Nhân phải tự lấy hai ngón tay bàn tay trái, cấu cấu, rồi cấu thật mạnh vào cánh tay phải của mình. Cấu mạnh. Cấu thật mạnh. Trong một trưa gió bỗng lộng và cuốn cát bay mịt mù.
***
Trong những cơn mê sảng lảm nhảm Tâm nói với Mừng và Sim, họ đọc ra được điều Tâm muốn về ngôi nhà đang xây dang dở. Năm năm trôi qua. Tâm bớt hoang dại, điên loạn, hai bàn chân đi bén đất chắc chắn, đỡ được thân xác cong queo do cơn tai biến, cũng là lúc ông Nhân liệt toàn thân. Chuyện liệt thêm phần trên người mình, ông không thấy quan trọng mà tệ nhất lúc này là hai mắt hoàn toàn mờ đục. Luôn có một tấm vải dày, màu trắng ngả vàng giăng trước mặt. Ông cũng chia tay chiếc xe lăn chuyên dụng ngày xưa giúp ông ra được biển, ngó nghiêng chợ chiều. Giờ, ông nằm im trong căn phòng gỗ, hai mắt mở to, toàn thân xuội lơ như không xương, không máu chảy. Giường kê sát cửa sổ mở. Với một đôi tình nhân, ngôi nhà này, cái giường này, khuôn cửa gỗ mở ra, bên ngoài bạt ngàn hoa, khi thì màu nghệ phủ dày, xen lẫn tím nhạt, khi thì vàng chóe, lẫn sắc trắng mong manh, quả là một thiên đường không có thật nơi trần thế. Những con chim lông mượt, ức đầy vừa nhảy chuyền cành, vừa kêu chích chích. Tiếng cú rúc. Tiếng gió dạt dào thổi trên những tán cây. Sương mai đọng đầu cành lá thấp, đất ẩm ướt sau cơn mưa đêm, lan tỏa mùi lá cây giập gẫy, mùi hoa dại ngai ngái và mùi không gian tinh khôi. Tâm ngày xưa, đã không nhầm khi chọn nơi này làm chốn thiên đường cho hai bố con ẩn náu phần đời còn lại. Một đời ông Nhân phiêu dạt. Một đời ông Nhân sẽ sống rất lâu, nhưng không bay nhảy được, phải ở để nuôi thằng con của ông, chứ đừng có kiểu lấy thêm vợ để kiếm người trông con cho ông rảnh rang. Lời rủa năm nào của Túy đã hiệu nghiệm. Tâm ngày ấy, sau khi bỏ việc, bán nhà cùng bố về đây định cư, đã tự thề trước mộ mẹ, là một đời không dính vào đàn bà. Trong sạch tử tế như mẹ, rồi cũng chết không nhắm mắt. Không tốt đẹp, đức hạnh như dì Túy, đời cũng chẳng hay ho gì. Ai ngờ, cú ngã khi leo trèo sửa cái góc nhà làm Tâm thành điên dở. Bây giờ, Tâm tỉnh táo dần, cái phần não liệt năm nào thoi thóp sống lại, đủ cho một việc duy nhất là hoàn thiện lắt nhắt những góc nhỏ của ngôi nhà. Tuyệt nhiên, Tâm không nhớ là mình đang ở đâu, có người bố chết dần chết mòn, và những gì đã qua.
Con của Sim và Mừng tên Hợp hơn bốn tuổi. Nhà này không gần trung tâm thành phố, lại là vùng du lịch đang phát triển, nên khách thập phương đến, đi, dân bản xứ chỉ quan tâm đến bán hàng và thu tiền. Ngôi nhà của ông Nhân nổi tiếng trong vùng, không phải vì mấy người sống ở đấy, mà vì kiểu kiến trúc độc đáo, nhất là khi tòa tháp xây xong, cứ sáng chiều, hai hồi chuông ngân dài. Tiếng chuông vang, sâu, âm chuông lan xa mãi. Tiếng chuông đúng giờ, ngày mưa bão hay nắng hanh hao, tiếng chuông như lời chào, như lời nhắc giờ, như tín hiệu của sự sống. Chạy từ ngoài đường về, cu Hợp vừa hét vừa đập vào lưng Sim “Có khách có khách”. Nhà nuôi nhiều loại chim, yểng, sáo, vẹt, và nhiều con không biết thuộc chủng loại gì, Mừng đi rừng mang về do chúng bị thương. Con nào khỏe, anh thả cho bay. Con nào què, mang về chăm nuôi. Nhà như khu nuôi chim vườn thú. Hợp lớn lên, nói ngắn từng câu đúng giọng con yểng già “Có khách có khách”. Yểng già đáp lại lời Hợp, nhảy rối rít mừng trên cái cành khô. Rồi yểng già phi thẳng xuống, nhảy trước mặt Sim, mách.
Ngoài ngõ, bốn người đi vào. Ba đàn ông, một đàn bà. Họ mải nhìn nhà bằng con mắt thán phục, bất ngờ nên chân vấp. Tiếng xuýt xoa vì đau, lẫn trong tiếng ồ à. Khách có người làm công tác nghiên cứu địa chất, người bên quy hoạch. Phía bên kia núi, đứng ở nhà Sim nhìn thấy sắp tới được xây thành khu vui chơi giải trí, vị trí đắc địa, nằm trên cao, lại hướng ra biển. Hai nhà đầu tư người Canada góp vốn, hợp tác với một doanh nghiệp trong nước xây dựng, kinh doanh. Đoàn khảo sát làm việc lần cuối, trước khi bên xây dựng tiến hành phá núi, bạt rừng và thi công. Hai năm sau, nơi ấy sẽ là một quần thể vui chơi giải trí đẹp nhất vùng miền Trung. Chưa kể đến, nếu phát triển nữa, sẽ có một sòng bạc, và sau nữa, một sân bay.
Bốn người từ uống nước lá cây giải nhiệt Sim mời, chuyển sang ăn nai khô do Mừng hun góc bếp, uống đến rượu ngâm tổng hợp từ nhụy các các loài hoa. Họ không nhấc chân ra khỏi khu nhà giờ kéo dài vắt vẻo sườn núi. Những gì trong bản vẽ tay nguệch ngoạc của Tâm ngày ấy, giờ thành hiện thực. Bên nhà gỗ, cách một vườn hoa với những con chim không nhốt trong lồng mà chẳng bỏ đi, rồi sang bên nhà kính, sau đấy đến hồ sen, vườn cây thuốc. Bốn tổ ong góc vườn, mùi mật quyến luyến ngày mưa. Nhóm khách say, no bụng, nằm lăn các góc. Cô gái duy nhất trong đoàn má hồng, tóc đen nhức sổ dài, không nhìn thẳng vào mặt, chỉ nhìn lên trán người đối diện bằng cặp mắt to, con ngươi màu xám tro, lạnh và khô, đung đưa trên võng, ngắm nhìn thế núi, lẩm bẩm “Anh phải làm nhanh thống kê để em viết xong báo cáo về giống cây trước khi phá núi”. Một người nói lại “Sao lúc nào ở miệng em cũng có từ phải? Chưa bao giờ anh thấy em không ra lệnh cho người khác phải thế này phải thế nọ. Không biết thằng nào nó chịu được em”. Cô gái cười miệng rộng răng trắng ngà, nhưng hai mắt vẫn khô ráo, không cười “Em cứ ra lệnh thế mà khối người chịu được đấy”. “Khó chịu vừa thôi cô, hơn băm rồi, không định lấy chồng đẻ lấy đứa con à?”, “Điên mà lấy chồng đẻ con cho nó nặng thân. Em chỉ thích ở với chính cái thân em, không phải lo cho ai, nhẹ xác, muốn đi đâu làm gì thoải mái”. Cô gái mắt ráo nói xong, cười phá lên. Tiếng cười chạy lan vỡ dài trên những tán cây, chạy về phía cuối đường, chui sau vào những khe núi xa.

(Còn nữa)
_______________________________________________________

Thứ Năm, 29 tháng 7, 2010

Cần chấn hưng nền văn học

(ANTĐ) - Đến đầu tháng 8 Đại hội Nhà văn Việt Nam mới diễn ra nhưng ngay từ bây giờ dư luận đã “nóng” lên xung quanh chuyện nhân sự Đại hội cũng như việc làm thế nào để chấn hưng nền văn học Việt Nam. Điều đó cho thấy Hội Nhà văn vẫn luôn nhận được sự quan tâm của không chỉ các nhà văn mà còn cả của bạn đọc yêu thích văn chương. Báo ANTĐ xin nêu những kỳ vọng của các nhà văn, nhà thơ Việt Nam trước thềm Đại hội.

- Người cho rằng BCH Hội nhà văn đang “lão hóa”, người lại bảo cần những người có kinh nghiệm, ông nghĩ sao về quan điểm này?

- Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: Với tuổi trung bình của BCH hiện thời khoảng 56, tôi không nghĩ đã đến lúc chúng ta phải báo động về sự “lão hóa” nhưng cho thấy đó là một BCH già. Có lẽ bởi quan niệm trẻ của nhiều nhà văn khác quá nên họ đã bầu ra một BCH như vậy. Tôi năm nay đã 53 tuổi và vẫn được coi là một nhà văn trẻ. Điều mà các hội viên đang lo ngại khi dư luận cho là hình như có một sự không thống nhất và có người cho là giữa các nhà văn trẻ và các nhà văn lớn tuổi trong BCH chưa tìm được tiếng nói chung. Nếu đúng vậy thì đây mới là vấn đề chúng ta cần suy nghĩ.

- Vậy, theo ông sẽ cần có những gương mặt trẻ trong BCH Hội Nhà văn nhiệm kỳ tới?

- Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: Nếu hỏi vậy, tôi nghĩ ai cũng sẽ trả lời là có. Bởi đó là một quy luật tất yếu của sự phát triển hay có thể nói một cách khác đó là sự chuyển động của lối sống văn minh. Nhưng đã nhiều nhiệm kỳ mà đại hội vẫn không bầu ra được một BCH khả dĩ hội tụ các tài năng của các thế hệ.

- Nhà thơ cho rằng tiêu chuẩn thành viên BCH Hội nên như thế nào để hội tụ tài năng của các thế hệ ?

- Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: Tôi nghĩ các nhà văn cần thống nhất trên lý thuyết về tiêu chuẩn của các thành viên BCH. Đó là những người có uy tín văn học, có ảnh hưởng xã hội nhất định, có khả năng tập hợp, có năng lực tổ chức, có trách nhiệm, trung thực và dân chủ. Những người đó phải hiểu rằng: tham gia vào BCH là chọn lựa sự cống hiến cho phong trào sáng tạo và sự phát triển của Hội. Những ai tìm kiếm danh tiếng và lợi ích cho cá nhân mình thì không nên vào.

- Hội Nhà văn cần phải làm gì để “tẩy rửa” những thứ ngoài văn học?

- Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: Văn học chúng ta trong khoảng mười năm trở lại đây đang bị bạn đọc dồn vào chân tường với câu hỏi như vậy mà chưa tìm ra câu trả lời uy lực nhất là chính tác phẩm. Hội Nhà văn không thể “mách nước” cho các nhà văn phải viết như thế nào để có tác phẩm đáp ứng sự mong đợi của bạn đọc bởi sáng tạo nghệ thuật là sự lao động cô độc của nhà văn. Nhưng Hội Nhà văn có sứ mệnh tạo ra một môi trường trong sạch, công bằng và đầy trí tuệ trong việc xác lập những giá trị đích thực của văn học. Thông qua những hoạt động với nhiều hình thức của Hội Nhà văn, các nhà văn phải mang đến cho nhau cảm hứng lớn về đời sống và khát vọng lớn về sự sáng tạo chứ không phải những tiêu chuẩn hay chế độ nào đó mang tính vật chất.

- Theo ông, đã đến lúc cần phải chấn hưng nền văn học nước nhà hay chưa?

- Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: Sự chấn hưng nền văn học, tôi nghĩ, lúc nào cũng phải đặt ra và đặt ra ngày ngày với nhà văn. Sự chấn hưng này phụ thuộc vào cá nhân từng nhà văn mà Hội Nhà văn chỉ là một chất xúc tác đôi khi rất mơ hồ. Sự thật là vậy.

- Với tư cách là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, ông có kỳ vọng gì vào kỳ Đại hội lần này?

- Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: Điều tôi kỳ vọng ở Đại hội lần này là các nhà văn hãy cùng nhau cất tiếng nói về những vẻ đẹp đang ngày một mất đi trong đời sống văn học. Và tiếng nói của nhà văn về điều đó phải được vang lên ngày ngày trong suy tưởng của nhà văn và trên những trang giấy trắng. Bởi nếu nhà văn không luôn luôn hướng đến điều đó thì chúng ta chẳng còn nơi nào để hướng đến nữa? Chẳng lẽ nhà văn đến Đại hội chỉ là để trách móc thậm chí lên án nhau vì những lý do phi văn học và khổ sở với việc bầu bán thôi ư. Nếu chỉ như vậy thì chúng ta (trong đó có tôi) sẽ trở nên thật tội nghiệp.

Đinh Kiều Nguyên
(Thực hiện)
_____________________________________________________

Cú mèo và rượu hoa (tiếp theo)

Truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ

Ánh sáng bừng lên trong phòng ngủ, phải mất một lúc mới thấy, có một thằng đàn ông, đùi tròn to như cái cột gỗ nhà sàn, trắng nõn, đang gác qua bụng Túy. Hai người da trắng ngà ngọc bên cạnh hai chai Wishkey nằm ngang trên đất. Say mềm, quắp chặt say nồng, nên có chuông cửa chuông điện thoại điếc hẳn không nghe. Ông cũng chẳng hiểu mình, lúc ấy lại bỏ xôi gà trái cây bọc đủ bộ như túi đồ lễ ngày rằm mùng một xuống, sang phòng bếp, chọn con dao phay mũi nhọn mang từ Nga về, ánh thiếc xanh lét. Con dao nặng sắc, Túy thích nó nhất vì mỗi lần chặt gà, vịt, miếng thịt thẳng tưng, không tòe loe nát như chặt bằng dao khác. Tay cầm dao, ông đến gần, ngắm nghía hai cơ thể đẹp như hai bức tượng dưới ánh đèn vàng, loay hoay không biết nên sờ vào đâu để gọi họ dậy. Rồi ông nắm cổ chân Túy, vì nó thân quen, đang ở bên dưới bắp chân tròn của người đàn ông tóc dày đen nhánh, râu rậm, bụng phập phồng áp lên bụng Túy thở đều. Giật khoảng bốn cái thì Túy tỉnh. Cô không mở mắt, mà lại rúc thêm vào ngực ông bồ, hít hít mãn nguyện. Nhìn cú rúc mặt của Túy, ông Nhân bừng tỉnh. Bàn tay ông khỏe, quyết liệt giật liên tục, đến nỗi, cái chân to nặng của người đàn ông rung rinh và tuột xuống, hai người rời nhau ra, trần truồng ngủ say như hai xác chết.
Chuyện cũng kết thúc, khi đôi gian phu dâm phụ hiểu là ông Nhân đang cầm con dao đứng trước mặt. Càng tỉnh hơn khi thấy ông rất nhiệt tình đưa con dao nhọn sắc vào tay Túy, chân thành, cầu khẩn “Em giết anh đi. Anh chết rồi, em muốn làm gì cũng được. Chứ anh đang sống lù lù thế này, em làm thế này, anh đau quá”. Sau mấy phút thất thần hoảng loạn, mỗi đứa vớ cái chăn che thân, định chạy, nhưng ông Nhân lại xông đến, dứ con dao sát mặt hai người hơn. Lúc này, người giật con dao trên tay ông là Túy. Túy gào to, lải nhải chửi ông lừa tôi, ông yêu thương gì tôi đâu, lấy tôi về cốt làm con ở nuôi con trông nhà cho ông. Đàn ông gì mà đến sinh hoạt với vợ cũng phải theo lịch, đúng giờ. Đã vậy, lại còn đúng số phút, dài hay ngắn hơn sách dạy đều phản khoa học, thế thì chó nó chịu được chứ người không ai chịu được hết. Túy khóc, gào như hóa điên. Ông Nhân cũng khóc, chẳng ra hối lỗi với vợ hay không biết phải làm gì, hai tay đấm ngực bình bịch. Đại gia nhiều tóc, rậm râu quấn chăn, ôm quần áo chạy biến, không giày không tất, không cặp tài liệu. Được vài bậc cầu thang thì nghe tiếng rú, giọng của Túy và ông Nhân thất thanh. Đại gia xốc quần không thắt lưng quay lại, thấy ông Nhân quằn quại ôm cái cẳng chân đầy máu. Con dao rơi cái cheng ở góc nhà. Túy tuột mất cái chăn, khỏa thân, tóc xổ dài che kín hai bầu ngực cao rắn chắc của gái chưa con lao về phía đại gia, giọng vút cao “Đi khỏi nhà quỷ ngay. Lão già điên cứ bắt phải giết lão nếu không lão giết anh. Ở đâu ra cái thằng già rồ thế. Em chém cho một nhát, đứt cái gân chân, khỏi đi. Lão sẽ ở nhà mà trông thằng con, không phải lừa ai về hầu bố con lão”. Khi đôi trai tài gái sắc cuốn quần áo, ít đồ dùng quen ra khỏi nhà giữa đêm khuya, là lúc Tâm sơ cứu vết thương cho bố. Nó im lặng, lau máu trên sàn nhà bằng cái khăn, vắt kiệt máu. Lại lau. Vắt kiệt. Cho đến khi vặn ngược cái khăn bông màu trắng ngà, không còn màu nước đỏ, nó bình thản phơi lên dây. Ông Nhân mắt mở to, nhìn sâu vào bóng đêm. Bất chợt. Sau lưng, giai điệu dân ca Nga vang lên da diết. Màn đêm mở rộng dần, bừng sáng một màu vàng của cánh đồng lúa mì. Những cô gái Nga má lấm tấm tàn hương, ngực to, mông chắc đang di chuyển trên cánh đồng, cười môi đỏ khoe răng trắng đều.
Ông ngồi như vậy, từ tối ấy, đến hôm nay, dính chặt mình vào chiếc xe lăn chất thép xanh xám, nhìn thì mảnh mai nhưng nặng, ba người mới nhấc nổi. Thép là thứ hấp dẫn, từ con dao chặt đứt chân, cho đến cái xe đỡ ông một đời, đều là thép. Trên mặt xe, chỗ ngồi là miếng gỗ khoét một lỗ tròn nhỏ để ông vệ sinh. Thuận tiện, ngay ngắn, sạch sẽ, kín đáo rất lịch sự. Ông thành một người cha tốt. Một người đàn ông dừng lại.
***
Tâm đêm nay vật vã. Ông Nhân cũng vật vã.
Những cơn vật vã kiểu này, Mừng giải thích là giời vật. Giời cũng có lúc mệt chứ. Thế nên, bình rượu thuốc ngâm Sim cho Mừng luôn tác dụng. Chẳng biết trong ấy có những cây hoa lá gì, xương cốt con vật nào mà giọt rượu xanh như màu rêu lâu năm. Hương từ bình tỏa ra mỗi khi rót thứ nước sóng sánh lục thẫm, ngát mùi hoa. Không thể biết đó có phải là hương Ngọc Lan, đôi khi phảng phất hương hồng phai, pha chút hắc của nguyệt quế. Mỗi lần rót rượu, sự quyến luyến của hương làm thành nghi lễ, người rót cũng như người uống không ai nói ra, đều mang tâm trạng kính cẩn, nâng niu.
Ông Nhân nhấp ngụm rượu từ cái chén hạt mít gốm Mừng đưa, chưa kịp nuốt thì dừng lại, bởi một giọng quen, nên người nói vào đến giữa nhà, chó không sủa
“Giờ này mà ông vẫn rượu”. Không bao giờ Sim chào ông Nhân bằng câu thông thường, nhạt nhẽo, chào bằng câu hỏi. Ông Nhân ngoảnh sang, nhìn sâu vào bóng đêm, hơi cười “Thế giờ là mấy giờ mà cô còn sang đây?” Sim sà vào gần ông Nhân, thân thuộc “Cháu sang biếu ông miếng cao vừa mua. Cao thật ông ạ. Mấy lại, tiện sang chào ông, cháu ra Tuyên Quang vài tháng chạy hàng cho người nhà. Ở đây mùa này vắng khách, vất lắm”, “Sao phải ra mãi đấy. Cô ăn là mấy, tiêu là mấy mà suốt ngày cứ quần quật với tiền thế”, “Thì có mỗi cái quần quật vì tiền mới hết thời gian, chứ không thì ông bảo cháu làm cái gì?”
Mừng đến sau Sim, chìa tay, ồm ồm “Cao đâu. Con gì? Đứa nào có cao mà bán?” Cầm gói vuông nhỏ, có cục cao nâu nhạt, Mừng ghé răng cắn nhẹ một mảnh, chíp chíp cái lưỡi, mặt ngây ngây nghe, rồi cho vào túi áo, gật nhẹ. Sim quay người. Mừng nắm khủy tay Sim, giật lại “Tự nhiên dở chứng đi Tuyên. Có thằng nào trên đấy gọi à”. Sim lườm, giật tay lại, đi nhanh vào bóng đêm.
Khoảng ba giờ. Hai người lặng lẽ về, con chó nằm đợi Mừng, ngủ hai tai chảy thõng. Ông Nhân ngồi ngủ gật, lưng khòng khòng khẽ thẳng. Mắt nhắm trong bóng đêm, tai ông nghe Tâm lảm nhảm nói chuyện với người trong mộng, tiếng bốn bàn chân nhón trên những viên sỏi. Ông cười, gục thấp đầu. Ngủ.
***
Sim về sống với Mừng tại nhà ông Nhân, làm công việc nội trợ, giặt giũ dọn dẹp cho cả nhà được bốn tháng, thì nhận tin, sắp có khách phương xa đến. Hai vợ chồng người em sát ông Nhân từ một nước phương Tây báo trước một tháng, chính xác từ giờ đến, ngày đến, mục đích của chuyến trở về. Tất cả ghi cụ thể trong bức thư nhiều số, nhiều chữ. Thư riêng dài năm mặt giấy, cuối cùng có rất nhiều chữ ký, giống biên bản bán nhà hay vay nợ ngân hàng. Ông Nhân nhận thư, đọc thong thả mấy buổi sáng mới đến trang cuối, ngồi lặng nhiều chiều nhìn sâu vào những đỉnh núi, cao xa, trập trùng xanh thâm hiểm huyền bí. Lại nhiều chiều Mừng đưa ông ra trước biển. Nhìn hút sâu như lần đầu thấy sóng xô bờ. Nhìn như muốn tìm sau những con sóng một điều gì ông đợi mong. Qua những chiều tối hay sớm mai nhìn sâu vào núi, xoáy sâu vào những con sóng, cũng đến ngày những người hẹn đã đến, dù ti vi hàng ngày đưa tin, núi lửa ở một nước nào đấy bỗng dưng bùng cháy, tro than bay đầy trời, làm máy bay ngừng cất cánh. Nhiều nước đóng cửa sân bay, người nằm ngồi la liệt như đang ở bãi biển. Ông Nhân thở dài, nói chẳng cứ thế giới xa xôi núi lửa phun trào, mà mình đây, núi một bên, biển một bên mà cũng sắp nổ tung vì nóng rồi. Vậy mà hai người em của ông cũng vượt qua tro bụi, xuất hiện trước khuôn cửa gỗ nâu mái chùa, chậm bốn mươi lăm phút, không phải do vợ chồng em, mà là do cậu lái tắc xi đi đổi tiền đô ở ngân hàng giúp em, sau đấy em trả nó tiền taxi theo số đồng hồ báo, hết bảy trăm tám mươi hai nghìn, nó không có tiền lẻ trả lại, phải chạy mấy nơi mới có mười tám nghìn đồng thối lại không thì em đã đúng giờ hẹn. Gớm. Xa xôi tận đâu về không muộn một phút, thế mà cách nhà anh có một đoạn, gặp bao trục trặc. Em dâu ông một mắt thong manh, trắng đục như mắt cá chết. Mắt còn lại to tròn, hai mí rõ và hàng mi cong vút, dày rậm như mắt con gái, con ngươi màu tro, giống như mắt con cú mèo trong đêm, trừng trạo gằm ghè, khó chịu lườm Sim, then thét giọng kim rít rít khô như tiếng máy khoan bê tông. “Sao anh lại về cái nơi quê mùa, bẩn thỉu này sống? Sao anh lại xây cái nhà như cái chùa, trong khi cả nhà mình theo đạo Thiên chúa? Sao anh không đưa thằng Tâm vào viện tâm thần, đóng khoản tiền thuê từ A đến Z, người ta hầu nó tận răng, nó lại có thế giới toàn bọn tâm thần của nó, nói cười hiểu nhau? Sao anh lại thuê lắm người làm thế. Cái con ở vừa đen, vú nó to như hai cái ấm tích ấy, hai cái mắt nó nhìn em trợn ngược lên, làm như một mình nó có hai con mắt ấy. Trông ngứa cả mắt. Có ngày nó cướp nhà anh mà xem? Sao anh bán nhà ở Sài Gòn, không gọi em về. Em mua lại. Trừ phần chia tài sản của em, thiếu bao nhiêu, em trả anh cho sòng phẳng? Anh em ruột thịt lại càng cần sòng phẳng, có thế, con cháu sau này nó mới tôn kính mình? Sao anh không đi tìm con Túy xem nó với thằng bồ ở đâu, đưa chúng nó ra tòa rồi giam nó lại cho sạch xã hội? Sao anh không thuê bác sĩ hầu anh có phải chuyên nghiệp không? Hai cái đứa nhà quê này, nó chết đói chết khát ở đâu, vớ được hai bố con vừa điên vừa liệt như bố con anh, có bao nhiêu của, chúng nó chẳng ăn hết à?”
Chỉ có hỏi. Hỏi. Hỏi. Những câu hỏi đề tài luôn mới ném đi, không có câu trả lời ném lại. Ông Nhân thực ra đã bị teo hai chân từ ba năm nay, nửa người bên phải mỏng hơn nửa bên trái. Không đo được trong não phần nào teo phần nào còn nguyên, chỉ biết, với ông, mớ câu hỏi bất tận văng ra từ miệng em trai và em dâu từ ngày họ đến, tới ngày họ đi, ông không thể trả lời. Vợ chồng ông em cũng hỏi như một phản xạ, thấy gì nói nấy, cũng chẳng kịp đợi nghe người kia trả lời, đã chuyển sang câu khác. “Con kia, mày để cái gác bếp thế này mà cũng coi được sao? Quần áo của anh tao rặt mùi người chết thối, mày phải phơi ra nắng giữa trưa, trước khi phơi, phải ngâm vào nước thơm. Khốn nạn cái xứ này. Bên tao, máy nó chạy theo công đoạn, tao cho đồ vào, bấm cái nút, đi đâu một hồi quay lại, mang quần áo khô phưng phức ra, chuyển sang phòng là hơi. Cứ gọi là thơm vào tận ruột tận gan chứ không vừa chua vừa tanh thế này. Sao cái thằng Mừng kia mày không làm thêm một đường ống dẫn nước từ cái ống máng kia ra lấy nước mưa mà uống, nước ấy chúng mày uống thẳng, chả mát lịm ấy chứ. Mày có biết, ở bển, chúng tao tiêu tiền gấp trăm lần ở bên này, thế nhưng nước dùng là tiết kiệm như máu ấy. Vì nước nào cũng uống được. Mày có hiểu là mở vòi nước ra, là nước tinh khiết (làm động tác mở vòi nước ở góc sân, Tâm làm để tưới giàn phong lan). Chính vì nó quý, nên chúng tao đái ỉa có giờ, xếp hàng đi trước đi sau, phải năm sáu lần nặng nhẹ mới giật nước một lần cho khỏi tốn. Không đâu phung phí vô lối như cái xứ này. Đái có mấy giọt cũng giật cái ầm, hết cả chục lít nước. Đã nghèo, còn hoang, chả trách không khá lên được. Mà tao nói cái con kia, mày đi chợ cho nhà anh tao, phải ghi lại hết. Hôm qua, tao nhẩm ra, mày còn cầm tiền của tao đưa mày mua cua thịt dễ đến hai mươi nghìn ấy, vì cua gạch đắt hơn cua thịt, mày mua được ba con gạch, còn bốn con thịt, giá chênh nhau gớm đấy”. Sim im lặng, cổ nổi gân chằng chịt nhìn vào bên con mắt cú mèo to tròn, khác hẳn bật hẳn ra khỏi khuôn mặt tròn mỏng, mũi khoằm, miệng rộng, môi mỏng, hàm răng đều tăm tắp như hai hàng ngô, thắc mắc là sao mọi thứ trên mặt bà em dâu này nó cứ lung tung thế nào. Chẳng cái gì khớp vào cái gì. Mũi một nơi, mắt một nẻo, hai cái môi mỏng chẳng ăn vào hàm răng. Sim bị ám ảnh, thắc mắc nhất về cái mắt còn lại nằm tách biệt, đẹp đẽ trên khuôn mặt già nua biến dạng của bà em dâu, nên cô quên tức giận vì từ ngày hai người đến, việc duy nhất của họ là sai bảo, chửi bới, khinh bỉ, ghê tởm nơi chốn này, những con người ở đây. Sim và Mừng một đêm trắng vì uất, trả thù bằng cách đặt tên cho hai em ông Nhân là vợ chồng cú mèo.
Vợ chồng cú mèo nói từ lúc tỉnh dậy mỗi sáng, vẫn ngồi trên giường chưa hạ chân xuống đất, cho tới đêm, khi tiếng ngáy của cú mèo mái vang rền góc nhà, tiếng nói mê lảm nhảm dính thành chùm không nghe ra câu nào vào câu nào của cú mèo trống, thì những người đang thức chong chong mới hết phải nghe những câu hỏi. Đêm thứ ba, khi Mừng và Sim ngồi bóp hai cái chân bé như cổ tay thằng lên mười cho ông Nhân đang run bần bật chùi nước mắt, anh Tâm co quắp trên giường, mắt thao láo nhìn vào tấm hoành phi nạm vàng, lảm nhảm “Tôi không ở chợ. Cho tôi về nhà. Tôi muốn về nhà”. Mừng dè dặt cúi gằm mặt vào bàn chân teo nhỏ, trắng xanh, những ngón chân chỉ còn lớp da bọc cái xương “Ông tha lỗi, hai đứa con không thể chịu thêm được ngày nào nữa. Sim đang có thai, ba đêm nay hai mẹ con Sim mất ngủ vì uất. Ông chịu khó vài ngày, bao giờ họ đi, hai đứa con lại về hầu ông”. Sim tiếp luôn “Hai đứa con nguyện hầu ông và anh Tâm hết đời. Nhưng nghe thêm một câu, nhìn mặt thêm một lần hai người em của ông thì chúng con chịu. Nhất là cái mắt người em dâu ông, con sợ cái mắt ấy lắm, mỗi lần nhìn con, con mắt ấy như phát ra tia điện ông ạ. Cổ con nó thít lại đến đây rồi, con sắp tắc thở vì uất rồi ông ạ”. Sim bặm môi, người giật giật. Ông Nhân biết, Sim đang kìm nén để không chửi bậy. Cô gầy rộc vì nghén, nhưng hai bầu vú lại sưng như món xôi phồng mới thịnh hành ở mấy quán ăn cao cấp, thật gợi cảm sau làn vải phin màu cánh chả. Ông chắp hai tay, mắt tràn nước như mất cái van khóa, nước từ máy bơm cứ thế phun ra “Tôi chắp tay, tôi lạy cô chú. Cô chú mà bỏ tôi, bỏ thằng Tâm, hai bố con tôi chết tươi. Cô chú là cái chân của tôi, là cái não của thằng Tâm. Tôi là anh nó, nó chửi không tiếc câu nào. Nhà có hai anh em, nó đi nước ngoài rồi ở luôn bên đó. Ở đây, ông nội bà nội ốm đau, tay bố tôi chăm. Bố tôi chết, tôi ở cái nhà ông nội để lại cho bố tôi. Hoạn nạn làm tôi thành ra thế này, đời tôi không sướng bằng con chó nhà lão Bảng trước mặt, vì con chó có bốn chân khỏe, muốn chạy đâu thì chạy, đi đâu thì đi. Thấy tôi và thằng Tâm tàn phế thế này, vợ chồng không mảy may thương xót, nhè tôi ra mà chửi, mà hỏi. Đừng bỏ bố con tôi. Sau này tôi và thằng Tâm chết đi, nguyện vọng của tôi là cô chú thay tôi toàn quyền ở ngôi nhà này. Nếu khu này có nhiều khách du lịch, hai người xem có mở cửa cho khách vào tham quan công trình thằng Tâm nó làm. Cả đời nó tâm huyết xây cái nhà này, nửa chừng đứt đoạn ngã ra mà thành điên. Nếu cô chú làm nốt phần việc của nó, có chết đi, hai bố con tôi cũng thề đi theo phù hộ cô chú”.

(còn nữa)
______________________________________________

Thứ Ba, 27 tháng 7, 2010

Cú mèo và rượu hoa (Phần 1)

Truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ

Mừng bán cái đùi nai thứ tư cho vợ chồng khách Hà Nội về nghỉ mát ngày nào cũng tự đi chợ mua đồ về thuê nấu, cũng là lúc cô gái tên Sim, có hai bầu ngực bự nổi tiếng, quẩy gánh rau rừng đến nơi. Sim thở dốc, bầu vú to như vú gái đẻ căng sữa sau vạt áo mỏng, ướt mồ hôi, lo lắng nhìn quanh. Mừng cắm cúi nhặt những miếng thịt xương vụn, đỏ máu, còn thừa xếp vào miếng ni lông dày, hỏi Sim “Lấy xương nai về ninh không, hôm nay đếch thiết bán?”, “Thì mang về mà luộc uống rượu”. Nói thế, nhưng Sim lại đưa tay ra, cầm nguyên bọc ni lông đủ các thứ vụn vặt sót lại của con nai. Mừng quay người bỏ đi, tay cầm cái túi vải to, đầy phồng, có vẻ nặng. “Nhà có rau chưa, lấy một nắm mà nấu tép riu?”, “Có rồi, hôm nay ông già thèm đậu luộc chấm mắm cáy”. Sim dúi bọc thịt xương nai vụn vào góc gánh rau, đi nhanh ngược hướng của Mừng, trong màn chiều xuống chậm. Ngoài biển, sóng như tiếng mấy người đàn bà ngồi giặt quần áo mạnh tay. Oàm oạp. Oàm oạp. Đều đặn vang dọc con đường ven biển dài.
Mừng lấy chân đạp cánh cổng gỗ tiện và đánh bóng phẳng lừ, lách cái thân chắc lẳn, cao gần mét tám mươi qua, chợt đá phải bánh sắt chiếc xe lăn của ông Nhân. Trong bóng chiều tím đỏ, thâm thẫm tối, mắt ông Nhân ngời ngợi. “Ông đợi con ở đây à? Con bán hết thịt nai rồi, mua cho ông chục đậu tươi, với mấy con rạm. Hai cái quần của anh Tâm con thuê người ta cắt ngắn ống, anh ấy đi chắc không vấp nữa”. Ông Nhân cười, mắt lấp lánh, hàm răng trắng càng trắng trong bóng đen đang phủ trùm nhanh. Ông chìa bàn tay ra, đón hai cái quần Mừng lôi trong túi ra, vuốt ve, nói một mình “Hai chân nó sẽ không ngoắc vào nhau khi đi. Cắt thế này là vừa”.
Ba người đàn ông ngồi quanh cái bàn ăn, gỗ bóng, đóng kiểu đời Minh. Giản dị, nhưng sang. Mâm cơm bằng gỗ, những cái bát phíp đỏ trong đen ngoài, bóng lộn. Toàn bộ đồ dùng như bát, đĩa, thìa đũa đều của Nhật, màu nâu đỏ, mỏng và nhẹ, người già cầm nhẹ tay, có rơi cũng không vỡ. Tâm, con trai ông Nhân, trên bốn mươi tuổi, ngúc ngoắc cái đầu như đang chọn món ăn. Cười cười chọc đũa vào bát canh rau đay, rồi lại chíu vào miếng đậu phụ, chọc rồi bỏ không gắp đậu, lấy một cái đũa, chấm cái đầu đũa vào bát mắm tép, cho lên miệng mút mút như trẻ con mút kẹo que, cười hềnh hệch. Mừng lặng lẽ làm thành thạo những việc như thể từ lúc sinh ra tới giờ anh chỉ làm như vậy. Xúc vào bát ông Nhân thìa thịt xay xào sả ớt, Mừng cười.
“Ông ăn xem con xào thịt hươu với sả thế nào. Băm đều tay hơn hôm trước, anh Tâm ăn chắc không sặc đâu ông ạ”. Tâm vẫn ngúc ngoắc cái đầu của người bị tâm thần. Mừng cúi xuống gầm bàn, lôi ra bình rượu, nhẹ nhàng rót ra một chén, đặt trước mặt ông Nhân.
Ba bề bốn hướng ngôi nhà, nhuốm màu đen kịt. Tiếng côn trùng, tiếng dế rúc thật dài. Lâu lâu, ngoài rừng có tiếng hú nhỏ. Ông Nhân với tay, ấn cái nút trên máy catset để góc bàn. Thứ nhạc duy nhất ông nghe là những bản tình ca Nga tình cảm, dạt dào, mềm mại vang ra. Bóng tối như bị xé rộng, đẩy lùi sâu vào phía những tán cây ngoài cánh rừng. Tiếng nhạc êm đềm lan đến đâu, không gian rộng ra đến đấy. Cái đặc quánh của một bầu không khí cô tịch tan loãng, thoắt trở nên sôi động, tíu tít vui. Ông Nhân nói với Mừng, khi ngày đầu anh đến làm quản gia ở nhà này, đúng lúc cái catset nhỏ dùng băng hết pin, ông phải lôi mấy cục pin ẩm ra lau, rồi cho vào lại, để nghe tiếp bản tình ca “Những bài hát Nga luôn làm ông thấy như đứng trước một cánh đồng lúa rộng đến chân trời. Có các cô gái, mặc váy bó chẽn hông, ngực to, mông nở, những tà váy dài trùm xuống. Các cô đang cúi xuống cánh đồng vàng, chổng lên trời những cái mông thật to, rồi lại ngẩng lên, má đỏ như hai quả táo. Táo bên Nga không to như táo Trung Quốc bây giờ. Quả táo nhỏ, đỏ thẫm, thơm rất sâu”. Ông Nhân có thể nói về nước Nga nơi ông sống gần mười năm từ khi ngủ dậy, cho tới khi mắt nhắm lại đi ngủ, nhưng miệng vẫn kể.

Bữa cơm hôm nay, Tâm đánh rơi bát hai lần, thìa một lần. Có tiến bộ hơn bữa tối hôm qua. Mừng chia thuốc làm hai vốc nhỏ, cầm cốc nhựa đựng nước cho Tâm uống dần. Tâm ngúc ngoắc cái đầu, mắt trợn trợn, ngậm ngậm nước, rõ ràng rất muốn nuốt, nhưng thật khó khăn. Mừng ngồi sát bên, lấy bàn tay to bè, đập nhẹ nhẹ vào gáy Tâm. Khoảng ba mươi phút, Tâm uống xong hai vốc thuốc. Ông Nhân nói, lẫn trong tiếng nhạc réo rắt “Hai ngày nữa, anh đi lấy thêm cho thằng Tâm thuốc chống bại liệt. Mấy hôm nay, tôi thấy chân trái nó cứ thõng xuống. Gõ cái gậy vào, giật nhẹ lắm”, “Vâng, ông cứ ghi hết yêu cầu ra giấy, con đi mua”. Nhạc tắt. Bóng tối đặc. Căn nhà ăn bằng gỗ chìm trong bóng đêm. Lúc này, đèn hai nhà hai bên bật sáng. Căn nhà gỗ to kiểu nhà chùa vừa làm nhà ăn, vừa để ông Nhân ở. Bên nhà kính với những tấm kính cao ghép vào nhau phong cách hiện đại, là nơi Tâm ở. Cấu trúc khu nhà đặc biệt, cổ kính kèm hiện đại, vùng miền Trung này, nó là cái duy nhất. Không phải kiến trúc sư, cũng không bao giờ Tâm nghĩ mình sẽ là người tự tay làm ra một cái nhà tréo ngoe vắt ngang sườn núi thế này. Từ nhỏ đến lớn, Tâm mê hai thứ, đấy là tiếng Anh và máy tính. Không một dòng chữ tiếng Anh nào, từ tờ báo rách, hay cuốn tạp chí giắt ngang góc quán cà phê ông Tây nào đó đọc xong bỏ lại, Tâm không cuống lên giật lấy. Sau này, khi có thêm môn tin học, máy tính là hơi thở thứ hai của Tâm. Nhà của gia đình Tâm ở quận Nhất, giữa đất Sài Gòn rực rỡ quanh năm nắng. Hai vợ chồng ông Nhân người Bắc, chuyển vào sống do yêu cầu của bố ông Nhân. Vợ chồng ông đẻ được độc Tâm, thì ông Nhân được cử đi Nga nghiên cứu sinh. Chín năm, thông tin liên lạc đứt đoạn, phần vì hoàn cảnh, phần vì ông là người ham học, ham khám phá. Ngoài những lúc ở thư viện, thú vui duy nhất của ông là đứng trước những cánh đồng vàng, nó như là ma túy, đủ để ông quên mình có một người vợ ở nhà nuôi cu Tâm, vào đúng thời tâm sinh lý đàn bà thay đổi. Trẻ chưa qua, già chưa tới, căn nhà hai trăm mét bốn bề gió thổi, không hơi đàn ông, làm nàng hóa dại. Thà nàng lén tìm cho mình một người ra vào cho có hơi thì chuyện không tồi tệ. Đằng này, thủ tiết thờ chồng giữa đất ăn đất chơi, lại mặn mà nhan sắc, nàng điên loạn lúc nào không biết. Đến một ngày, cu Tâm đi học về, thấy cổng nhà mình túm tụm người, nó cười chạy đến thì bị mấy người đàn ông xốc lên vai vác đi. Một người nói, không cho nó nhìn thấy mắt mẹ nó còn mở, về bắt theo đó. Đến tối, khi nó gào thét đòi về với mẹ, người ta mới nói là mẹ con chết rồi. Con không còn mẹ nữa. Sài Gòn mùa khô, nhà còn mình Tâm lên mười, hôm trước hôm sau, tổ dân phố làm đám rồi chôn luôn. Trong đám tang gọn nhẹ do tổ dân phố đứng ra tổ chức, có duy nhất một chiếc khăn trắng Tâm đội trên đầu. Một vòng hoa nhựa. Vài thẻ hương. Chiếc quan tài nhẹ. Mọi người bảo mẹ Tâm lao từ trên lan can lầu hai xuống sân, chết ngay, hai mắt mở trừng trừng không làm sao mà kéo cho nhắm lại. Một tuần sau, ông Nhân về. Ôm con ngồi ngoài nấm mộ đắp quấy quá, ông lầm bầm, con phải có mẹ, bé thế này, không có mẹ không được. Mấy người đại diện tổ dân phố từ ngày mẹ Tâm mất, chăm sóc cu Tâm hết lòng, ngong ngóng ông bố về cho đỡ tủi thằng bé mồ côi mẹ, nghe thấy ông Nhân nói đi nói lại chuyện Tâm phải có mẹ, ai cũng sững sờ. Hàng xóm khu phố nghèo quanh nhà ông Nhân hiền, khi tức giận mặt ai cũng tái ngắt, ánh mắt lóe sáng tia khinh bỉ, coi thường loại đàn ông đã bỏ vợ con ở nhà, đi tận đẩu tận đâu. Vợ nhớ chồng, điên loạn nhảy lầu mà chết, chưa qua cái lễ tuần, đã tính đường kiếm mẹ mới cho con. Họ lẳng lặng bỏ về. Từ hôm đó, quá lắm không có đường khác đi qua thì cắm mặt đi thẳng, đi nhanh giống như nhà ông Nhân là bãi rác, rất nhiều phân tro, chuột chết hôi thối. Ông Nhân cũng không hiểu tại sao mọi người xung quanh không nhìn mặt mình nhưng quan tâm đến thằng Tâm. Nếu ông đi cùng con, có gặp ai đầu hẻm, cười chào, họ nhìn ông như không quen, nhưng lại cười rồi bẹo má cu Tâm. Sau ngày vợ chết, ông phải bỏ ngang công trình nghiên cứu bên Nga, về làm cán bộ một viện. Đời công chức, sáng đi tối về. Tâm sống vất vưởng, gầy còm, buồn hiu hiu. May mà có hàng xóm, cứ ngang qua nhà, thấy chưa có cái xe máy ông Nhân dựng ở sân, lại gọi Tâm đang đục đẽo mấy thanh gỗ trong nhà, dúi cho cặp bánh ướt, cái bánh mì nóng thơm ngậy chống đói.
Hai năm sau. Tâm có mẹ mới. Người đàn bà quê Đồng Tháp, tên Túy, hàng ngày bán bún cá trước cổng cơ quan ông Tâm. Hai năm ăn sáng món bún cá, để rồi quyết đưa cô Túy về làm mẹ thằng Tâm, cũng là nghị lực lớn của ông Nhân trước dư luận cơ quan và bà con tổ dân phố. Khó chấp nhận chuyện chưa mãn tang vợ cũ đã rước vợ mới của ông. Hàng xóm chia phe tranh luận, nói vì ông ở Tây lâu nên nhiễm thói Tây. Thế là đánh nhau. Phe khác nói thằng ấy mất nết, chứ Tây nào như nó. Có ông Tây vợ chết, tự ngâm tẩm, ướp rồi ôm xác vợ trong nhà biệt thự mười lăm năm, không ai biết. Sao cứ cái gì hay thì mình nhận của mình, cái gì dở thì đổ cho Tây. Có một bí mật chỉ riêng ông biết, là từ nhỏ đến lớn, ông chưa phải làm cho ai điều gì. Ông tồn tại hay biến mất, chẳng liên quan đến ai. Thế nên, việc hai năm dặt dẹo nuôi thằng Tâm mười tuổi là sự vĩ đại chưa từng có trong đời ông.
Túy cao gần mét bảy mươi, da trắng, mắt dài đuôi, tóc dày phải cuộn làm hai mới gọn hở gáy cao. Nhanh nhẹn, răng nhỏ cười duyên, Túy cũng một đời chồng, chẳng may về cõi bên kia đánh tạch, sáng ra còn hỏi, tối nay có con vịt què nhà hàng xóm cho, có tiết canh không, để còn mua ít me om chỗ xương, thì trưa đã nghe tin dữ, chị ơi, chồng chị leo lên tầng bốn cái nhà đang hoàn thiện, chúi đầu ra ngoài xem hai con chó nó ỉn nhau ngoài nắng, thế quái nào bay thẳng xuống cái đống gạch mới nhập về, chẳng kịp dặn câu nào, đi luôn.
Trong những sáng ăn bún cá, Túy và ông Nhân đã kịp xuýt xoa, sao số chúng mình giống nhau, vợ anh với chồng em đều chết kiểu lao đầu từ trên cao xuống, mắt trợn ngược, vuốt thế nào cũng không nhắm lại được. Có bao nhiêu cách chết không chết, cứ nhè đất mà phi xuống như thế. Những người lớn tuổi lại nói, kiểu chết như vợ ông Nhân hay chồng cô Túy là biểu hiện của những người tốt, chẳng bắt ai hầu hạ ngày nào, tự mọc ra trên đất, thoắt một cái, biến đi như gió. Túy khật khừ rượu say, chỉ mặt ông Nhân, nói như thầy tướng “Có cả triệu ông góa vợ, nửa triệu bà góa chồng, thế quái nào mình vớ phải nhau, kiểu góa của mình giống nhau, nên mình cũng sẽ chết như nhau. Sống sẽ dai nhanh nhách, bệnh tật kiểu gì cũng không chết được, báo hại con cháu hầu khốn khổ”. Hớ hớ hớ, nói xong Túy cười.
Thực ra, mọi người ba bề tứ hướng hiểu sai về ông Nhân. Ông không phải là người háo sắc, hay phải cần có người đàn bà bên cạnh ấp hơi như bóng với hình. Ông lấy vội vợ vì một lý do duy nhất là con ông cần có mẹ, ông cần có thời gian vào thư viện làm việc của mình. Ai muốn hiểu sai, kệ. Đúng sai, chẳng liên quan gì đến việc cá nhân ông thích làm điều ông muốn. Túy không biết mục đích của ông, cần cô phải làm mẹ một thằng ranh mắt lúc nào cũng mở to, buồn như mắt con bò con, miệng cười nhưng mắt không cười. Từ ngay Túy về, trước nó đã hiếm khi cười, giờ tắt luôn cả những cái nhếch mép. Ông Nhân không quan tâm con trai cười hay khóc, thấy mãn nguyện khi có bóng người đàn bà trong nhà mỗi sáng mỗi tối. Ông ở lỳ thư viện, làm nốt việc hơn hai năm trước dở dang. Túy quẳng gánh bún cá, loay hoay trong bốn bức tường. Nhìn ở ngoài vào, thấy như mẹ thằng Tâm hiện về. Được vài tháng, ngộ ra thân phận mình, thấy tại sao lại bỏ ngày tháng của mình cho ông chồng nói hay, làm dở và thằng nhóc mặt hằm hằm mẹ mẹ con con, có chui từ trong bụng mình ra đâu mà mẹ với con thế này. Túy không chọn đường chết ngu dại như mẹ đẻ Tâm. Tự xem số cho mình, cho chồng, nên cô biết, hai người sẽ sống nhay sống nhách, không bệnh tật hay tai họa nào làm họ chết trước tám mươi tuổi. Rất nhanh sau cái sự ngộ ra, Túy có bồ. Đơn giản, nhanh gọn, vớ ngay anh đang làm giám sát xây dựng công trình khách sạn cho một công ty ngay đầu phố. Lần đầu tiên ngồi ăn tô hủ tiếu, sau khi sinh hoạt ở nhà nghỉ bình dân ra, Túy dặn “Làm gì thì làm, chứ anh đừng có trèo lên cao rồi thấy cái gì bên dưới hay hay, ngó cổ ra nhòm là chết lòi mắt đấy”. Chàng giám sát cười hềnh hệch, bia uống một chai một hơi, nói từ ngày làm cái nghề này đến chục năm có lẻ, đi đâu có gái đấy, chưa thấy con nào dặn anh cái câu như em. Làm giám sát mà không trèo cao nhòm kỹ thì chủ chó nào nó thuê mình”. Túy cay mũi, một tay nắn bóp đùi chàng giám sát viên kìm nén để miệng không phun ra câu chửi thề, tao biết là người thì đông thật đấy, nhưng mà ông trời đã cho gặp nhau, nghĩa là có căn có cốt. Thằng chồng trước của tao cũng nghề mày, trèo trèo leo leo chết không kịp ngáp, giờ tao gặp mày, sinh hoạt với nhau dù có là chơi bời qua ngày cũng có tí tình tí nghĩa, dặn một câu có thừa đâu mà mày cười đểu. Cuộc tình đậm mầu sinh lý tàu nhanh hai bên cùng có lợi kết thúc khi Túy gặp một đại gia tỉnh lẻ, lên thành phố mở công ty cho thằng con nghiện trốn dư luận ở địa phương nơi cha đang phấn đấu lên chức. Một tình yêu đích thực. Nhờ mối tình này, một năm sau, ông Nhân ngồi dính chặt vào xe lăn cho đến ngày nay.
Chuyện ông Nhân bị người tình của vợ chém đứt gân trong chính nhà mình không ai biết, ngoài mấy đương sự và Tâm. Vào đêm bất ngờ về sớm hơn hẹn hai tối do việc xong trước thời hạn, lại có tiền thù lao hậu hĩnh, ông nổi lên chút trách nhiệm với vợ mới con cũ, mua gà, xôi, trái cây, nhảy xe hàng từ miền Đông về, cuống quýt bấm chuông lúc một giờ sáng. Tất cả im lìm, như dưới hầm thời chiến. Gọi điện thoại, chuông đổ dài không ai thưa. Trèo tường háo hức vào nhà định gây bất ngờ tăng kịch tính.

(còn nữa)
________________________________________________

Nhìn từ năm 2009, một số “căn bệnh” văn chương

Khánh Phương

Một năm, trong tiến trình văn học, thường không có ý nghĩa đặc biệt nếu không nén chặt các sự kiện nghề nghiệp quan trọng, mà không phải năm nào cũng có được duyên may đó.

Sự vận động lành mạnh của đời sống văn chương là một dòng chảy ngầm, không phải bất cứ lúc nào cũng bộc phát; tiềm tàng nhiều khả năng và khó dự đoán, như vậy, sự mô tả nó cũng chỉ giống như phần nổi của tảng băng, mang tính chất ước lượng, ước định, chứ không phải sự phán xét. Năm 2009 ẩn chứa những cơ hội sau chót của tiến trình thập kỷ đầu tiên những người viết văn bằng tiếng Việt tiếp tục lối đi mới của mình, cũng là một năm của những căn bệnh chưa có cách khắc phục lâu dài.

Công bố tác phẩm

Công bố tác phẩm không chỉ là ghi nhận kết quả lao động của nhà văn và hệ luỵ việc “cấp phép”, mà còn là một cách đo thân nhiệt đời sống xã hội, thẩm mỹ văn chương. Ở trong nước, tiểu thuyết đầu tay của tác giả Nguyễn Nguyên Phước, Thời hiện tại, không kịp ra mắt vì các nơi cấp phép đều lắc đầu lè lưỡi với tình tiết người cha dẫn con đi chơi gái ở khu Geilang để mừng sinh nhật lần thứ 17, cũng là sinh nhật cuối cùng của cậu người cha còn có mặt trên đời - mặc dầu đây là chi tiết văn học về ký ức ám ảnh của nhân vật, chứ không phải sự mô tả vật thể. Sự kiện này cho thấy, trong khi một vài người viết ở Việt Nam bắt đầu tỏ ra tiếp cận được xu hướng mô tả ý niệm (conceptual), thì đa phần người đọc vẫn đọc để tìm kiếm sự mô tả vật thể - điều gì đã xảy ra “ngoài đời thực” và được “phản ánh” vào tác phẩm vậy?

Khoảng cách giữa nhận thức thẩm mỹ của người đọc trong nước với các khuynh hướng sáng tác hiện đại, đương đại trên thế giới đang là một rào cản đối với việc xuất bản tác phẩm và ghi nhận những đóng góp về mặt nghề nghiệp của một số nhà văn có lối viết mới.

Tác giả Nguyễn Thị Ngọc Tư công bố liên tiếp hai tập truyện vừa Gió lẻ và Khói trời lộng lẫy, tiếp sau tập truyện vừa Cánh đồng bất tận. Dù có trải dài chuyện kể trong phạm vi không gian, thời gian địa - vật lý xa, dài, rộng hơn, dựng nên những nhân vật với các biến cố bi thương hơi quá mức, mà qua đó có thể nhận ra người viết gửi gắm một tham vọng khái quát, khắc sâu về hình ảnh đời sống nhân sinh, thì truyện vừa của Nguyễn Thị Ngọc Tư vẫn chỉ dừng ở những lối ám dụ, ẩn dụ quen thuộc (buồn nôn, mất khả năng nói, lang thang kiếm tìm ký ức… trong Gió lẻ), những liên tưởng kiểu ngụ ngôn (người chộp bắt khoảnh khắc hiện sinh để lưu giữ tại bảo tàng, trong Khói trời lộng lẫy) đặt xen lẫn với những sự kiện được khai thác ở mức độ vật thể (bầm dập, trôi dạt, bị cưỡng bức… trong Gió lẻ, sinh con hoang, cô độc, đơn độc gánh sứ mạng… trong Khói trời lộng lẫy - cùng lắm thì cũng chỉ gán được cho các sự kiện này thêm tính chất ám dụ mà thôi); mà thiếu sự xuất hiện của một vấn đề tâm lý hoặc vấn đề nghệ thuật đủ sức thuyết phục. Tác giả còn chưa vượt khỏi phạm vi các sự kiện rời rạc và ý tưởng chủ quan.

Tiểu thuyết trong nước năm 2009 vẫn không có sự kiện nào thực sự gây dấu ấn trong đời sống văn học cũng như công chúng. Người ta chờ đợi sự tái xuất của lớp nhà văn: Bùi Ngọc Tấn (Tiểu thuyết Biển và chim bói cá ra mắt 2008), Nguyễn Xuân Khánh (các tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng ngàn) như chờ đợi một lối viết giàu trữ lượng văn hoá, ảnh hưởng rõ rệt văn chương Pháp nửa đầu thế kỷ XX, nội dung dày dặn, tác động xã hội sâu sắc, thấm thía, nhưng có lẽ, sẽ ít hy vọng đột biến về ngôn ngữ văn chương.

Lớp nhà văn thành danh với tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới: Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp (truyện ngắn), Nguyễn Việt Hà, Tạ Duy Anh, Trần Đức Tiến, Nguyễn Quang Lập… trong số họ, vẫn có những người công bố rải rác các tiểu thuyết tiếp sau trong vài ba năm trở lại đây, nhưng chưa bộc lộ độ chín dày dặn trong chính văn phong, giọng điệu, thi pháp mà họ đã bước đầu tự định hình cho mình. Những tiểu thuyết tiếp sau của các nhà văn bộc lộ sự hoang mang, ngưng đọng trong sáng tạo, mà một phần căn nguyên không phải ở họ, vấn đề này chúng ta còn có dịp quay lại sau đây.

Trong khi việc xuất bản ấn phẩm còn gặp nhiều rào cản mà không phải cứ tác phẩm được nhận định có đóng góp về mặt nghề nghiệp là có thể bứt lên, thì môi trường bình đẳng, không thành kiến về mặt đăng tải của các website văn học tiếng Việt trong và ngoài nước đã tạo ra những cơ hội quan trọng cho người viết. Không bị “vấp” những huý kỵ được áp đặt từ đời sống xã hội, văn chương công bố qua internet tạo điều kiện cho nhà văn đi đến lãnh địa không giới hạn của tư duy và cảm thức.

Những mảnh hồn trần (Đặng Thân), Đẻ sách (Đỗ Quyên), và Cõi tình (Nam Dao) là những tiểu thuyết được công bố trên internet trong năm 2009. Tác giả Nam Dao còn một tiểu thuyết khác, Vu quy, cũng được đăng tải trong năm 2009, nhưng theo người viết bài này, nó có ít điều cần bàn đến hơn Cõi tình.

Cả ba cuốn tiểu thuyết đều thể nghiệm lối sáng tác hậu - hiện đại, chí ít là trên mức độ miêu tả văn bản. Nếu tạm khu biệt lối sáng tác hậu - hiện đại trong hai đặc điểm căn bản về trần thuật, đó là sử dụng liên- văn bản và giải - trung tâm về mặt cấu trúc tác phẩm (phổ biến nhất là lối truyện - trong - truyện, truyện - và - dư luận giả định) cũng như ý tưởng nghệ thuật, thì đó mới là sự phân định bề ngoài. Cốt lõi của tư duy hiện đại và hậu - hiện đại là sự nghi ngờ đối với hệ thống khái niệm quen thuộc, bất biến, cũng như sự định hình, định tính về thế giới thông qua “lớp vỏ” vật thể. Nếu xem trần thuật văn học là việc hình dung một cách nghệ thuật về thế giới, thông qua ngôn từ, trở thành nhận thức sáng tạo về thế giới, thì tư duy hiện đại và hậu - hiện đại có thể không là gì khác, ngoài sự nghi ngờ đối với chính những nhận thức và kiểu nhận thức từng có. Giống như Milan Kundera từng khái quát một cách thiên tài về lối trần thuật mới, được tách rời hẳn khỏi hoàn cảnh lịch sử, tác phẩm hậu - hiện đại không trực tiếp đặt ra vấn đề xã hội hay lịch sử nữa, mà trực tiếp đặt ra vấn đề nghệ thuật. Nó xoay quanh tư duy và cảm thức của con người, trực chỉ mô tả điều đó, như mô tả một nội dung không đồng nhất, nhiều phiên bản, không có phán quyết, không kết thúc nổi. Nó là vấn đề nghệ thuật tự diễn tả chính bản thân. Khi mang nội hàm tự diễn tả, như một “đặc quyền”, vấn đề nghệ thuật của tác phẩm đương nhiên được xem là thoát ly khỏi chứng nghiệm và kinh nghiệm đời sống cá nhân, báo hiệu “cái chết của tác giả”.

Mặc dù được xem như một khám phá mới của văn học nửa sau thế kỷ XX, nghệ - thuật - khách - quan - hóa mà ta vừa nói ở trên đây thực ra đã tiềm ẩn trong tất thảy tác phẩm vĩ đại của loài người, từ kinh Veda thời Ấn độ cổ xưa tới Odysse của Homer, từ Thần khúc của Dante cho tới Don Quichote của M. D. Cervantes... Đó là những tác phẩm không chỉ bao hàm chứng nghiệm và tâm thức của một cá nhân, dù là cá nhân vĩ đại chăng nữa.

Xét theo tiêu chí của trần thuật khách thể hóa, thì Cõi tình chưa được xem là tiểu thuyết theo khuynh hướng hậu- hiện đại. Tuy có đan xen các văn bản khác nhau, câu chuyện của “ tôi”, người kể chuyện, những đoạn nhật ký của “cái tôi” khác, cùng một nhân vật có thể sống qua nhiều không- thời gian vật- địa lý- lịch sử khác nhau, từ Việt Nam thời Đổi mới đến không gian huyền ảo phiếm định trong chưởng Kim Dung… nhưng tất cả hợp lại làm từng phần nội dung của một câu chuyện thống nhất mạch lạc trong một điểm nhìn, với những biểu tượng ám dụ, chứ không phải sự liên văn bản khách thể hóa. Nếu như tính chất phê phán - dịch chuyển về mặt tư duy cho phép tác phẩm hậu- hiện đại dung nạp các xu hướng đa tạp về văn phong, chất liệu, từ kỳ ảo (fantasy) cho đến tưởng tượng viễn tượng, cho đến lối giễu nhại hài hước, thì lối viết khai thác các vấn đề hiện thực lịch sử, có mục tiêu là thông điệp xã hội, trở nên xa lạ với kiểu sáng tác này. Thông điệp đời sống, thông điệp xã hội chiếm vị trí quan trọng trong Cõi tình cho thấy, nó chưa đạt tới phương thức trần thuật của tác phẩm hậu - hiện đại. Tuy vậy, những trang, những dòng, chương sách (chiếm đa số) nhà văn giữ nguyên lối xây dựng hiện thực cổ điển, lại bộc lộ một khả năng cảm xúc hồn hậu, năng lực dụng ngôn trong sáng, khái hoạt, khả năng tổ chức ý tưởng sáng rõ, chặt chẽ, hiệu quả, mặc dầu không phải đã tránh được hoàn toàn sự lộ liễu.

Những mảnh hồn trần cũng rơi vào tình trạng tương tự, khi tác giả với nhiều dụng công dựng nên những văn bản khác nhau, với điểm nhìn trần thuật khác biệt rõ rệt, phong cách ngôn từ khác biệt trong tác phẩm, nhưng lại chỉ nhằm tới những cách nhìn (lý giải) hiện tượng đời sống: nổi loạn của giới trẻ, tình dục, chiến tranh, đạo đức xã hội… Mảng lý thú nhất trong Những mảnh hồn trần bộc lộ giọng điệu sở trường của tác giả: giễu nhại những ảo tượng của đời sống, trong đó có “văn chương”. Tinh quái, ma mãnh, biến hoá từ “xấu” sang “tốt”, giữa “dở” và “hay”, “thực” rồi “ảo”, “thô thiển” và “tinh tế”… Đặng Thân có vừa đủ cái nhìn nghi ngờ phủ quyết đối với thực tại- tư tưởng tâm thức, tìm trong nó những yếu tố vừa kệch cỡm vừa chính đáng, chấp nhận tính lưỡng phân của đạo đức và tư duy; đây là mảng hậu - hiện đại nhất trong sáng tác của ông. Tuy nhiên, không phải đợi đến lúc viết tiểu thuyết, thơ khách quan của Đặng Thân đã bộc lộ năng lực này rõ ràng, tập trung, dễ nhận biết hơn cả.

Đẻ sách của tác giả Đỗ Quyên thể hiện năng lực theo đuổi sự nhận thức tư duy một cách mạnh mẽ, ở mức độ tổng thể hơn, tác giả có ý thức rõ rệt mô tả biến hoá và thoái hoá của tư tưởng, tâm thức con người như một “nhân vật trung tâm” của tác phẩm. Tuy nhiên, người viết đã dựng nên hơi nhiều những hình ảnh vật thể, quanh quẩn với chúng, cũng như có hơi nhiều bối cảnh “ thực tại” (chuyện di dân, chuyện làm báo, chuyện yêu đương…) chỉ để ghim lên đó một số ý niệm nhất định, không phải lúc nào cũng phù hợp, khiến cho bạn đọc khó lòng theo dõi phần quan trọng của tác phẩm. Thủ pháp giễu nhại có lúc bị lạm dụng trở thành pha trò, “suy tưởng về suy tưởng” có lúc còn nặng nề, khô khan, chưa toả được thật nhiều vẻ đẹp sắc nét, trong sáng, thu hút.

Trường hợp tương tự, tiểu thuyết Chân dung cát của tác giả Inrasara (2007) cũng bước đầu có nội dung phê phán nhận thức, len lỏi trong “dung môi” là cái mông lung huyền ảo của văn tự và triết lý, lịch sử Champa, nhưng cũng bị chìm khuất bởi những thông điệp đời sống mà tác giả để cho vượt trội lên.

Mảng ấn bản (văn xuôi và thơ) của những tác giả viết tiếng Việt ở xa đất nước, mặc dù thu hẹp về số đầu sách và lượng phát hành, nhưng vẫn trình làng một số ấn phẩm quan trọng đối với sự nghiệp của từng nhà văn cũng như có ý nghĩa cấp thiết với độc giả. Tuy nhiên, vì điều kiện khó khăn trong theo dõi và tiếp cận văn bản, xin được đề cập tới nội dung và giá trị nghề nghiệp của các tác phẩm đó trong một dịp khác.

Thơ được xem là thể loại tiền phong của văn chương tiếng Việt trong tiếp cận những khuynh hướng sáng tạo đương thời của thế giới. Tuy nhiên, để có “một niềm kinh dị” đích thực xuất hiện giữa thi đàn Việt những thập kỷ đầu thế kỷ 21 này, thì còn cần một trữ lượng văn hóa sâu rộng, một năng lượng khái quát tư tưởng và cảm thức mạnh mẽ, một tài năng về ngôn từ hơn tất cả những gì đang có, bởi vì những gì chúng ta thực sự có, ở thời điểm hiện tại, chỉ là những tập thơ có đóng góp tích cực cho nghề nghiệp, và sáng tạo ở mức độ đang tích luỹ, chưa nhiều đột biến.

Các tác giả đã định hình về phong cách ở trong nước vẫn tiếp tục trình làng tập thơ mới: Cây ánh sáng (Nguyễn Quang Thiều), Và đột nhiên gió thổi, Hôm sau (Mai Văn Phấn)… Ra mắt một số tập thơ đầu tay của các tác giả đã quen thuộc với bạn đọc qua báo chí, website văn học: Men da (Huỳnh Lê Nhật Tấn), Kinh tuyến đen (Vĩnh Phúc)… Trường hợp đặc biệt, tập thơ đầu tay của Phạm Phú Hải (1950- 2009), Một hôm núi khóc đến với bạn đọc, trong khi tác giả đã qua đời trước đó ít lâu. Thơ của ông dung dị trong cảm xúc và lối nói, với những hình ảnh sáng tạo, lạ thường, gửi một thông điệp nhân sinh đằm thắm mà không kém phần táo bạo, tuy không thiên về sự cách tân ngôn ngữ nhưng bước đầu phá vỡ thẩm mỹ truyền thống.

Các website văn chương tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc truyền tải đến lớp độc giả tập trung nhất của thơ, tác phẩm mới từ những tác giả quen thuộc, giàu sức viết: Trần Tiến Dũng, Nguyễn Đức Tùng, Thận Nhiên, Nguyễn Đăng Thường, Đinh Từ Bích Thuý, Phạm Tường Vân, Đinh Thị Như Thuý, Mai Văn Phấn, Đỗ Quyên, Lê Vĩnh Tài, Trần Hữu Dũng, Hoàng Vũ Thuật, Lưu Diệu Vân…

Mặc dầu mỗi tác giả có một phương thức khác nhau trong mở rộng liên tưởng và tạo lập hình ảnh cho thơ, có thể thấy khuynh hướng nổi trội của dòng thơ Việt năm qua vẫn dừng ở đan xen sự dịch chuyển các cảm giác với những dao động của suy tưởng, làm xa rộng thêm biên độ tưởng tượng, tiến gần hơn cõi vô thức để hắt bóng từ một tầm xa hơn, quy chiếu rộng hơn, đến những vấn đề của nhận thức. Đây là khuynh hướng kéo dài trong thơ Việt từ khoảng hai chục năm trở lại đây, đem lại những thành tựu nổi bật với các tác giả: Du Tử Lê, Tô Thuỳ Yên… được tiếp nối một cách sinh động với Inrasara, Nguyễn Quang Thiều, Trần Nghi Hoàng, Đỗ Quyên, Lê Vĩnh Tài… Bên cạnh đó là khuynh hướng mới bắt đầu hình thành rõ nét, với ngôn ngữ tối giản, thông báo, tập trung sức biểu đạt trong cấu tứ, khai thác những vỉa ngầm của tri thức, có khi là tri thức gần gũi với huyền nhiệm tâm linh, với các tác giả: Nguyễn Đức Tùng, Nguyễn Đăng Thường, Thận Nhiên…

Sự kiện khép lại năm 2009, có lẽ cũng là sự kiện quan trọng để lại dấu ấn chưa từng có trong đời sống văn học nước nhà, tính từ vài chục năm trở lại đây. Đó là phát hành ấn bản cuốn sách phê bình thơ dưới dạng đối thoại, Thơ đến từ đâu của tác giả Nguyễn Đức Tùng (Vancouver, Canada) ở cả phạm vi trong nước cũng như bạn đọc tiếng Việt ngoài nước. Lần đầu tiên có một cuốn sách tập hợp được quan niệm nhân sinh và quan niệm sáng tạo của các nhà thơ viết tiếng Việt cả trong và ngoài nước, cho cùng một mục đích làm giàu năng lực sinh sống và nuôi dưỡng hiện thực của ngôn từ tiếng Việt cũng như hoài bão vươn tới bản chất sáng tạo của thơ ca. Ý nghĩa quan trọng hơn cả của sự kiện này là bước đầu tiên để có thể công nhận tính toàn thể, thống nhất, chung một mục tiêu nghệ thuật của nền văn học tiếng Việt đầy đủ và rộng lớn, không chia cắt, kỳ thị, đặt nền móng trên thái độ nhân sinh can đảm và tha thứ.

Phê bình và đời sống văn học

Hàng loạt các hội thảo về tiểu thuyết được tổ chức, trong phạm vi hoạt động thường niên của Hội Nhà văn (nhưng chưa thấy hội thảo về thơ?), tiếp nối là series hội thảo tác phẩm của các cây bút trẻ tuổi, sáng kiến từ Ban công tác Nhà văn trẻ của Hội. Trung tâm văn hóa sứ quán Pháp (L’ Espace) cũng là đơn vị đứng ra tổ chức hội thảo về một số tác giả văn học đương thời trong nước: Võ Thị Xuân Hà, Nguyễn Duy… Một số nhà nghiên cứu ở trường đại học: Chu Văn Sơn, Nguyễn Phượng, Phạm Xuân Thạch, Trần Ngọc Hiếu… bước đầu có những tìm tòi, đánh giá về thi pháp của tác phẩm, trước hết đem lại nhận xét khách quan về học thuật, có ích cho từng tác giả. Nhưng những nghiên cứu đó, thực tình mà nói, chưa tác động một cách sâu sắc và thực sự hiệu quả đến sáng tác cũng như chưa có nhiều tác dụng hướng dẫn bạn đọc, vì nó chưa được truyền đạt theo một phong cách gần gũi với tiếp thu của người đọc cũng như chưa gần gũi với những quan tâm và lối suy tưởng, cảm xúc của nhà văn.

Nếu không kể “hat- trick” của Nguyễn Đức Tùng, với Thơ đến từ đâu - vừa là tác phẩm phê bình đặc sắc, vừa gây nhiều luồng dư luận trái ngược trong giới làm nghề, không loại trừ cả những ẩn ý thiếu khoa học, lành mạnh, và loạt bài về phê bình văn học Những kỷ niệm của tôi về văn học miền Nam đăng trên tạp chí Sông Hương, thì hoạt động phê bình trong nước năm qua vẫn là một năm thiếu dấu ấn, quạnh quẽ, tẻ nhạt như tình trạng trong vòng mười năm trở lại đây. Căn bệnh trầm trọng của phê bình là thiếu sáng tạo và sự dấn thân cần thiết. Để tiếp thu một lý thuyết văn chương, dù ở mức cơ sở hay nâng cao, bản thân người nghiên cứu phê bình cũng phải chuẩn bị đủ một tâm thức cá nhân ngang bằng với những cơ sở tri thức và tâm lý của vấn đề văn chương, vấn đề tư duy đó, chứ không phải vay mượn, chịu áp đặt những luận lý một cách máy móc. Một tình trạng đáng buồn, có người viết phê bình không tài nào chứng nghiệm hay hình dung nổi một cảm xúc dù nhỏ nhất trong tâm thế của người sáng tác, chưa nói đến hoài bão, đến những chứng nghiệm nhân sinh hay suy tưởng của “khổ chủ”. Sáng tạo trong phê bình là việc bằng chính tâm thức của người phê bình, “đi lại con đường mà người sáng tác đã đi” (Phạm Toàn - Một vài cảm nghĩ về Thơ đến từ đâu), dùng chính năng lực tưởng tượng đột biến của mình để kiểm chứng, so sánh tưởng tượng đột biến của người sáng tác, từ đó tìm được những quy luật bao quát hơn từng hiện tượng riêng lẻ người sáng tác hay cá nhân người phê bình. Không trải qua tâm thế người sáng tác, chưa từng đối diện với vấn đề biểu đạt sáng tác, chưa có nhu cầu nhận thức cá nhân về chính những vấn đề tư tưởng- văn chương thế giới, thì khó lòng tiếp thu trọn vẹn bất cứ một thứ lý thuyết văn chương nào, và càng không thể nhận định chân xác về hiện tượng văn học đang diễn ra. (Trừ trường hợp người không trực tiếp viết tác phẩm, nhưng chứng nghiệm trọn vẹn được tâm thế sáng tạo).

Trong khi hầu hết người đọc trong nước, kể cả những người mặc nhiên hoặc dễ dàng được trao quyền thẩm định, còn xa lạ với tư tưởng, lối viết hiện đại và hậu hiện đại, thẩm mỹ văn chương của nhiều lớp người vẫn chủ yếu dừng ở các giá trị hồi đầu thế kỷ XX: đạo đức xã hội, tức cảnh sinh tình, cảm thán… thì những tìm tòi đến một số dạng thức văn chương hàm chứa tri thức, suy tưởng hơn (siêu thực, biểu hiện, dịch chuyển ngôn từ…) còn vấp phải sự thờ ơ, dửng dưng, thậm chí xa lánh.

Thực tế, hoạt động phê bình trong nước đang thiếu một nền tảng tri thức căn bản, mò mẫm trong mê cung của áp đặt và thành kiến, bị thao túng bởi thiên kiến, cũng như một số động cơ ngoài nghề nghiệp, thiếu sự đánh giá sòng phẳng đối với tác phẩm. Mà đánh giá sòng phẳng về tác phẩm là ý nghĩa trước hết của phê bình, là động lực quan trọng nhất của đời sống sáng tác cũng như sinh hoạt văn chương.

Với tác giả trẻ tuổi

2009 là năm thành công đối với các tác giả trẻ tuổi, khi một số tác giả có lượng đầu sách dày dặn: Phong Điệp, DiLi, Đặng Thiều Quang… được Hội Nhà văn đứng ra tổ chức hội thảo cá nhân, có quảng bá rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Sách mới của các tác giả Dương Thụy, Dương Bình Nguyên, Hồng Sakura… được chào đón nhiệt tình trong giới công chúng trẻ. Các website văn chương tràn ngập thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch thể nghiệm… của các tác giả trẻ tuổi đời từ 20 đến 30, đây cũng là diễn tiến chung trên các trang mạng văn chương từ vài ba năm trở lại đây. Có thể nói, thành công trước hết của những người viết trẻ tuổi là ở lòng quyết tâm hăm hở với cuộc đời và việc viết văn, trong đó không ít người có hoài bão muốn đóng góp cho nghề nghiệp cũng như tạo lập sự nghiệp đỉnh cao.

Cũng nên nói thêm, khái niệm mập mờ “nhà văn trẻ”, “nhà thơ trẻ” thường xuyên bị hiểu với hàm nghĩa thể tất cho những non nớt, “chưa tới”, và đây là một cách định danh nguy hiểm. Một người viết trẻ tuổi hay còn có ít năm trong nghề, vẫn phải đáp ứng đầy đủ những đòi hỏi của nghề viết một cách xác đáng.

Khu vực trong nước, người viết trẻ tuổi, cả trong hai mảng thơ và văn xuôi, sau chặng tìm đường đầu tiên đều đang chững lại. Với thơ, các tác giả trẻ nhanh chóng nhận được ảnh hưởng từ tư duy siêu thực, tượng trưng, dịch chuyển ngôn từ, và có ngay một lớp tác phẩm mới mẻ, được truyền sinh khí từ lối liên tưởng biến hóa, tạo lập hình ảnh khác lạ, nhiều chiều, từ xúc cảm tươi non. Nhưng trong số đó không nhiều người có được giọng điệu riêng, là thứ cần đến chứng nghiệm sống và tri thức sâu sắc, chắt lọc, hàm nén cũng như vẻ dung dị tự thân.

Ở mảng văn xuôi, có thể nhận thấy không ít sự dễ dãi. Trong khi một số người viết trẻ tuổi ngả sang khuynh hướng phục vụ thị hiếu giải trí, thực dụng, thì số còn lại loanh quanh trong những chủ đề hạn hẹp, những kiểu hiện thực nửa vời. Hoặc ve vãn cái tôi riêng tư, bất mãn với thực tại, hoặc quay về xu hướng cảm thán xen lẫn phê phán hời hợt. Nhiều truyện ngắn, truyện vừa chỉ là cái bóng mờ nhạt những vấn đề các nhà văn lớp trước đã khai thác, trộn lẫn với những chất liệu thời thượng: một chút “nổi loạn”, một chút tình dục, một chút “sến”… Ngay những tác giả được xem là đã định hình, có bút lực chắc chắn, thực ra mới chỉ dừng ở mức mô tả ngẫu nhiên những va chạm với cuộc đời, môi trường sống, và diễn biến nội tâm tương ứng với va chạm đó. Một số khác biết sử dụng kỹ thuật dựng truyện để mô tả sự hình dung của mình về đời sống theo một quan niệm đạo đức nhất định, nhưng chưa tạo lập được thế giới nghệ thuật thực sự mang tính sáng tạo bằng những hình ảnh văn chương độc đáo, khơi gợi cảm xúc và suy tưởng lý thú, chưa đặt ra được những vấn đề tâm tưởng.

Nhược điểm bao quát nhất của tác giả trẻ tuổi trong nước là việc viết văn chỉ dừng lại ở những chứng nghiệm cá thể trực tiếp, những gì đã xảy ra trong trải nghiệm đời sống thực của bản thân, và chỉ đối chiếu với phạm vi quan niệm xử thế, luân lý còn ở mức độ sơ khai, do tiếp nhận từ người đi trước và học vấn nhà trường. Trong khi tư tưởng và nghệ thuật của thế giới đã sải những bước khổng lồ, sự tự nhận thức của con người vô cùng phức tạp, lý thú, thì quan niệm thế giới và con người của tác giả trẻ tuổi trong nước mới chỉ dừng ở những quan hệ xã hội, tình cảm trên góc độ vật thể, trong một thực tại vật thể mà thôi.

Một bộ phận nhỏ tác giả tiếp cận được khuynh hướng tri thức trong sáng tác văn chương, bắt đầu thể nghiệm với kiểu văn học thoát ly khỏi hoàn cảnh lịch sử, khỏi môi trường sống cụ thể, hướng tới đề tài tư duy, tâm thức. Đây là hướng đi rất đáng được cổ vũ, ghi nhận. Nhưng những tìm tòi của các tác giả này hầu hết là ngắn hơi, ngẫu nhiên, chưa ổn định và xuất hiện rõ ràng, còn cần sự tập trung tìm hiểu, khai thác, thể hiện một cách dày dặn, đậm nét, sâu sắc hơn.

Khác với lớp người sáng tác trong nước, người viết tiếng Việt trẻ tuổi ở ngoài nước không xuất phát từ các vấn đề nội dung để tìm đến biểu đạt văn chương, mà trước hết xuất phát từ những chứng nghiệm ngôn ngữ, kể cả với các ngôn ngữ khác nhau, để đến với sáng tác văn học. Vì vậy, ở cùng một độ tuổi, có thể nhận thấy năng lực ngôn ngữ của tác giả ngoài nước nhuần nhuyễn, tối ưu, nhiều bộc phát và sáng tạo hơn so với người trong nước. Họ không quá bận tâm đến các vấn đề quen thuộc của nhân sinh, mà phản ứng tức thì với những va chạm, chấn động của hiện tại cập nhật.

Đối với người viết trẻ tuổi, không nhất thiết phải đặt ra cao vọng nghề nghiệp. Đối với họ, viết có thể để cho những mục tiêu thực dụng như giải trí…, hay ngược lại, viết như một cách để sống cho tràn đầy, mãnh liệt hơn, cho sự sống được khắc sâu bằng những ý nghĩa thú vị, mới mẻ, cao rộng.

Đối với từng người viết, nhất là người trẻ tuổi, một năm có ý nghĩa không giống nhau. Nhưng mỗi năm đều có thể là một vạch dấu để từng người viết, chân thực và nghiêm khắc đánh giá lao động của mình, nhất là tự nguyện tránh xa những giá trị phù ảo. Có những điều, chỉ thời gian mới tạo lập được, ví dụ sự sâu sắc. Nhưng có những điều có thể thực hiện ngay giây phút này, ví dụ sự trung thực trong làm nghề và với bản thân.

Hà Nội, tháng 3 năm 2010
K.P

________________________________________________________

Xử lý đạo văn: Bó tay?

- Hiện tượng đạo văn của giới cầm bút thì dường như không theo kỳ nào, mùa nào. Phát hiện đạo văn khó, nhưng xem ra xử lý đạo văn còn khó hơn. Bàn về thực trạng này chúng tôi đã có cuộc trao đổi với một số người trong nghề, các nhà thơ: Hồ Thanh Điền, Vương Tâm và Trang Thanh.

Trong khi chúng tôi đang bàn về vấn đề đạo văn thì trên số báo Văn nghệ mới nhất - số 30 ra ngày 24/7/2010, phần dự thi “Thơ về Hà Nội”, trang 5, trong bài thơ Chợt giao mùa của Trần Trương có câu: “Mặt Hồ Gươm xanh xanh màu cổ tích” khá giống với câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Nguyễn Duy ra đời rất lâu và được đông đảo độc giả nhớ là “Hồ Gươm xanh màu xanh cổ tích” trong bài Một góc chiều Hà Nội. Quả thật với trường hợp này thì không biết là do “ý tưởng lớn trùng nhau” giữa nhà thơ Trần Trương và Nguyễn Duy? Tất nhiên, nếu trùng nhau thì hẳn nhà thơ Trần Trương đã không biết đến một câu thơ hay trong bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Duy. Hay vì lý do nào khác?

Cũng ở trang này, trong bài thơ Hà Nội mưa của Đoàn Vũ có câu: “Hà Nội mùa này đâu vắng những cơn mưa” chỉ khác một từ trong ca khúc quen thuộc của Trương Quý Hải phổ thơ Bùi Thanh Tuấn. Thiết nghĩ trường hợp này tác giả không chú thích cũng nên in nghiêng câu thơ đó.

Dẫn một vài ví dụ nhỏ và mới nhất trong đời sống văn học để bạn đọc cùng suy ngẫm trước khi theo dõi cuộc trao đổi.

PV: Thời gian gần đây giới cầm bút có một số vụ đạo văn, trong đó có những người trẻ. Theo nhà thơ thì hiện tượng này nói lên điều gì?

Nhà thơ Hồ Thanh Điền: Người đạo văn phải gọi là ăn cắp. Sở dĩ có hiện tượng đạo văn là do không tin tưởng vào bản thân mình, mà những người trẻ tuổi không tin tưởng vào bản thân mình thì cũng có thể xảy ra lắm. Nhưng từ không tin tưởng vào bản thân mà ăn cắp thì thật đáng xấu hổ.

Nhà thơ Vương Tâm: Hiện tượng đạo văn là một hành vi lưu manh của những cây bút háo danh. Họ chộp giật thành quả của người khác, tìm cơ may qua việc đánh lừa bạn đọc, để hòng khẳng định tài năng của mình. Đây là hình ảnh của một thị trường văn học hết sức nhốn nháo đang diễn ra. Đặc biệt nhiều cây bút trẻ xuất hiện quá dễ dãi bằng đồng tiền, tự in tự bán, hoặc thông qua các kênh thông tin trên mạng. Những tác phẩm của họ nhiều khi giống một ai đó, câu chuyện đã từng viết, bố cục y chang, kết thúc gần nguyên bản. Gần đây nhất, đôi ba bài thơ giống nhau tử tứ thơ, câu thơ, thậm chí đến cả tên bài thơ cũng là điều dễ hiểu. Người ăn cắp biết rằng chẳng ai làm gì được nhau, nên thường sửng cồ, thách đố. Đó là mầm xấu xuất hiện trong trào lưu văn học trẻ đang mất phương hướng và không thể nào kiểm soát như hiện nay.

Nhà thơ Trang Thanh: Đạo văn đã bị lên án từ rất lâu và người cầm bút coi đó là một sự sỉ nhục. Xã hội nói chung coi kẻ đạo văn không có nhân cách nhà văn. Trong thực tế sáng tác, đôi khi có thể có những ý tưởng, cấu tứ ngẫu nhiên na ná giống nhau ở mức độ có thể chấp nhận được. Nhưng cố ý đạo văn của người khác làm văn của mình khiến ngay cả người đọc bình thường cũng có thể nhận ra, thì lại là việc làm không thể chấp nhận được ở mọi góc độ. Kẻ cố ý đạo văn, theo tôi, họ không có ý gì tốt cho văn chương hay cho ai cả, mà chỉ có ý đồ, mục đích riêng cho chính họ, nhưng rất đáng tiếc là cả ý đồ và việc làm đó lại cho thấy sự xuống cấp về nhân cách của họ.

PV: Cá nhân nhà thơ nhìn nhận vấn đề đạo văn như thế nào?

Nhà thơ Hồ Thanh Điền: Theo tôi thì hiện tượng ăn cắp thơ văn của người khác cần phải dẹp đi, càng sớm càng tốt.

Nhà thơ Vương Tâm: Chuyện đạo văn nên nhìn nhận đó là sự biến tướng của một căn bệnh tha hoá, thất đức trong xã hội, thuộc lĩnh vực văn chương. Trước kia có những cuộc mổ xẻ tranh luận về nghi án đạo văn của một nhà văn rất nổi tiếng, nhưng chỉ dừng lại ở khả năng trùng lặp ý tưởng, bố cục, chứ không hề có chuyện mạ lại nguyên bản cốt truyện, hoặc từng câu chữ như hiện nay. Nó xuất hiện một cách tưởng như vô thức, đày bản năng, của những kẻ lừa đảo, miễn sao có hiệu quả trước mắt. Vừa qua những sự cố đạo văn, bị dự luận báo chí nêu lên, của một số người ở ngay trong Hội Nhà Văn, cũng là một ví dụ điển hình cho căn bệnh trầm kha này Nhưng rồi mọi chuyện đều rơi vào im lặng. Cùng lắm là tự xử nội bộ. Kết quả như thế nào ai cũng đã rõ.

PV: Với những trường hợp tác phẩm được đăng ký bản quyền thì việc xử lý vi phạm căn cứ theo pháp luật. Tất nhiên luật pháp vẫn bảo hộ cho cả tác phẩm chưa đăng ký bản quyền, nhưng dường như chưa hiệu quả lắm, bởi nhiều lý do. Vậy chúng ta nên xử lý như thế nào với trường hợp bị phát hiện đạo văn, nhất là với những cây bút trẻ?

Nhà thơ Hồ Thanh Điền: Theo tôi thì phải có luật, dù luật pháp có bảo hộ cho cả những tác giả chưa đăng ký bản quyền thì vẫn chưa sát. Nhất là giới văn chương của ta thường “nhẹ” với những người ăn cắp văn. Họ có thể bỏ qua nếu người ăn cắp chủ động gặp tác giả, xin lỗi, hoặc đó là người thân quen. Cái này rất khó thay đổi ở nhà văn vốn cả nể. Tất nhiên tuỳ từng người và tuỳ từng trường hợp mà họ có thể đưa ra pháp luật.

Nhà thơ Vương Tâm: Bó tay thôi. Vì đâu đã có luật để xử lí các vụ đạo văn. Còn chuyện bản quyền ư? Ngay đến Cục Bản quyền tác giả Văn học-Nghệ thuật, của Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch có lẽ cũng chưa đưa ra chi tiết về chuyện đạo văn để làm căn cứ, chứ chưa nói đến Trung tâm quyền tác giả văn học của Hội Nhà văn hiện nay. Vậy đối với các cây bút trẻ khi có nghi án đạo văn chỉ có mỗi thủ tục rất hành chính là kiểm soát theo thời gian ấn loát, nhưng chưa có cơ sở pháp lý giống đến như thế nào, bao nhiêu khổ, hoặc bao nhiêu dòng, hay câu chữ để làm căn cứ kết tội đạo văn. Ngay kể cả nếu có đưa ra toà cũng vậy thôi. Các luật sư sẽ dựa và điều luật nào, lắp vào tội danh đạo văn ở mục nào để luận tội. Thật chẳng dễ. Do đó một số ý kiến cho rằng cần luật hoá Điều lệ Hội nhà văn là cần thiết, vì chẳng cứ chuyện đạo văn, mà ngay các quy định khác cũng không thể cố sửa bằng được để đạt mục đích nào đó.

PV: Nếu như một ngày nào đó bị ai ăn cắp tác phẩm của mình thì nhà thơ làm thế nào?
Nhà thơ Hồ Thanh Điền: Có lẽ tôi cũng giống các nhà văn khác, chỉ làm “nhẹ” thôi, nếu họ biết sai và xin lỗi. Nếu không thì tôi mới nhờ đến luật.

Nhà thơ Vương Tâm: Tôi xin nói lại: Bó tay! Trừ khi đạo nguyên bản, còn nếu chỉ giống cốt chuyện, các chi tiết, thậm chí đến tổ chức các tuyến phát triển, nhưng đã thay tên nhân vật và hành văn khác đi cũng không thể kết luận được. Bởi lẽ mức độ, bao nhiêu phần trăm giống ấy, chưa được luật đề ra để khép tội danh đạo văn và khung hình phạt. Những người có kinh nghiệm viết, nếu đạo cũng chả dại gì bệ nguyên xi, mà họ chỉ cấn mạ cốt chuyện y chang để viết lại cũng chẳng kết luận được. Cùng lắm chỉ có chút ít dư luận bàn tán sang tai nhau mà thôi. Thế mới khó.

* Xin cảm ơn ý kiến của các nhà thơ!

Hà Anh (thực hiện)

Thứ Sáu, 23 tháng 7, 2010

TIỂU THUYẾT VIỆT BẾ TẮC? Văn chương “ăn xổi ở thì”

TIỂU QUYÊN

“Những nhà văn có kinh nghiệm, nhiều vốn sống thì không tìm được bút pháp mới để tải những gì mình muốn viết, trong khi lớp trẻ thừa năng lực thì nhiều khi sống vội vã, hời hợt đến không có gì để viết”. Đó là nhận định của nhà văn Nguyễn Quang Lập
Nhà văn Nguyên Ngọc trăn trở: “Xã hội đang đứng trước những vấn đề phức tạp và sâu sắc, đòi hỏi những người viết phải có nền tảng tri thức để có thể cảm nhận được những thay đổi của cuộc sống. Nhưng văn học hiện nay gần như trong trạng thái uể oải, lại đang sa vào những những cái tầm thường vụn vặt. Có vẻ như người viết càng lúc càng mòn với chính mình. Và điều đáng trách là có những cây bút lão thành lại cũng viết truyện theo kiểu câu khách giật gân. Những tác phẩm kiểu đó sống lâu làm sao được”.

Đang nợ chính mình

Nhà văn Cao Duy Sơn – giải thưởng Hội Nhà văn 2009 với tác phẩm Ngôi nhà xưa bên suối – nhận định thẳng thắn: “Vốn sống của người viết trẻ còn rất thiếu, thậm chí hời hợt, chưa mang đến được điều mà bạn đọc cần. Người viết đang sống trong thời đại của mình mà vẫn chưa hiểu biết nhiều về nó”. Còn nhà văn Nguyễn Quang Lập khẳng định: “Tiểu thuyết hiện nay đúng là đang bế tắc, nhưng bế tắc về bút pháp chứ không bế tắc về đề tài. Những nhà văn có kinh nghiệm, nhiều vốn sống thì không tìm được cách mới để tải những gì mình muốn viết, trong khi lớp trẻ thừa năng lực thì nhiều khi sống vội vã, hời hợt đến không có gì để viết!”.

“Nhà văn già” buông bút?

Không nhiều những tên tuổi nhà văn thế hệ trước còn trở lại với văn học trong thời gian gần đây. Một số ít tên tuổi vẫn âm thầm viết và xuất hiện gây bất ngờ cho làng văn, như nhà văn Dương Hướng đã cho ra đời Dưới chín tầng trời sau 15 năm thai nghén; nhà văn Trung Trung Đỉnh ở cương vị Giám đốc NXB Hội Nhà văn cũng cho ra mắt Sống khó hơn là chết và đang còn “dự trữ” tác phẩm Lính trận; tác giả của Mùa lá rụng trong vườn, nhà văn Ma Văn Kháng cũng có Một mình một ngựa... nhưng không gây được tiếng vang.
Không phủ nhận những cống hiến tận tụy của các nhà văn trẻ khi họ đã cho ra đời nhiều tác phẩm ít nhiều được bạn đọc quan tâm song, nói như nhà văn Dương Hướng: “Người viết trẻ đang nỗ lực bứt phá, cố làm mới nhưng chưa tới”.

Nhà văn Cao Duy Sơn bày tỏ: “Người cầm bút đang nợ chính mình. Nhịp sống thời đại mới với những biến đổi vô cùng lớn lao trên mọi phương diện xã hội nhưng điều đó chưa bao giờ được thể hiện thỏa đáng trong tác phẩm của người viết trẻ”.

Nhà văn Nguyên Ngọc đánh giá nghiêm khắc: “Văn chương không thể “ăn xổi ở thì”, mỗi nhà văn đều cần phải có một vùng đất cho mình. Cây bút trẻ càng phải tự mình nâng tầm tri thức. Không thể có nhà văn lớn nếu như người viết chỉ ngồi một chỗ mà tưởng tượng”.

Chạy theo hư danh

Một nhà văn nói rằng nhiều người viết hiện nay chỉ xem văn chương như là người tình hờ, viết vì nhu cầu bản thân nhiều hơn là sự cống hiến. Đề tài hiện thực xã hội đang bị né tránh, giá trị văn hóa sâu rộng của dân tộc chưa thể chạm tới và những đề tài chiến tranh, lịch sử, trinh thám, số phận người cùng khổ... đang là mảnh đất ít người “canh tác”. Nguyên nhân chính là do người viết trẻ không đủ kiến thức và không đủ tầm để có thể khai phá những mảnh đất này trên bậc cao văn học.

Nhà văn Dương Hướng ưu tư: “Thế hệ tôi và thời đàn anh đi trước có thể bỏ mọi thứ để cầm bút viết văn, viết như là một niềm đam mê không thể thiếu. Họ có thể đánh đổi cả đời cho nghiệp văn chương chứ không phải chỉ xem văn chương là nghề tay trái. Còn những cây bút trẻ bây giờ nhiều khi đang chạy theo hư danh”.

Thực tế đúng như vậy, sự nổi tiếng vội vã cũng khiến cho nhiều cây bút trẻ ảo tưởng về bản thân mình. Nhà văn Bích Ngân cho rằng nhiều cuốn sách ra đời thời gian qua tạo sự ồn ào như một hiện tượng nhưng đó lại là những chuyện sa đà vào những thứ nằm ngoài văn chương, ngoài tác phẩm. Theo Bích Ngân: “Văn chương là một con đường dài, nếu không đam mê, không dám đánh đổi thì người viết sẽ tự khước từ mình ra khỏi đời sống văn học”. Điều này có thể kiểm chứng qua sự xuất hiện kiểu “chợt lóe lên rồi tắt” của một số cây bút trẻ trong thời gian qua.

Ở góc độ của người đi trước, nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng không ai bắt buộc nhà văn phải viết đề tài này hay đề tài khác. Vấn đề là tác phẩm có đủ sức thẩm thấu và có đủ giá trị lớn lao hay không. Nhưng rõ ràng cái sự “chưa tới”, “chưa chín muồi” của người viết mới là nguyên nhân chính cho những tác phẩm ra đời chưa thể tạo được sự rung động sâu xa. “Nếu cứ sa đà vào kiểu văn chương tầm thường, câu khách, chạy theo hư danh thì nhà văn giết chết văn chương và giết chết chính mình” – tác giả Đất nước đứng lên nhấn mạnh.

_______________________________________________

Kim Lân - một nét cuối đời

PHAN QUANG

Buổi bế mạc Đại hội Hội Nhà văn năm 2005 tại Hội trường Ba Đình, anh em đến khá đông, ngồi kín phòng họp lớn, chờ mãi, Ban tổ chức chắc đang hội ý ở bên trong. Tôi đứng ở lối đi ngang hội trường, quay mặt về phía dưới, chụp hình chân dung một số bạn hữu. Chợt thấy nhà văn Kim Lân mặc chiếc áo ngắn màu sáng, đầu đội mũ nồi đen, chống gậy đi từ hành lang vào, vừa đi vừa thở.
Tôi đang đứng ở lối đi, vội bước tới đón, đưa ông vào, vừa dìu ông vừa hỏi:
- Dạo này sức khỏe anh Kim Lân thế nào?
Ông lắc đầu, vừa thở vừa đáp:
- Kém lắm, kém lắm...
Tôi nói:
- Đến tuổi anh mà còn đến được, để gặp anh em thế này là quý hóa quá rồi. Mỗi năm chúng mình đều già thêm một tuổi, biết làm sao anh! Anh đến tuổi 85 mà sức còn được thế này, khối người ganh tị đấy…

Một nhà văn trẻ đứng dậy nhường chỗ ngồi cho Kim Lân. Ông chậm chạp ngồi vào chỗ, bên cạnh nhà văn Nguyễn Kiên, gác chiếc can bên cạnh, miệng vẫn thở phì phò. Tôi quay lại, tiếp tục làm công việc phó nháy nghiệp dư để giết thời gian.
Chợt Kim Lân bước ra khỏi ghế, đến bíu vai kéo tôi ra sát phía tường. Ông vẫn vừa thở vừa nói:
- Tôi có chuyện này muốn nói với anh Phan Quang.
Tôi nghiêng tai chờ:
- Có một lần, tôi đã nói hỗn với anh...
Tôi hiểu ra ngay, vội ngắt lời ông:
- Thôi thôi, tôi xin anh, anh Kim Lân ơi! Chuyện vặt thời xửa thời xưa, hồi chúng mình còn trẻ, quên từ lúc nào rồi. Nay thọ được đến tuổi anh, để bụng làm chi những thứ ấy cho nặng cái đầu, hở anh.
*
Hồi ấy, cơ quan Hội Nhà văn còn đóng ở phố Nguyễn Du. Một hôm, tôi có việc đi ngang qua cổng. Nhà văn Đỗ Chu đang cùng mấy người bạn ngồi uống nước ở quán vỉa hè nhìn thấy, chạy ra vẫy tay rồi chặn xe lại bảo vào chơi với anh em. Tôi thoái thác vì đang có hẹn. Đỗ Chu vẫn níu chặt ghi-đông xe máy hỏi:
- Anh làm gì mà ông Kim Lân quạu cho dữ vậy? Hôm ấy, em đi vắng, về nghe anh em nói lại...
Tôi cười:
- Có chuyện gì đâu. Một câu nói vui ấy mà.
Và rồ máy chạy luôn.
Mà đúng là chuyện chẳng có gì. Trước đó ít lâu, có một lần tình cờ gặp Kim Lân, tôi vừa cười vừa hỏi:
- Thế nào, anh Kim Lân? Nhà văn đã trở thành nhà giáo rồi sao? Tôi hỏi thăm anh, nghe nói nhà văn đang bận lên lớp giảng bài?
Tôi nói năng cách ấy bởi vài ba hôm trước, tình cờ nghe ai đó hỏi Kim Lân đâu, và một người khác đáp: “Kim Lân hôm nay bận giảng bài tại Trường viết văn Nguyễn Du”. Bỗng dưng Kim Lân trở nên quạu quọ, lớn tiếng gắt:
- Thôi anh ơi, tôi van anh, tôi lạy anh. Xin anh để yên cho anh em chúng tôi sống với!
Tôi chưng hửng, rất ngạc nhiên. Lát sau mới mang máng nghĩ ra. Có lẽ tôi đã nhỡ lời, vô tình chạm phải một cái gì đó nhạy cảm trong đời ông.
Kim Lân và tôi quen biết nhau đã lâu song không chơi thân. Tuy vậy hồi ấy tuổi còn nông nổi, lâu ngày gặp anh em quen biết bên Hội Nhà văn, tôi thường bỗ bã nói đùa, châm chọc đôi ba câu, ngỡ những câu nói của mình trêu anh em là… thông minh trí tuệ lắm (!). Chưa bao giờ bị ai phản ứng. Lần này là một.
Mấy hôm sau, có cuộc họp ở Hội Nhà văn bàn việc gì đó, tôi không quan tâm nhiều. Thực tế hồi tôi đang bị hút vào việc quản lý báo chí bộn bề, nhận được giấy mời thì đến cho có mặt thôi. Khi Kim Lân phát biểu, ông nói rất gay gắt. Có một ý không chỉ đích danh ai, song mọi người có mặt tại cuộc họp đều hiểu ông nhằm vào tôi. Tôi chỉ ngồi im, một phần cũng nhận ra cái lỗi của mình mấy hôm trước. Vả chăng, cũng chẳng có lý do gì để phản ứng, bởi vì diễn giả nói trống không.
*
Một chuyện vặt, rồi cũng phôi pha với thời gian. Tôi ngày càng ít giao du với anh em văn nghệ, trừ một số bạn thân nhau từ trước. Thi thoảng gặp, Kim Lân và tôi gật đầu chào nhau, không thiếu lịch sự mà chẳng phải mặn mà, nhưng cũng chưa bao giờ trò chuyện riêng. Có vẻ cả anh và tôi, hai bên đều muốn quên đi sự cố chỉ vì một câu nói đùa.
Ngẫu nhiên, một hôm gặp nhau tại đám cưới con trai đầu nhà văn Nguyễn Văn Bổng. Bổng tổ chức bữa cơm thân tại nhà, mời mấy người bạn. Ngoài gia đình, độc một cái bàn dành cho khách. Mà thực ra căn nhà của Nguyễn Văn Bổng - Hồ Vân tại phố Nguyễn Thượng Hiền cũng chỉ có thể tiếp ngần ấy khách mời. Có Nguyễn Tuân, Kim Lân, Thợ Rèn, họa sĩ Sỹ Ngọc, một ông bạn làm công tác văn hóa và cũng là thông gia của Bổng, và tôi. Sáu người ngồi, còn Nguyễn Văn Bổng đứng sau lưng mời rượu, cạn chén rồi đi. Chị chủ nhà chạy qua chạy lại chào mời, tiếp thức ăn cho khách.
Bầu không khí rất thân tình, có tính chất gia đình. Chẳng ai nói nhiều. Họa sĩ Sỹ Ngọc lặng lẽ nhấm rượu vodka Nga chính cống, Nguyễn Văn Bổng mua tại cửa hàng Tông Đản, một tháng vài chai rượu ở bên Nga ê hề như rượu quốc lủi của ta, coi như… đặc quyền đặc lợi. Thợ Rèn, ít uống, khảnh ăn, chỉ nhấm nháp và cười tủm tỉm. Kim Lân cũng ít chuyện trò. Đã có cụ Nguyễn Tuân nói thay cho tất cả, hôm ấy cụ vui, bốc lắm, nói thao thao. Đang giữa bữa, Nguyễn Tuân bỗng lớn tiếng gọi:
- Pháo đâu, mang ra đây bác đốt mừng hai cháu!
Làm gì có sẵn pháo trong nhà. Cậu con trai thứ hai của Nguyễn Văn Bổng vội vàng lao xuống phố, lát sau mang về phong pháo dài. Nguyễn Tuân tự tay bóc, đốt. Pháo nổ vang nhà, khói tỏa mù mịt cả gian phòng (Câu chuyện này tôi đã có lần kể trong bài Mùi hương viếng bác Nguyễn, viết ít lâu sau khi bác từ trần).
Hình như bầu không khí thân tình hôm ấy làm mọi người, khách cũng như chủ, đều xởi lởi. Trước khi chia tay, Kim Lân xiết chặt tay tôi, hình như định nói gì đó nhưng hai anh em cùng đi sóng đôi xuống hết cầu thang rộng, đến cổng ông vẫn lặng im.
Chuyện vặt ấy cách đây đã lâu lắm rồi, sao ông còn nhớ nhỉ.
… Kim Lân vẫn bíu vai tôi, tiếp tục thì thầm bên tai:
- Anh không nhớ nhưng tôi nhớ. Anh quên nhưng tôi không quên. Tôi đến tuổi này rồi mà không có dịp có nhời nói lại với anh, thì tôi chết không nhắm mắt...
Tôi cảm động thực sự. Tôi dìu ông về ghế ngồi. Vừa lúc ấy, tiếng loa của ban tổ chức vang lên, yêu cầu mọi người về chỗ ngồi, giữ trật tự...
Ít lâu sau Đại hội, nhà văn Kim Lân qua đời ở tuổi 87. Đọc tin qua các báo, tôi bồi hồi nhớ lại lần cuối gặp ông. Còn nhớ như in, cách ông dùng từ, “có nhời nói lại”, nền nã vùng Kinh Bắc ta.
Tôi thích truyện ngắn Kim Lân nhưng không biết nhiều về ông. Phải chăng câu chuyện nhỏ trên đây cũng là một nét của con người ấy?

________________________________________________

Bụi đường nháo nhác…

Nguyễn Ngọc Tư

Bạn chiêm bao thấy mình nằm chết trên một con đường. Thật ra cũng có thể coi là ngủ, vì điệu bộ khá giống nhau: nằm thanh thản im lìm. Bạn chọn chết vì nó có lý hơn (chỉ thấy người điên mới nằm giữa đường mà ngủ, hic). Và vì duy lý nên bạn không cho là điềm báo, tỉnh dậy chỉ nghĩ, té ra ta sợ đường sá đến nỗi bị ám cả trong mơ.

Một khảo sát gần đây cho thấy thời gian người ta ngủ trên giường bằng với thời gian đi trên đường, bạn nghĩ họ mô tả phần nào đời bạn. Cuộc sống gì mà cứ mở con mắt ra là dắt xe rời khỏi nhà, rồi cứ chạy nháo nhác. Có trăm việc phải chạy: đưa đón con, tới chợ, tới quán cà phê bù khú với bạn bè, tới cơ quan, đi công tác, về quê… Một bữa ngó đồng hồ công-tơ-mét phát hiện ra mình đi mỗi ngày ngót năm mươi cây số. Phải chi đường trường thoáng đãng thì còn vẩn vơ ngó lau sậy, phải ngoạn mục như con đường chênh vênh ngoắt ngoéo bên miệng vực, như đường xuyên rừng bướm bay như vãi, hay như con đường chạy thẳng tắp bên dưới tán cao su mùa lá rụng… thì hay quá, bạn đi miết cũng không biết chán là gì. Nhưng cung đường ngày ngày bạn phải len lỏi ngược xuôi chỉ loanh quanh trong thành phố với những đoạn bị đào xới, những ngã tư nghẽn cứng xe, những quãng chìm trong nước… Khói khỏi phải nói, bụi khỏi phải tả, ồn ả khỏi phải than.

Thành ra đi đường là một việc mệt nhọc và cơ cực. Tỉnh táo lắm giỏi giang lắm mới né khỏi nước miếng của người đi trước, mới không xảy ra va quẹt, không cán phải xác chuột hay một đống cơm cặn nát, không bị kẹt cứng giữa đám đông, hay sụp vào một ổ trâu… Về tới cỗng nhà mới dám thở hắt ra tin mình còn sống. Một mình mạo hiểm đã sợ, nhưng mỗi ngày bạn vẫn phải chở trẻ con theo. Che chắn bề nào cũng thấy rủi. Sợ cả cái cùi bắp, vỏ dưa hấu mà người ta vô tư rải trên mặt đường, bởi bánh xe tránh được thì bạn cũng vấp vào câu hỏi của trẻ con, sao người lớn không tốt như lời mẹ dạy… Đôi buổi đón con tới trước nhà rồi mới sực nhớ suốt quãng đường về mình không nói câu nào với thằng nhỏ, trời đất! Chung một xe mà đi như những thực thể cô đơn.

Khi đó thằng con bạn đầu mới vô mẫu giáo. Giờ nhà bạn có thêm đứa trẻ nữa, lịch trình đón đưa mỗi ngày mỗi dài thêm. Than rằng đời ta không hơn cái giấy gói bánh mì, xao xác mãi trên đường, nhừ tử nát thành bụi rồi vẫn bám đường mà xao xác. Ba năm trước đi Sài Gòn chơi, gọi chị bạn cà phê chị từ chối gọn, "chị đã lỡ về nhà rồi em ơi…" bạn nghe giận lắm, không ngờ giờ mình đã trở thành bản sao, nghĩ tới chuyện lộn ra đường nghe ngán ngược, như chị Kiều bị cụ Du cho gặp lại anh Trọng, sau những trầm luân(*).

Bạn nghĩ một phần do mình già, chớ hồi trẻ khoái xách xe ra đường tí tớn. Hồi trẻ đường phố là hơi thở, lầm lỗi gì mà nghe má dọa cấm không cho đi đâu thì sợ lắm, thà chịu bị đánh chục roi còn hơn. Nhưng những con đường xưa không còn nữa, những con đường nhỏ nằm mơ màng dưới bóng cây. Nhà thấp. Hàng quán thưa. Cỏ liếm láp bên lề. Chuông xe đạp leng keng vừa đủ để vui tai. Bụi đất đỏ cuộn là đà sau chiếc dép mòn bén lẹm của người gánh ve chai. Buổi tan trường trên đường lô xô áo dài, nón lá.

Giờ thành phố cũng còn một vài con đường còn sót chút đỉnh thơ mộng cũ, đôi khi bạn cũng vòng qua đó dù không có công chuyện gì. Thằng bạn nhỏ hết hồn khi nghe con mẹ nó cao hứng hát ử ừ ư, chứ ngày thường ra đường mặt mẹ quạu đeo sẵn sàng sừng sộ…

Ngán ngẩm nào ám khói vô bộ não đến cả chiêm bao cũng thấy nằm buồn xo giữa đường. Nhưng có vài lần giấc mơ ấy lặp lại. Lúc đó bạn buộc phải nằm một chỗ trong nhà gần hai tháng trời, ban đêm khi mọi người ngủ hết nghe tiếng xe máy chạy qua nhà để lại một vệt âm thanh dài và ấm, bỗng dưng bạn như nhìn thấy góc đường có bà già thường ngồi bán xôi vò, thấy một chú mặt mũi bậm trợn hồng hộc đuổi theo và kêu cô ơi quên gạt cái chống chân kìa và ở chỗ chốt đèn đỏ có anh cảnh sát giao thông đang thổi bong bóng giùm cho tụi trẻ con…

Chiêm bao đó bạn giải mã bằng chữ nhớ. Xa mới nhớ, lẽ thường…

(*) Sao tui không thấy đó là kết thúc có hậu, trời?????

______________________________________________________

Thứ Ba, 20 tháng 7, 2010

TIỂU THUYẾT VIỆT BẾ TẮC?

Cần một cuộc “lột xác”

Văn học đang ở thời phải đợi - đợi sự phát triển - nếu có - của tiểu thuyết, đợi những tác phẩm đang ra đời nhỏ giọt hằng năm và đợi cả người viết trẻ đến lúc đủ tâm, đủ tầm và chịu dấn thân cống hiến cho văn học của họ.

Nói theo ý kiến bức xúc của một nhà văn thì đã đến lúc chúng ta nên tiến hành một cuộc “lột xác” trên mọi phương diện, nếu không làm được như vậy thì tình trạng tiểu thuyết làng nhàng “cũ không ra cũ, mới cũng chẳng ra mới” còn tiếp tục kéo dài.

Chỉ còn trong hoài niệm

Đời sống văn chương không còn sôi động, nhà văn lão thành không còn mặn mà với tiểu thuyết, các cây bút trẻ cũng nêu lý do họ phải làm nghề khác để sống nên không thể toàn tâm toàn ý với văn chương. Và điều tất yếu là văn học khó có thể trở lại dòng chảy mạnh mẽ với những tiếng vang như những thập niên trước.

Cho đến thời điểm này, văn học đang trở lại “thời xa vắng” khi cả “nhà văn già” lẫn “nhà văn trẻ” đều không có dấu hiệu nào cho một “bước chuyển mình”, nếu không nói là “văn già” đang có dấu hiệu dừng lại hẳn.

Nói như nhà văn Nguyên Ngọc, “thế hệ chúng tôi không còn đủ sức để viết nữa, giờ là vai trò của những ngòi bút trẻ”.

Thật vậy, nhà văn thế hệ trước đã “lùi về tuyến sau”, nếu có xuất hiện trở lại cũng chỉ trong những vai trò khác: Nhà biên kịch.

Ở một góc độ khác, có thể thấy rằng tác phẩm của nhà văn thế hệ trước trong thời đại này cũng chưa thể thu hút được độc giả thời nay.

Một nhà văn trẻ nêu ý kiến: “Cách kể chuyện theo kiểu cũ và những “chuyện thời quá vãng” được các cây bút “lão thành” khai thác không hợp với độc giả trẻ hôm nay. Mà nếu khai thác về đời sống trẻ hôm nay thì các nhà văn thế hệ trước cũng khó lòng làm được”. Thất bại của cuốn Gạ tình lấy điểm của tác giả Tướng về hưu – nhà văn Nguyễn Huy Thiệp - có thể là một minh chứng cho nhận định này.

Nhà văn Dương Thụy nhìn nhận: “Mỗi thời mỗi suy nghĩ, mỗi bối cảnh, mỗi cách nhìn nhận vấn đề khác nhau. Độc giả thời nào thì đọc tác phẩm của thời đó, độc giả tuổi trung niên chọn đọc tác phẩm của nhà văn trung niên, độc giả tuổi mới lớn chọn đọc tác phẩm của nhà văn chuyên viết cho tuổi mới lớn.

Chúng ta không bao giờ nên áp đặt người viết phải thế này phải thế kia. Tiểu thuyết là một món ăn mà độc giả có toàn quyền chọn lựa và dĩ nhiên nhà văn cũng có toàn quyền viết cuốn sách của mình theo ý riêng”. Khi “nhà văn già buông bút” mà thế hệ kế cận không đủ sức tiếp nối thì văn học sẽ có một khoảng trống lớn.

Vòng xoáy “cơm áo gạo tiền”?

Nhà văn trẻ thử sức ở lĩnh vực tiểu thuyết có thể kể đến những tên tuổi: Vũ Đình Giang, Phan Hồn Nhiên, Dương Thụy, Nguyễn Đình Tú, Tiến Đạt, Thủy Anna... nhưng người viết nào cũng có một công việc chính để kiếm sống hơn là nghề cầm bút.

Một nhà văn trẻ từng có nhiều tác phẩm được độc giả yêu thích cũng tuyên bố “giải nghệ”, không viết văn vì “cơm áo không đùa với khách thơ”.

Sự thật là vậy. Một nhà văn trẻ khác cũng cho biết rằng chị âm thầm viết sách hơn một năm, tác phẩm ra đời được độc giả ít nhiều quan tâm nhưng tiền nhuận bút mà cuốn sách mang lại cũng chỉ gần bằng một tháng lương làm việc hiện tại của chị.

Nhà văn Lê Văn Thảo nói khi nhuận bút không đủ sống thì không thể buộc nhà văn phải đầu tư thời gian 2, 3 năm cho một cuốn tiểu thuyết, vẫn phải chấp nhận xem việc viết như là một nghề tay trái. Đó cũng là lý do mà nhiều cây bút chọn viết tản văn, truyện ngắn...

Nhưng theo nhà văn Cao Duy Sơn, áp văn chương vào miếng cơm manh áo chỉ là một cách nói vui hoặc biện minh cho những tác phẩm thường thường ra đời của họ. “Có cả núi tiền cũng không tạo ra được tác phẩm có hồn nếu không thật sự toàn tâm toàn ý làm việc cống hiến cho văn học. Nếu không nắm bắt được hơi thở thời đại, tiểu thuyết sẽ khó theo kịp bước chuyển mình của cuộc sống hôm nay”.

Chờ đến bao giờ?

Nhà văn Cao Duy Sơn: “Có cả núi tiền cũng không tạo ra được tác phẩm có hồn nếu không thật sự toàn tâm toàn ý làm việc cống hiến cho văn học. Nếu không nắm bắt được hơi thở thời đại, tiểu thuyết sẽ khó theo kịp bước chuyển mình của cuộc sống hôm nay”.

Nhà văn Tiến Đạt nói viết tiểu thuyết, đối với nhà văn trẻ, còn là dịp để họ kiểm chứng sự trải nghiệm, tư duy và năng lực sáng tạo nhưng đó là điều không dễ dàng chút nào.

“Mỗi thời, tùy vào hoàn cảnh lịch sử sẽ sản sinh ra thế hệ nhà văn không giống nhau, điều này sẽ tạo nên tính đa dạng, phong phú trong nền văn học. Nhưng để đi được con đường dài, không những phải có đam mê, nội lực mà còn cần phải có bản lĩnh và... sức khỏe tốt để vượt qua được những khó khăn” – tác giả của Thể xác lưu lạc chia sẻ.

Nhiều người viết trẻ cực lực phản đối chuyện tiểu thuyết đang chết mòn, chỉ cho rằng dòng trôi chậm và tiểu thuyết vẫn đang chờ ngày “phục sinh” còn đó là ngày nào thì vẫn phải đợi. “Đừng buộc người trẻ phải có tiểu thuyết mà phải đợi cho đến khi họ cần có đủ vốn sống và sự trải nghiệm cần thiết. Tiểu thuyết cũng giống như một đồ thị lên xuống vậy” – một nhà văn trẻ bày tỏ.

Nhà văn Lê Văn Thảo cũng nói rằng muốn văn học phát triển cũng cần phải chờ thời gian. Nhà văn Cao Duy Sơn cũng có góc nhìn lạc quan: “Nếu hôm nay chưa có, biết đâu ngày nào đó sẽ xuất hiện những tài năng xuất chúng, với những tác phẩm lớn mang tầm thời đại. Chúng ta hãy kiên nhẫn chờ đợi”.

Nhà văn quân đội Nguyễn Đình Tú chia sẻ góc nhìn: “Các nhà văn hiện nay viết trong tình trạng đa cực về quan niệm thẩm mỹ. Cái gọi là “dấu ấn” của tiểu thuyết hôm qua khác với “dấu ấn” của tiểu thuyết hôm nay. Cái hôm qua toàn dân đọc hôm nay chưa hẳn đã còn giá trị. Cái còn e dè hôm nay có thể sẽ lại có giá trị phổ quát ở ngày mai”.

Và như thế chung quy lại cũng có nghĩa là văn học đang ở thời phải đợi – đợi sự phát triển – nếu có - của tiểu thuyết, đợi những tác phẩm đang ra đời nhỏ giọt hằng năm và đợi cả người viết trẻ đến lúc đủ tâm, đủ tầm và chịu dấn thân cống hiến cho văn học của họ.

Biến không thể thành có thể

Sự nóng vội của một số cây bút trẻ đã góp phần cho ra đời những tác phẩm chỉ ghi dấu mờ trên văn đàn. Nếu như các nhà văn nước ngoài dám dấn thân vào những chuyến đi nhiều khi khổ ải, dám trải mình qua một vùng không gian văn hóa và đầu tư công sức nhiều năm để cho ra một tác phẩm đủ sức chinh phục độc giả trên thế giới thì ở Việt Nam, điều đó là không tưởng.

Nhà văn có thể viết bằng trải nghiệm tự thân nhưng nếu thiếu sự va chạm thực tế và niềm đam mê bền bỉ thì khó có được một tác phẩm tạo dấu ấn đặc biệt.

___________________________________________________