Thứ Năm, 30 tháng 9, 2010

Huyền thoại một thời

Vương Trí Nhàn

Theo kiểu Hemingway

Cùng với sự phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng, sự tiếp nhận văn chương của con người thời nay so với người xưa có thêm những phương tiện mới: nếu muốn , họ có thể đồng thời vừa đọc sách một nhà văn, vừa biết rất rõ về nhà văn ấy. Con người tác giả không còn là một yếu tố trung tính và càng không được thông tin càng tốt. Ngược lại, con người tác giả cũng phải tham gia vào quá trình chinh phục bạn đọc. Ví như Hemingway chẳng hạn. Sinh thời, ông là một cá nhân được gần như cả xã hội để ý theo dõi. Những cá tính kỳ lạ của ông, khả năng cô độc, khả năng dai dẳng ngồi xem đấu bò, đi săn, đi câu giữa đại dương v.v… những cái đó được người ta săn tìm truyền tụng đồn thổi bàn tán, không kém gì tác phẩm của ông. Có người bảo rằng Hemingway không vô tư trong việc này. Dường như ông cố ý trình ra trước xã hội một con người nhà văn như ông muốn. Ông hiểu rằng những giai thoại kia giúp cho ông đến với độc giả thêm nhanh chóng, thuận lợi.
Khỏi phải nói, ai cũng biết việc tự giới thiệu như thế không phù hợp với thói quen của các nhà văn lẫn bạn đọc ở Việt Nam. Chúng ta thường bảo nhau rằng phương tiện tốt nhất và gần như duy nhất để nhà văn đến với bạn đọc là tác phẩm. Trong khi cuốn truyện, bài thơ làm việc, con người nhà văn càng không dây dưa vào đấy càng tốt.
Ấy thế nhưng trong Văn học Việt Nam hiện đại cũng đã có một nhà văn dựng tạo sự nghiệp của mình theo kiểu Hemingway nói trên. Trong khoảng gần năm chục năm cầm bút ông đã tạo nên quanh mình cả núi giai thoại, chính những giai thoại nửa thật nửa bịa đó là một chất dẫn truyền rất tốt để tác phẩm của ông có thêm cái lung linh mà người đọc phải cố tìm biết.

Nhà văn đó là Nguyễn Tuân.

Thích ứng theo hoàn cảnh

Theo một số nhà văn đương thời kể lại thì trước Cách mạng , ngay từ khi chưa viết Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã nổi tiếng trong giới làm văn làm báo như một người chơi ngông, tiêu tiền như rác, hết sức khinh bạc nói chung là có những cách ứng xử vượt lên mọi quy cách thông thường.
Không có gì lạ khi thấy trong văn xuôi, những khía cạnh đó của con người chàng Nguyễn vẫn được giữ nguyên, thậm chí được tô đậm lên ít chút. Nhà văn công khai lấy chuyện riêng của mình ra để viết. Đôi khi ông có đội cho nhân vật một cái tên họ khác đi thì cũng chỉ là một sự thay hình đổi lốt sơ sài, lộ liễu. Sự tò mò không bớt đi mà chỉ càng được khơi thêm mạnh mẽ. Đọc ông, trong tâm trí bạn đọc luôn luôn dậy lên những thắc mắc, không biết giữa ông với những Bạch, Nguyễn, những kẻ xưng tôi trong các tùy bút, có mối quan hệ như thế nào. Vậy là sự tiếp xúc của ông với bạn đọc đã hình thành. Nó làm cho người ta cứ phải nấn ná giữa các trang sách để từ đó, khi đã đọc Nguyễn Tuân một cách kỹ lưỡng, sẽ bắt gặp một con người nữa, con người tha thiết với đời mà cũng là con người nhân hậu, tự trọng, hết lòng cùng nghề nghiệp, biết gắn bó với vẻ đẹp trong truyền thống nghệ thuật của ông cha bằng một óc thẩm mỹ độc đáo. Cái tầng thứ hai này, cố nhiên, sẽ là lý do để người ta yêu thích ông lâu dài. Nhưng nếu không có cái tầng thứ nhất với cả những trò chơi trội độc đáo của chàng Nguyễn thì không chắc ngay từ đầu tác phẩm của ông có được sức cuốn hút như nó đã có. Xét về tác dụng, huyền thoại mà ông góp phần tạo ra không thừa, mà như nghề y cổ truyền, nó là một thứ thang để “dẫn” thuốc cho con người.
So với quãng đời trước Cách mạng, thì từ sau 1945, cuộc sống riêng của tác giả diễn ra theo một phương hướng khác hẳn. Cũng như tất cả các đồng nghiệp khác, nhà văn Nguyễn Tuân từ đó có thêm một tư cách mới: tư cách chiến sĩ. Con đường để ông đến với bạn đọc thường khi là con đường thẳng, không khuất khúc như xưa. Nhưng đó là trên đại thể. Nhìn kỹ thì thấy, cách tồn tại của Nguyễn Tuân trong văn học vẫn có chút gì khác thường và trong việc đưa tác phẩm của ông đến với bạn đọc, con người ông vẫn có một vai trò như không hề thấy ở các nhà văn cùng thời. Hãy chỉ nói tới một thời điểm rõ nhất: 20 năm cuối đời ông. Lúc này, tên tuổi Nguyễn Tuân vẫn được nhiều người truyền tụng. Đại khái, người ta hay rỉ tai nhau rằng đấy là một ngòi bút ngang bướng, sẵn sàng nói ra những câu chướng tai, thích tự do cá nhân. và giữa thời chiến mà còn khư khư giữ lấy nhiều nếp sinh hoạt cầu kỳ, xa lạ. Không chỉ những người trong giới văn chương mà cả những người thuộc các tầng lớp xã hội khác không liên quan lắm với văn chương, cũng biết về ông như vậy. Và người ta lại tìm đọc ông để vừa thưởng thức văn tài, vừa cảnh giác dò tìm những chỗ ngang ngạnh của ngòi bút. Thế là một lần nữa, Nguyễn Tuân lại “ghi điểm”. Xét trên một phương diện nào đó thì sự tò mò mà ông gợi ra (trong đó cái sai xen lẫn cái đúng) đã giúp rất nhiều vào việc phổ biến những bài ký viết về phi công Mỹ và nhiều loại đề tài khác mà Nguyễn Tuân cho in những năm cuối đời. Nhờ vậy, điều ông viết ra (tội ác và sự kém cỏi của địch, thế mạnh, thế tất thắng của ta) – những cái đó lại đến với người đọc sâu sắc hơn. Nếu không ngại dùng chữ huyền thoại thì có thể bảo là cho đến lúc nhắm mắt, Nguyễn Tuân luôn luôn tạo được huyền thoại về mình, huyền thoại ấy lần này giúp ông làm tròn sứ mệnh một chiến sĩ, một cán bộ viết văn mà ông đã tự nguyện mang tất cả tài năng và tâm huyết để thực hiện. Từ chỗ là một ngòi bút cô độc (như hai câu thơ cổ ông dùng làm đề từ cho bài ký Sông Đà: Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu – mọi con sông đều chảy ra biển đông, chỉ riêng sông Đà chảy ngược lên phía bắc), ông đã trở thành một nhà văn của mọi người như những câu được viết trong sổ tang ông ngày ông nằm xuống ba năm về trước.

Vang bóng một thời

Tìm hiểu cuộc đời Nguyễn Tuân chắc nhiều người không thể quên một chi tiết: ngay từ khi chưa đầy 30 tuổi, người tài tử ấy đã mấy phen ngồi uống rượu ngang ngửa với ông thần ngông Tản Đà. Vậy là sự già dặn đến với ông ngay từ lúc trẻ. Chắc chắn, sự già dặn ấy đã giúp ông có được cái định hướng độc đáo trong việc tổ chức đời sống của mình mà việc tạo huyền thoại, sống trong huyền thoại nói trên, là một ví dụ.
Nay thì cùng với Nguyễn, tất cả đã trở thành quá khứ. Trong khi những đứa con tinh thần thật sự của tác giả, những Một chuyến đi, Chiếc lư đồng mắt cua, Chùa đàn, Sông Đà, Chuyện nghề v.v… dần dần trở lại đúng các vị trí mà chúng phải có, thì những huyền thoại không còn giữ được vẻ thiêng liêng kỳ thú ngày nào. Đến với hiện tượng Nguyễn Tuân giờ đây, trong lòng không khỏi thoáng qua cảm tưởng thanh vắng y như đến chùa nhưng ngày hội đã hết, chỉ còn gác chuông, mái ngói và những pho tượng trầm tư. Ai người mau xúc động thấy thế lại còn muốn ngả sang vẻ ngậm ngùi nữa! Họ quên mất rằng khi đặt tên cho tác phẩm đầu tay của mình là Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã tự chứng tỏ ông là người có một quan niệm chắc chắn về thời gian: thời gian làm nên những giới hạn cho mỗi đời người, song những ai sống hết lòng với cái thời của mình, người đó coi như đã tìm được cách để đến với vĩnh viễn.

________________________________________

Cuộc hẹn hò với bóng tối (1)

Truyện ngắn của Tomasz Jastrun (Ba Lan)


Tin nhắn gõ vào tim nàng ở thời gian và địa điểm bất ngờ – “Anh đang đứng ngoài ngã tư và đang đợi phép màu. Hãy cho anh tín hiệu, rằng có em. Piotr”.
Nàng đang ở trong rừng, nhưng không phải một mình, đang ngắm đôi chim sẻ (sẻ passerformes) tỏ tình với nhau. Loài chim này rất thích làm dáng... Nàng có quen biết một anh Piotr nào đó hay không nhỉ? Tạm thời nàng không có thời gian để nghĩ đến chuyện này. Con trống bay tới, sà vào con mái, con mái có vẻ không chịu, con trống ngậm trong mỏ mẩu lá cỏ và hạt thóc, rốt cuộc con mái chịu để cho con trống mớm mồi… Sắp đến đoạn kết hấp dẫn của cuộc tỏ tình, nhưng nàng bị cụt hứng… Đôi chim sẻ vụt bay đi…
Bực mình và thất vọng vì không được chiêm ngưỡng kết cục cuộc tình của đôi chim, nàng quay trở lại với tin nhắn, đọc kỹ hơn và bây giờ nàng mới thấy những dòng chữ này quả là bí hiểm.
Chỉ có một Piotr duy nhất nàng từng quen mà thôi, nhưng anh đã qua đời rồi. Nàng tin rằng thỉnh thoảng vẫn có những tin nhắn ngắn gửi tới từ cõi âm, chỉ có điều anh ta đã chết trước khi mạng điện thoại di động phủ trùm thế giới.
Nàng đi về bằng xe ô tô, nàng ước ao mình là con chim sẻ, sẻ thông họng vàng, một trong những loài chim sẻ ngủ đêm trên không trung. Nàng mê chim chóc từ hồi còn nhỏ. Cách đây một năm, trong ống nhòm tình cờ nàng chộp được một đôi trung niên… nhưng đó là đôi người. Họ say sưa ân ái với nhau trên bãi cỏ trụi, chàng ôm nàng từ phía sau, cắn vào cổ nàng, mông chàng chuyển động nhịp nhàng như những con sóng trắng đang cuồn cuộn dâng bằng sức mạnh bí hiểm của trời đất. Có lần trong phim thế giới động vật nàng đã nhìn thấy đôi sư tử đang giao phối, con đực trụi lông nom giống hệt người đàn ông này và nó cũng cắn vào cổ con cái. Trong bức tranh người và không phải người này, thứ kích thích nàng mạnh nhất chính là sự hài hòa của cái xấu, cái đã được biểu đạt và nàng cho là đẹp tuyệt vời. Càng ngày nàng càng hay mường tượng hình ảnh những người già, họ ân ái với nhau một cách nhọc nhằn, bất lực, nhưng vẫn khát thèm xác thịt của nhau, có khi chỉ còn là trong trí tưởng tượng thôi chăng? Mình bị rối loạn tính dục hay sao nhỉ - nàng nghĩ - không, mình hoàn toàn bình thường, không hề có mớ bòng bong này trong người mình, vô tư đi.
Thiên hạ biết gì về con người nào? – chẳng bao lăm, về chim chóc – hầu như số không! Liệu có phải là phép màu khi đàn chim sẻ thông họng vàng ngủ lúc chúng đang bay cao hơn hành lang dành cho máy bay hành khách? Chim sẻ vừa ngủ, vừa lượn vòng trên tầng bình lưu, chúng không thể đậu trên cành cây vì chân chúng bị thoái hóa. Liệu mình có phải là một con chim sẻ như vậy hay không nhỉ? Nàng nghĩ – lúc nào mình cũng bay… hễ ngồi là mình chết.
Tại nhà nàng, trời đã về khuya. Nàng đọc lại tin nhắn một lần nữa. Nàng đăm chiêu và ấn phím điện thoại di động: “Em đang ở trên ngã tư, nhưng em không còn tin vào phép màu nào khác ngoài phép màu: tồn tại, bất chấp tất cả”.
Nàng tắt máy. Nàng đặt lưng xuống giường và ngủ thiếp trong khi bay. Nàng ăn sáng, liếc mắt nhìn bản tin của đài BBC. Lại một loạt cuộc khủng bố ở Jerozolima. Nếu bom không nổ, thì một trò ngu xuẩn nào đó - nàng nghĩ, khi ở chương trình khác nàng thấy đang quảng cáo bia. Nàng bật điện thoại di động. Nàng có tin nhắn – “Ngã tư của anh thẳng băng rồi, anh đã đến trước mặt em, anh đang đi, nhưng không nhìn thấy Em đâu cả. Piotr”.
Nàng mỉm cười rồi viết: “Em đang mặc áo ngủ, trong suốt đến nỗi chẳng ai nhìn thấy em. Em nhìn vào gương và không có em”.
Nàng đợi chàng hồi âm, nàng xúc động khi có trả lời, nàng đọc: “Rốt cuộc anh đã biết, tại sao anh không nhìn thấy Em, mặc dầu anh cảm nhận là có em?”
Nàng suy ngẫm, anh ta bao nhiêu tuổi nhỉ? Nếu anh ta viết hoa chữ “Em”, thì anh ta không thể quá trẻ, đúng vậy không nào? Cái đẹp vợi dần khi ta sắp sang tuổi mới. Nàng viết chậm, suy ngẫm – “Em cũng đang cảm nhận là có anh. Thậm chí em đang cảm nhận mọi lứa tuổi của Anh, hai mươi mốt tuổi, chúng được đặt chồng lên nhau, tuổi nọ trên tuổi kia”.
Câu trả lời đến ngay lập tức: “Sao em lại biết anh ngần ấy tuổi, hả em?”
Sau đó chàng viết, bảo rằng tuy vậy nàng đã nhầm mất một tuổi, nói chính xác, chưa đầy một tuổi. Họ im lặng cho đến bữa ăn trưa. Nàng bắt đầu sợ là chàng sẽ hỏi tuổi nàng. Nàng quyết định sẽ viết đúng sự thật. Nàng cố mường tượng hình ảnh của chàng. Nàng thích đàn ông trẻ trung, người dong dỏng cao.
Một tuần trôi qua, chàng gan lì, quyết không thèm hỏi tuổi nàng. Họ đã đi xa đến nỗi, trong sự quen thân có cánh của mình, nàng thấy sợ khi phát hiện ra rằng nàng không có gan viết đúng sự thật. Liệu chàng có chân tình với nàng hay không nhỉ? Đêm hôm đó nàng thấy mừng khi nghĩ về chàng. Nàng am hiểu về chàng ít đến nỗi, chẳng cần nhọc công, chàng có tất cả mọi ưu điểm của những người đàn ông mà nàng quen biết. Tuy nhiên, không một người đàn ông nào mang lại cho nàng khoái cảm bằng khoái cảm do chính bàn tay tài ba của nàng mang lại. Khi người đàn bà dùng ngón tay kích thích mình thì mô các ngón tay có phát sáng hay không nhỉ? Nàng nhìn đèn tín hiệu trên phố, mỉm cười với trí tưởng tượng của mình.
Thi thoảng nàng muốn gọi điện cho chàng, để được nghe giọng nói của chàng, nhưng nàng không đủ can đảm. Hình như giọng nàng dễ thương thì phải? Nàng thấy sợ khi phát hiện ra rằng, nàng bị lệ thuộc mất rồi – thời gian không nhận được tin nhắn của chàng là thời gian vô tích sự. Đôi khi nàng muốn bộc lộ sự thật, tuy nhiên lòng nàng thót lại khi trong ý nghĩ xuất hiện câu: “Em năm mươi hai tuổi, em đã hết kinh nguyệt, em đã qua giai đoạn này một cách nhẹ nhàng… Thế nhưng cái tuổi chết tiệt này của em… lại có những ưu điểm; em sẽ không bao giờ có mang nữa, tính em không còn đỏng đảnh, em là người tình tuyệt vời”. Nàng đã viết được ba chữ, nhưng hoảng sợ, nàng xóa luôn.
Nàng xin công ty nghỉ phép một tuần. Và mặc dù nàng biết, làm vậy là ngu, vì chẳng có phép màu mỹ viện nào cả, nhưng nàng vẫn cứ đến một mỹ viện đầu bảng ở Warszawa, nàng ở đó tới nửa ngày. Nàng ngạc nhiên khi thấy mát xa mặt rất dễ chịu. Nàng cảm thấy hình như nàng là một di tích đang được phục chế. Sau đó nàng mua một số loại kem đắt tiền. Nàng giảm ăn, không bao giờ nàng có vấn đề với chuyện thừa cân, tuy nhiên gần đây nàng bị béo ra chút ít, nàng phải giảm bớt ba kilô. Nàng mua vé đến phòng tập thể hình ở gần nhà. Ở đó nàng ái ngại khi nhận ra nàng là người nhiều tuổi nhất trong số những người đàn bà đến tập. Một cô gái đứng trên dụng cụ thể thao, đang luyện cơ đùi, cô nàng xấu hổ khi phải dang rộng hai chân, bèn lấy tay che một cách vụng về… sau đó bất thình lình cô gái đan các ngón tay rồi đưa lên che ngực, giạng háng, bất cần. Có khi như vậy đấy – nàng nghĩ.
Buổi tối họ lại tiếp tục nhắn tin cho nhau, chuyện trò.
“Anh đã làm cái đó rồi” - chàng viết.
“Em đã làm cái đó rồi” - nàng đáp, gõ phím chữ bằng ngón tay rụt rè. Nàng run sau khi đạt cực cảm, thế giới muôn hồng ngàn tía hơn bình thường. Tối hôm đó nàng lại ước mơ, những ước mơ xưa, từ hồi trẻ tuổi, lại đến với nàng – nàng tưởng tượng nàng là người chim.
Nàng lại xin nghỉ phép thêm một tuần nữa. Lần này là do sáng kiến của chàng – họ sẽ gặp nhau trong đêm, ở một khách sạn tại địa điểm nằm giữa con đường nối hai thành phố của họ.
Đây phải là một khách sạn hạng sang. Họ sẽ không bật đèn khi ân ái. Thoạt tiên phải dùng tay và mặt để cảm nhận mùi vị. Họ buông nhau ra như những kẻ mù quáng, mãi mãi mang theo mình mùi vị này. Làm sao chàng biết được những ý nghĩ thầm kín của nàng, nàng đã mường tượng cuộc gặp của hai người nó sẽ như vậy đó? Nàng không đồng ý nếu bảo rằng chàng đã đọc được những điều nàng mơ ước.
Nàng biến mất tăm nửa ngày trời, thậm chí tắt điện thoại, nàng sợ bất thình lình chàng thay đổi các nguyên tắc tỏ tình của họ - chàng sẽ gọi điện để hành hạ nàng bằng tiếng nói của chàng, làm nàng đau khổ và làm tái phát vết thương cũ của nàng. Vụ ly dị với chồng đã đẩy nàng xuống hố thất vọng, nàng đau khổ nửa năm trời, phải uống thuốc an thần. Sau cuộc đụng đầu với kẻ thù lớn nhất của mỗi người, và với chính bản thân, giờ đây nàng có được sự an bình tương đối. Nghe tiếng chim hót bên ngoài, nàng nhảy cẫng lên, lao ra phía cửa sổ. Giọng hót du dương, mơ mộng, nghe như tiếng sáo. Có phải chim hoàng anh không nhỉ? Nàng không thể nhìn thấy con chim đậu trên cây lipa(1) cành lá xum xuê bên ngoài cửa sổ, nàng nhớ, khi cây này còn nhỏ, bỗng nhiên trong chiếc lá xanh nàng thấy có một chiếc lông vàng và nghe tiếng vỗ cánh. Đó là chim hoàng anh (Oriolus oriolus), lưng vàng, cánh đen, mỏ đỏ. Hiếm khi thấy, con chim lao thẳng vào mắt nàng. Đó là điềm lành!
Nàng bật điện thoại. Nàng thấy lạ khi tim nàng đập thình thịch. Chiếc máy im lặng hồi lâu để rồi đột nhiên phát tín hiệu mấy lần liền. Có năm tin nhắn gửi đến! Chàng đã sợ khi nghĩ rằng, nàng bị tai nạn. Nàng cảm nhận, dòng tình cảm của chàng đang tuôn chảy vào tim nàng. Nàng hồi âm, nhiệt thành và chân thành, chân thành đến nhẹ dạ. Nàng định giữ lại, chưa gửi cái tin nhắn cuối cùng này, nhưng đã quá muộn. Nó vụt bay khỏi tay nàng, nhanh như con én. Nàng đã đồng ý gặp chàng.

Lê Bá Thự dịch
(còn nữa)
____________________
1. Cây đoạn (tên khoa học: Tilia), là chi của khoảng 30 loài cây thân gỗ. Trên các đường phố và công viên ở thủ đô Warszawa và nhiều thành phố khác ở Ba Lan, lipa là cây cổ thụ khá phổ biến, lá hình trái tim. Hoa lipa vàng hoặc trắng, ngát thơm vào buổi tối, như hoa sữa, thường nở vào tháng bảy, cho nên người Ba Lan còn gọi là “hoa tháng bảy” (ND).

Thứ Tư, 29 tháng 9, 2010

KIẾM SẮC VÀ HOA ĐÀO

Truyện ngắn của Uông Triều

Năm 34 Công nguyên, vua Quang Vũ nhà Hán sai Tô Định sang làm thái thú quận Giao Chỉ. Tô Định là người bạo ngược, chính trị tàn ác, người Giao Chỉ đã có lòng oán giận lắm.

Lê Chân người làng An Biên, huyện Đông Triều. Làng An Biên nằm kề sông Kinh Thầy, sông Đạm Thủy, lưng tựa vào núi Vàn.
Bến nước sông Đạm Thủy là nơi trai gái trong làng đi kín nước, hẹn hò. Mùa xuân, những chum nước mang từ sông về sóng sánh hoa đào, con gái làng An Biên rắc hoa đào dọc lối đi trong vườn.
Hoa đào trước sân nhà, hoa đào cheo leo sườn núi, gió đông lay lắc, hoa đào rụng, cánh hoa trải kín vườn, không thấy mặt cỏ xanh bên dưới.
Lê Chân đưa một vốc hoa đào trên tay thả xuống chậu nước.
- Chưa đến ngày tết, hoa đào đã tràn khắp mặt đất. Trời chuyển ấm mau, không biết có giữ nổi hoa trên cành.
Đêm trăng.
Lê Chân múa kiếm trong vườn. Bóng áo trắng lướt dưới tán đào, hoa rụng như mưa. Kiếm vun vút, loang loáng. Trên cao đốc xuống, xiên ngang lốc gió, nghiêng người, uốn thân, rạp thấp, kiếm sáng bao tứ phía. Gió cuốn, lá non bay nát, một đường lỡ tay, lưỡi kiếm bập vào thân đào lưu niên, thân cây rung bần bật, hoa rơi tơi tả. Máu tứa trên cánh tay trần.
Tiếng cha.
Kiếm nhanh như gió nhưng không động cành, mũi dao nhọn sắc nhưng lặng như nước trong hồ. Kẻ dùng kiếm nhưng không vị kiếm.
Bóng người con gái phi lướt trong vườn, mũi kiếm bay lướt, xoay tròn, nghiêng ngả, xoáy ốc không chạm một cánh hoa đào. Vệt máu tươi thít chặt bằng một dải lụa trắng.
Kiếm bay lên, đốc xuống, quay vòng múa tít. Kiếm bao thân mình, áo người con gái phất phơ tung dạt theo lướt kiếm. Độc kiếm vô hình, bài kiếm thầy Chiêu Độ làng Ngũ Tế truyền dạy.
Kiếm giấu trong vườn đào.
Hoa đào là máu.
Làng An Biên chìm trong ánh trăng mờ, vài hôm nữa mới đến hội mùa xuân, những mái nhà tối sẫm xếp lớp ven đồi. Bờ sông vắng lặng thin thít. Không một tiếng chim kêu thất thanh trong đêm, gió hun hút táp gốc rạ hơi nồng.
Thầy đồ Lê Đạo quỳ trước bàn thờ, giọng khản đặc.
- Chỉ dăm hôm nữa là tết, cầu cho hoa giữ nguyên trên cành, đêm trừ tịch không thấy hoa đào nở, e rằng có chuyện chẳng lành, tiết xuân cũng chẳng còn nữa.
Hoa trong vườn run rẩy.
Lê Chân mang cành đào ngoài vườn vào, hoa đào run mờ dưới ánh trăng. Búp hồng e hé chờ ngày khai mãn.
- Hoa đào ngày tết không thể thiếu được, sau này người có mất mát, trời lẽ thất thường hãy cố giữ lấy cành đào dịp xuân tiết.
Lê Chân cung kính cúi đầu.
Dưới bến Kinh Thầy, một con thuyền xoay ngang, cây sào cắm trần xuống đáy. Chàng trai lưng trần, tay cầm dải lụa chàm. Mặt sông phẳng lặng, củi khô chạm ván thuyền, triền hoa lau, cỏ muội dạt dạt hai bờ sông. Giờ này không ai ra bến sông kín nước nữa, người đã hẹn nhưng chưa thấy. Dải lụa chàm mua ngoài chợ Cột...
Ánh trăng mờ soi đọng trên bát nước tròng trành đặt giữa sạp thuyền. Ánh trăng lặng cả thuyền. Mắt ta nhìn trong đó, chưa thấy mắt người. Chàng trai chít dải lụa trên tóc, quay mặt về làng An Biên, dò cây sào xuống đáy sông. Tiếng hát mang gió táp bờ sông.

Ta đợi người trên miền sông thẳm
Mặt sông vàng ta chạm tới đáy đen
Nước bể tràn cành khô hoang mục
Thuyền rời nguồn ván vỡ thành bưng
Mây đương mải trôi vào ánh bạc
Mặt đất bằng sông chẳng lặng về đêm
Cá chép vọt trên mũi thuyền vô vọng
Trăng tràn thuyền sào cắm rùng chân


Trong vườn bóng kiếm vẫn loang loáng, nhễ nhại.
Không có người con gái nào ra bến sông như đã hẹn.
Chàng trai cầm sào đâm nát dòng sông.
Gió bấc thổi mạnh. Rét buốt.
Hoa đào không giữ được đến ngày cuối. Người con gái xinh đẹp nức tiếng làng An Biên đã đến tai thái thú quận Giao Chỉ.
Tô Định cao bốn thước rưỡi, râu quặp
Mắt đỏ ngầu, tiếng như ngựa thiến.
Đoàn binh đi đón tì thiếp, vó ngựa tung bụi đất đỏ, hoa đào giẫm đạp, giầy nát dưới chân.
Ông đồ mắt trợn trừng trừng.
Vó ngựa tung hoành, máu đỏ nhuộm sắc đào, thẫm hơn vừng đông sắp tắt.
Ông đồ ném bầu rượu xuống giữa nhà.
Từng thân đào chém đứt, đổ gục.
Người con gái tài sắc dưới chân núi Vàn cự tuyệt không làm tì thiếp thái thú quận Giao Chỉ. Máu phun đỏ nhà.
Tiếng cha mẹ kêu than đến xé lòng, đôi mắt cha mở trừng trừng, đôi mắt không bao giờ nhắm được nữa. Hoa đào xéo nát. Kiếm rút. Bàn tay người con gái nắm chặt lưỡi kiếm, kiếm tuốt một đường giữa lòng bàn tay. Mím môi. Tiếng cha. Kiếm nhanh như gió nhưng không động cành, mũi dao nhọn sắc nhưng lặng như nước trong hồ.
Lê Chân chạy ra bến Kinh Thầy. Dòng sông u uất lạnh buốt như sông Dịch Thủy. Người quay đầu nhìn lại.
Những mái nhà tối sẫm xếp lớp ven đồi, bờ sông vắng lặng thin thít. Tiếng chim kêu thất thanh trong đêm.
Bến Kinh Thầy.
Con thuyền xoay ngang, cây sào cắm trần xuống đáy, chàng trai tung dải lụa chàm: buộc cho tóc khỏi rối khi múa kiếm.
- Cho tôi đi khỏi nơi này.
- Đi đâu?
- Cứ dọc theo sông, thấy đâu dừng lại được thì dừng.
Chàng trai gồng mình, tay trần khua mái chèo, không một kẻ nào có thể theo kịp. Mắt người con gái lạnh như nước ở đáy sông. Hoa đào tan tác, kiếm sắc vẫn chưa dùng.
Thuyền qua một vùng lau lách, kín lặng.
- Đây là chỗ dừng thuyền.
***
Năm 40, Tô Định sát hại Thi Sách, chồng của Trưng Trắc. Hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị nổi binh ở Hát Môn. Nghĩa quân khắp nơi nhất tề ứng nghĩa.
Vùng đất mới lau lách Lê Chân đặt tên theo quê cũ An Biên.
Sông Tam Bạc, sông Cấm cũng giống sông Đạm Thủy, sông Kinh Thầy.
Con trai con gái làng An Biên, An Dương luyện tập võ binh, đánh thủy trận, cày cấy, đánh cá.
Nữ tướng vùng An Biên.
Nghĩa sĩ hợp quân về vùng cửa sông. Ba anh em họ Trương ở Thiểm Khê, ba anh em họ Tạ ở Trình Xuyên, Đào Lang ở Cương Nha, Nguyễn Minh ở Tiên Đôi, Đào Quang ở Cự Đôi, Phạm Đầm ở Tam Đa, Lê Ngà tài sắc làm phó tướng.
Tiếng quân hô như sấm, gươm tua tủa dưới trăng.
Chàng trai lái đò trên bến Kinh Thầy thành đô tướng, huấn luyện thủy quân.
Những đêm trăng sáng. Nước loang loáng, kiếm loang loáng.
Gió hun hút ngày giáp tết.
Đôi mắt dõi xa.
- Nữ tướng nhớ về vùng đất cũ?
- Cha mẹ của ta, hoa đào.
- Đêm dưới bến Kinh Thầy người không tới, đáy sông đâm nát bấy.
- Khoan nhắc đến chuyện đó. Kiếm vẫn chưa dùng, bàn tay ta còn nguyên vết tuốt sắc.
Đô tướng xô mình xuống sông, múa kiếm dưới nước.
- Ta sẽ là con cá kình cho nữ tướng, máu phun hồng ngày khai kiếm.
- Cha bảo rằng kẻ dùng kiếm nhưng không vị kiếm. Hãy ngụp lặn tới tận đáy đen của dòng sông để biết nước sông lạnh thế nào.
Giữa vùng lau lách.
Quân luyện trên đầm nước, thủy quân tứ bề táp tới, gươm giáo tua tủa, nữ tướng múa bài độc kiếm vô hình. Kiếm loang loáng như gió, mặt người lặng như không. Núi phía xa là vùng An Biên xanh thẫm, ta đã giấu kiếm trong vườn đào.
Hát Môn nổi sóng.
Lê Chân đưa quân về xứ Đoài tụ nghĩa dưới lá cờ Trưng Thị.
Quân đua chiến, kiếm sắc tuốt, thành trì giặc rơi rụng. Nghĩa dân các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố nhất tề vùng dậy.
Chiến trận.
Nữ binh làm tướng.
Những chuyện chưa từng thấy bao giờ.
Thôn nữ mảnh mai thành nữ sĩ quyết tử. Lê Chân từ vùng An Biên, Bát Nàn từ Tiên La, Thiều Hoa từ Tổng Khai, Xuân Nương từ Hương Nha, Thánh Thiên từ Bích Uyển hợp sức cùng nghĩa sĩ bốn phương dưới lá cờ Trưng Thị quyết chiến.
Trận chiến không dứt, đô tướng thủy quân trỏ gươm lên trời than thở.
- Binh lửa xông pha có sợ làm tổn danh sắc.
Người con gái thít dải lụa chàm trên tóc, đăm đăm nhìn về đông.
- Cha mẹ ta rơi đầu vì giặc, vườn đào nhà ta bị xéo nát, danh sắc vội chưa nghĩ đến.
Tì tướng đưa gươm lên ngang mày.
- Thân nhục này cũng không nghĩ đến, xin tuốt một đường ghi nhớ.
Gươm tuốt một đường trong bàn tay. Mặt người không biến sắc. Ngày khải hoàn có gươm sắc tế trời.
Trận chiến tơi bời
Người Giao Chỉ, người Cửu Chân, người Nhật Nam, người Hợp Phố chân bấm chặt xuống đất cho khỏi trơn ngã, tay đan vào nhau cho khỏi đứt quãng. Liềm, cuốc, dao thành khí giới, bao nhiêu kiếp ngày u tối, vùng dậy khắp nơi.
Quân xông pha không nao núng. Thủy quân bộ quân hợp đánh, chị em Trưng Thị oai phong ngồi bành voi đốc chiến.
- Đàn bà xứ Giao Chỉ không chỉ là tì thiếp.
Lê Chân mím môi, ngồi trên mình ngựa, bụi đỏ, máu quân thù dính mặt người, dải lụa chàm quấn trên đầu, kiếm vun vút, lặng thinh.
Kiếm nhanh như gió nhưng không động cành, mũi dao nhọn sắc nhưng lặng như nước trong hồ.
Nữ tướng bặm gần nát môi, kiếm chém tới. Đô tướng hộ chiến, mắt tràn căm giận, bờ vai trúng tên giặc, máu tràn vai áo. Lê Chân vung kiếm cắt một đường tay áo quấn thương cho tì tướng.
Nghĩa dân đồng loạt ứng chiến, kẻ giặc không đủ sức chống chọi. Máu quân thù chảy tràn khắp nơi, dòng sông ta vượt qua giống hệt sông Kinh Thầy, sông Đạm Thủy. Đâu là bến nước xếp đá xanh một lượt làm nơi rửa chân, kín nước cho thôn nữ. Ta tha hồ rắc hoa đào.
Giặc nguy khốn, đường nào thoát chạy.
Quân vây khắp nơi.
Mặt người lam khói, mắt thiêu sáng.
Đàn bà làm soái tướng.
Năm 40. Ngày mười lăm tháng tám, 65 thành trì đã quét sạch lũ cai trị. Thái thú Tô Định vứt ấn tín, cạo râu, giả làm dân thường trốn về Nam Hải.
Chiến thắng gầm đất trời. Đất Giao Chỉ có vương nữ đầu tiên, trăm họ suy tôn Trưng Trắc là vua, đóng đô ở đất Mê Linh.
Nữ tướng vùng An Biên được tấn phong là Thánh Chân công chúa, trọng trách Chưởng quản binh quyền, thống lĩnh binh lực, kiêm trấn thủ cùng biển Đông Bắc.
Dân khắp xứ tưng bừng ngày xuân tiết.
Thay lại trang phục cho đúng với phong tục dân Giao Chỉ.
Tóc dài.
Răng đen.
Bánh chưng.
Bánh dày.
Hoa đào rét sớm không ra kịp nhưng nhớ lời cha dù không được cũng chọn lấy cành lộc đào làm vị tết.
Thân đào quật nát ở An Biên chờ ngày dựng lại, nở hoa.
Vùng đất mới An Biên ngã ba sông Tam Bạc, sông Cấm dân quây quần no ấm.
Nữ tướng lo phòng bị trấn ải vùng Hải Tần, dạy dân võ nghệ, cày cấy.
Nghe trống thúc dưới cờ, đô tướng mắt long lanh.
- Bến sông Kinh Thầy bữa trước người còn nhớ hẹn cũ, nay đất đã về ta.
Người cầm dải lụa chàm, gọi đưa đến một cành lộc đào tươi biếc.
- Chuyện ngày trước còn ghi khắc, dải lụa chàm còn đây nhưng giặc vừa tan, cần phòng bị thêm nữa. Khi nào yên ổn muôn phần mới tính chuyện khác được. Cành lộc đào xin làm ghi nhớ.
Đánh vật. Đua thuyền. Múa kiếm. Bắn cung. Làm tướng phải khắc ghi, phương bắc còn chưa từ tâm huyệt.
Nhưng tiết xuân đã đến, ta cứ hát bài ca hưởng thái bình vui vầy.
Hoa đào nở trên những lối đi
Chim không hát đâu phải chim sơn tước
Bến quây quần cá xếp dưới khoang
Mưa phun rắc cô đào bưng rượu
Mặt xuân hồng kiếm giắt sau lưng

***
Năm 42, vua Hán sai Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, Lưu Long làm phó tướng, Lâu thuyền là Đoàn Chí sang đánh Trưng Vương.
Quân Mã Viện vây đánh khắp nơi, những chiến binh Giao Chỉ mới quen cầm giáo không đủ sức giao chiến với quân thù.
Trưng Vương đưa quân về vùng Lãng Bạc tử chiến.
Cánh quân Lê Chân tiến về Lạt Sơn. Nhất quyết không để chịu bắt. Ta sẽ kháng cự đến cùng.
Quân mã chạy túa, những binh sĩ, anh em, họ hàng của ta, hãy luồn rừng thoát vây trở về đất cũ, chờ thời mới.
Tì tướng mặt lưu vết khói, máu khô đọng trên vai, chìa tay ra, vết kiếm tuốt nổi trên bàn tay.
- Ngươi hãy trở về quê cũ, trời định rồi, sức ta không thắng được.
- Hôm đợi dưới bến Kinh Thầy lòng ta đã quyết. Người không đến ta đâm nát dòng sông. Ta quyết cùng người tử chiến nơi đây.
Vòng vây hẹp dần.
Tiếng thét. Kẻ ngồi trên lưng ngựa, nét thanh tú kia chính là nữ chủ tướng, bắt sống lấy.
Quân xông ra bảo vệ nữ chúa. Gươm múa tơi bời, độc kiếm vô hình. Đầu giặc rụng tơi bời.
Tên bắn tua tủa. Người lao ra như mưa. Trong đám tên mưa hỗn loạn. Người tì tướng vững chãi như thành đồng lao ra tử chiến, vai trần xăm những hình quái sông, thuồng luồng. Tì tướng xuất thân người lái đò trên sông Kinh Thầy.
Quân giặc bu vào chỗ ấy, gươm vung loang loáng, người chặt trên xả dưới, kiếm vung túi bụi, đám giặc xông vào, dội ra. Bóng lưng trần tả xông hữu đột, mở đường máu, không cho giặc chạm tới chủ tướng.
Vòng vây co cụm, giáo giặc đan lại một vòng, tất thảy mũi nhọn chĩa vào. Tiếng gươm lạnh buốt, tổ kiến lửa bu vào con mồi, bung ra, vỡ ra, mở rầm rĩ, náo loạn.
- Xin chủ nhân đừng để giặc chạm đến, tôi quyết chết vì người.
Tiếng kêu xé họng nhỏ dần, máu phun khắp nơi, giáo giặc chõ lại như xiên vào tổ ong. Tiếng thét cuối cùng trước khi vĩnh biệt. Ta không bao giờ nhìn thấy nàng nữa rồi, chưa nhận được một lời âu yếm từ người con gái làng An Biên. Mũi giáo lạnh buốt thấu gan ruột.
Lê Chân rạp trên mình ngựa thoát khỏi vòng vây, khắc cuối cùng thấy ánh mắt âu yếm của chàng lái đò trên sông Kinh Thầy. Người thúc ngựa, không nhìn về phía sau nữa.
Ngựa phi như bay, nhằm thẳng đỉnh Giáp Dâu hướng tới. Giống như núi Vàn quê ta. Ta sẽ tiến đến đó, quyết không để cho giặc chạm vào thân thể.
Người đã lên được đỉnh Giáp Dâu, tầm mắt mở ra bốn phía, non cao đẹp, hoa đào núi nở sớm, đâu là nơi cha mẹ ta an nghỉ, bản quán ta. Tiết xuân về hoa rắc hồng mặt cỏ, ta múa gươm trong vườn, nhất quyết không động đến từng cánh hoa đào. Thiếu thời của ta, gió thông thốc. Cha mẹ ta táng ở lưng đồi, bao tướng sĩ đã vì non sông ngã xuống. Trưng Vương giữ khí tiết trẫm mình ở dòng Hát Giang, chàng lái đò đã quên mình giải vây cho ta. Xin vái ba lạy tạ tội mẹ cha, tiễn thương tướng sĩ.
Từ đỉnh Giáp Dâu, Lê Chân thúc ngựa phi xuống như gió, nàng không nhìn cây cỏ chắn đường. Trước mắt nàng là sông Đạm Thủy hiền hòa, sông Kinh Thầy uốn lượn. Rừng cây phía dưới là đồi hoa đào bát ngát, lá quăn rụng gần hết, độc màu hồng tươi rói.
Màu hồng của hoa đào vườn nhà ta. Xuân ấm sớm, hoa có giữ được trên cành. Mái nhà đằng xa là bản quán nhà ta, có ai còn nghĩ đến, bao đêm trăng ta vui thú dưới vườn đào.
Ngựa phi xuống, quỵ dần. Nước mắt ngựa chiến nhỏ xuống, chân gãy nát, ngựa không rướn thêm được nữa, trước mặt nàng một khoảng nhạt nhòa. Nhân ảnh dưới kia là mẹ cha đang đón ta, vườn đào.
Nàng lao xuống thân ngựa, không gì cản được nữa, không sợ hãi, luyến tiếc, không thành thân thì thành nhân. Tất cả bao quanh một sắc hồng thắm, ta trở về với hoa đào, ta buông xuống đây.
Người tuốt kiếm phi lên trời.
Kiếm nhanh như gió nhưng không động cành, mũi dao nhọn sắc nhưng lặng như nước trong hồ. Kẻ dùng kiếm nhưng không vị kiếm.
Ta dùng kiếm vị bản quán ta, cha mẹ ta, hoa đào.
Nàng thả mình, nhẹ dần. Không có gì hết, ta sẽ tan vào cỏ cây, hoa lá, ta về với đất mẹ yên bình. Người có mất mát, trời lẽ thất thường hãy cố giữ lấy cành đào ngày xuân tiết.
Lê Chân tuẫn tiết trên đỉnh Giáp Dâu.
Những thân đào giập nát vùng đồi An Biên cũng nảy lộc nhú búp màu hồng.
Dân làng An Biên xây đền thờ trên núi Vàn, tôn nữ tướng làm thành hoàng làng. Đền một năm có ba ngày hội. Mồng tám tháng hai vào ngày sinh, mười lăm tháng tám giỗ trận, hai lăm tháng chạp nữ tướng tuẫn tiết trên đỉnh Giáp Dâu.
Trời buông rét, chỉ vài hôm nữa là tết, hoa đào chờ ngày mãn khai hồng rộ khắp nơi. Bóng một thiếu nữ đi nhặt hoa trong vườn đào niên dưới chân núi Vàn.

___________________________________________________________

Sáng tác trẻ - Những bước đi lạ

TƯỜNG VY


Sau một thời gian bị chê bai là không thoát ra được lối mòn sáng tác với những tác phẩm dạng tâm lý xã hội, gần đây các sáng tác văn học trẻ bắt đầu mày mò tìm cho mình những hướng đi mới. Nhiều tác phẩm khá lạ của những cây bút trẻ đã xuất hiện và ít nhiều đem đến cho bạn đọc trong nước một chút mới mẻ trong văn học Việt Nam hiện nay.

Từ huyền ảo đến triết học

Cách đây đúng một năm, Phan Hồn Nhiên, nhà văn trẻ nổi tiếng với những tác phẩm về việc lập nghiệp, tình yêu và cuộc sống của các bạn trẻ trong xã hội hôm nay, bỗng gây bất ngờ với một tác phẩm hoàn toàn khác lạ nhan đề Những đôi mắt lạnh.
Ngay khi xuất hiện, tác phẩm này đã gây ngạc nhiên, một phần vì sự tham gia vào trào lưu sáng tác truyện huyền ảo (fantasy) đang trở lại, phần khác chính là ở cách thể hiện tranh minh họa đầy ấn tượng theo phong cách hiện đại. Sự thành công của tác phẩm này là một điều bất ngờ, vì như chính tác giả nhận xét, tác phẩm vốn chỉ là một thể nghiệm trong lúc nghỉ ngơi sau các sáng tác quen thuộc.

Thừa thắng xông lên, giữa năm 2010, Phan Hồn Nhiên lại tiếp tục cho ra mắt một tác phẩm huyền ảo khác với nhan đề Chuỗi hạt Azoth, phần thể hiện hình ảnh vẫn do Phan Vũ Linh thực hiện. Lần này, vẫn với cốt truyện pha lẫn giữa thế giới hiện thực và thế giới huyền bí, nhưng cả Hồn Nhiên và Vũ Linh đều đã thể hiện sự “lên tay” của mình. Sự lên tay này được thể hiện rõ nhất qua sự gắn kết hoàn chỉnh hơn giữa các bức tranh và nội dung văn học.
Nếu ở Những đôi mắt lạnh, các bức tranh chỉ mới chớm vượt qua mức minh họa để góp một phần trực tiếp vào nội dung tác phẩm tạo ấn tượng với người đọc, thì đến Chuỗi hạt Azoth, tranh đã trở thành một phần của truyện, các miêu tả của nhà văn được giảm bớt ngôn từ vì đã có hình ảnh ấn tượng đi kèm. Không những thế, có nhiều đoạn miêu tả nội tâm giống như trong điện ảnh, hình ảnh đã góp sức thêm cho cảm nhận của độc giả.
Khó có thể nói đây là một cách làm hay nhất đối với một tác phẩm văn học, tuy nhiên với thói quen đọc và nhìn như hiện nay, cách làm của Phan Hồn Nhiên và Phan Vũ Linh rõ ràng tạo nên một gia vị mới lạ và hấp dẫn cho món ăn văn hóa đọc vốn gần đây khá đơn điệu.
Nếu Chuỗi hạt Azoth nhắm hẳn vào độc giả tuổi mới lớn thì Đi tìm hoang dã (ảnh) của nhà văn trẻ Nguyễn Vĩnh Nguyên lại rất khó để kết luận phù hợp cho lứa tuổi bạn đọc nào. Nếu nhìn vào hình thức, hẳn ai cũng nghĩ đây là một tác phẩm dành cho lứa tuổi nhi đồng với hình vẽ đầy dí dỏm hai con bò đang tung tăng ngay trên bìa sách.
Thế nhưng, chỉ cần đọc qua cái tựa nhỏ thì cảm giác sách dành cho thiếu nhi vụt tan biến: “Câu chuyện về hai con bò khù khờ thích triết lý!”. Triết lý, quả là một món khó nhai cho trẻ em. Mở trang sách ra, cảm giác sách cho thiếu nhi lại quay lại với các bức tranh minh họa dễ thương.
Nhưng lại một lần nữa, cảm giác này như vụt tan biến khi ta bắt đầu đọc sách: “Trước vũ trụ bao la, thiên nhiên vô tư, một con bê khác gì một trẻ sơ sinh và một con bò bô lão, lưng trầy trụa, đầy thương tích thì có khác gì một người già đã kinh qua đủ những “trận mạc” cuộc đời cơ chứ?”.
Những câu văn châm biếm, ẩn dụ, phiếm chỉ như thế xuất hiện rất nhiều trong tác phẩm và quả là không mấy ngạc nhiên khi nhiều bạn đọc sau khi đọc xong Đi tìm hoang dã đã phải thốt lên: “Một tác phẩm dành cho người lớn trong chiếc vỏ thiếu nhi”.
Và tác giả, dù đã rất tự tin khi cho rằng tác phẩm của mình “Phù hợp cho bạn đọc từ 8 tuổi đến 88,8 tuổi” (nhại câu khẩu hiệu của truyện Tintin “Từ 7 đến 77 tuổi”) cũng đã phải thừa nhận: “Đây là tác phẩm đầu tay của tôi dành cho thiếu nhi, dĩ nhiên không thể tránh khỏi sơ suất…”.

Lạc quan vào tuổi trẻ

Tuy nhiên, nếu phải nhìn nhận vào những trường hợp như Phan Hồn Nhiên hay Nguyễn Vĩnh Nguyên, bất cứ ai dẫu khó tính nhất cũng phải thừa nhận, các nhà văn trẻ của chúng ta đang chuyển mình với những tín hiệu đầy lạc quan.
Nếu nhìn vào hình thức thì có vẻ Phan Hồn Nhiên đi vào huyền ảo, hay Nguyễn Vĩnh Nguyên dí dỏm cho thiếu nhi, đã thoát ly cái phong trào viết tâm lý hiện thực mà nhiều nhà văn trẻ say sưa bấy lâu nay.
Thực tế ngược lại, họ vẫn gắn chặt với cuộc sống quanh họ, với vốn sống của chính họ. Không ru ngủ, chạy trốn như nhiều người lầm tưởng. Cái huyền ảo của Hồn Nhiên chính là đi vào trào lưu đọc thịnh hành nhất hiện nay của giới trẻ, vốn tồn tại gần cả chục năm nay nhưng giới sáng tác trong nước gần như bỏ quên, họa hoằn lắm mới có tác phẩm thuộc thể loại này xuất hiện.
Bước đi của Hồn Nhiên với sự hỗ trợ của Vũ Linh đã có những thành công bước đầu, dù phía trước con đường còn rất dài, nhưng ít nhất nó cũng đã có sự khởi đầu từ nhà văn trẻ.

Còn thông qua cái vỏ dường như cho thiếu nhi của Nguyễn Vĩnh Nguyên thì thực chất chính là một cách khác để nói về những vấn đề thời sự hôm nay. Nếu coi Đi tìm hoang dã là một tác phẩm thiếu nhi thì có thể đó là một tác phẩm thất bại, nhưng nếu nói đây là một tác phẩm dành cho người lớn, phản ánh những vấn đề về cuộc sống của người trưởng thành hôm nay, thì đây là một tác phẩm hay.
Ở góc độ này có thể xem Đi tìm hoang dã là một cách thể hiện khác, nhẹ nhàng hơn, gần gũi hơn so với những tác phẩm phản ánh hiện thực khác.

Văn học trẻ trong nước với những Dili, Trương Anh Quốc, Phan Hồn Nhiên, Nguyễn Vĩnh Nguyên… đang chứng tỏ một sự thay đổi đáng kể. Rời xa sự ủy mị, các nhà văn trẻ Việt Nam đang tìm cho mình những con đường mới, khó có thể nói ai sẽ thành công nhưng ít nhất sự can đảm, dám nghĩ dám làm của họ cũng đã đem đến những tín hiệu đầy lạc quan cho một tương lai đa dạng của văn học trong nước.

_______________________________________________

VĂN CHƯƠNG TRẺ - RẤT CẦN MỘT CHIỀU SÂU VÀ TẦM NHÌN VĂN HÓA

Nguyễn Trọng Bình


1

Những năm gần đây, người ta thường nhắc đến cụm từ “văn chương trẻ” hay “văn chương thế hệ 8X, 9X”… để nói về đội ngũ sáng tác văn học nước nhà thời kì hội nhập và toàn cầu hóa. Trong số đó những tên tuổi được nhắc đến nhiều nhất trong thời gian gần đây có thể kể đến như Vi Thùy Linh, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu, Phong Điệp, Nguyễn Ngọc Thuần, Nguyễn Đình Tú, Vũ Đình Giang, Trần Đức Tiến, Phan Hồn Nhiên, Di Di, Cấn Vân Khánh, Trần Thị Hồng Hạnh… Nói gì thì nói, với những gì đã thể hiện, trước hết phải thừa nhận những cây bút vừa kể trên ít nhiều đã có những đóng góp nhất định cho việc thúc đẩy sự phát triển của văn học nước nhà trong thời kì đổi mới những năm đầu thế kỷ XXI. Và một trong những đóng góp tích cực và dễ thấy nhất của các cây bút “văn chương thế hệ 8X, 9X” chính là… đã góp phần bổ sung vào lực lượng sáng tác văn học cả nước thêm phần đông đảo và phong phú nhờ tính khỏe, sự “sung sức” và năng động của tuổi trẻ; thứ nữa, phải kể đến những đóng góp trên bình diện cái nhìn về quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người rất mới mẽ và táo bạo, qua đó các nhà văn trẻ ít nhiều đã cho thấy những khát vọng, những ước mơ, những suy tư và trăn trở của bản thân về ý thức trách nhiệm của mỗi con người trong xã hội đầy biến động… Có thể nói, tất cả những đóng góp trên của các cây bút “văn chương trẻ” là rất đáng trân trọng, cần được ghi nhận và khuyến khích, động viên. Tuy vậy, công bằng mà nói, nhìn lại những sáng tác của các cây bút trẻ trong thời gian qua hay những sáng tác gần nhất, có thể nói, các cây bút này đã bộc lộ không ít những hạn chế rất cần được “mổ xẻ” để rút kinh nghiệm một cách thật nghiêm túc. Và theo tôi, nếu biết lắng nghe để khắc phục những hạn chế này chắc chắn các cây bút trẻ sẽ còn thành công hơn nữa trong sự nghiệp sáng tác của mình và khi ấy văn chương Việt Nam mới mong “tính chuyện đi ra nước ngoài” (chữ dùng trong một bài viết của nhà văn Nguyên Ngọc) thay vì phần nhiều chỉ mãi quanh quẩn trong nước như hiện nay. Vậy những hạn chế hay những khiếm khuyết của cây bút trẻ hiện nay cần phải và khắc phục là gì? Có thể nói ngay ra rằng đó chính là chiều sâu và tầm nhìn văn hóa của một nhà văn (hay rộng hơn là của người nghệ sĩ nói chung) trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Đây có thể xem là một trong những hạn chế và khiếm khuyết lớn và dễ thấy nhất ở các cây bút trẻ hiện nay. Chính khiếm khuyết này làm cho tác phẩm của các nhà văn trẻ rất khó bay cao và bay xa. Trong một bài viết gần đây trên báo Văn nghệ trẻ, tác giả Bùi Việt Thắng khi nói về truyện ngắn của các cây bút trẻ hiện nay đã đưa ra nhận định: “Truyện ngắn trẻ - văn chương suồng sả của đời”[1]. Cách nói “suồng sả của đời” phải chăng cũng hàm ý và phản ánh phần nào những khiếm khuyết về chiều sâu và tầm nhìn văn hóa của các cây bút trẻ này?

2

Trước hết, vấn đề chiều sâu và tầm nhìn văn hóa trong văn chương mà chúng tôi muốn nói đến ở đây chính là thái độ và sự quan tâm một cách đúng mức và sâu sắc của mỗi nhà văn trong quá trình sáng tạo nghệ thuật về những yếu tố văn hóa đã kết tinh trong mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng góp phần làm nên bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam; người nghệ sĩ trong quá trình sáng tạo nghệ thuật phải biết quan sát, biết nhìn nhận, biết tiếp thu, biết chọn lọc và sáng tạo nhằm góp phần làm phong phú hơn cho truyền thống văn hóa dân tộc; để những sáng tác của mình thật sự là cầu nối cho người với người xích lại gần nhau hơn, người với người đối xử với nhau nhân văn và nhân ái hơn... Mỗi nhà văn phải ý thức rằng, để có thể có những tác phẩm thật sự có giá trị phục vụ công chúng thì ngoài vấn đề về năng khiếu thì vấn đề tự trau dồi vốn sống - vốn văn hóa cho bản thân mình là vô cùng quan trọng. Cho nên mỗi nhà văn, qua những sáng tác của mình phải làm sao để người đọc cảm nhận được chiều sầu và “nội lực văn hóa” của bản thân, qua đó góp phần định hướng đồng thời cũng để “giữ mình” không phải chiều theo thị hiếu tầm thường của một bộ phận công chúng “lệch chuẩn”.
Một vấn đề nữa, về phương diện lý luận mà nói, vấn đề chiều sâu và tầm nhìn văn hóa trong sáng tạo văn chương, nói như Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh trong bài viết “Văn hóa như là nguồn lạch sáng tạo và khám phá văn chương” (Tạp chí văn học số 1, năm 2007) còn là “cách tiếp cận văn hóa đối với văn chương” bởi đây có thể xem là “một đòi hỏi của thời đại có khả năng tạo động lực mới cho văn chương, làm cho sự sáng tác, nghiên cứu, tiếp nhận văn chương không bị đóng khung trong lĩnh vực thuần túy văn chương, ở một số người đọc hạn hẹp, mà trở thành mối quan tâm chung của rất nhiều người, của cả một cộng đồng xã hội rộng lớn.” Hay: “…Cách tiếp cận văn hóa đối với văn chương lúc này cũng có thể góp phần khắc phục khuynh hướng biệt lập hóa, cô lập hóa văn chương đã kéo dài quá lâu, làm cho văn chương xa rời những vấn đề trọng đại, sống còn, bức xúc của đời sống, của xã hội, của lịch sử, của con người; do đó cũng mất đi sức mạnh cảm hóa, thanh lọc lớn lao của nó; khắc phục khuynh hướng đề cao một chiều, tuyệt đối hóa mặt hình thức, kỹ thuật của văn chương, đôi lúc biến văn chương thành một trò chơi chữ cầu kì, trống rỗng.”

3

Từ những vấn đề mang tính chất lý luận ở trên, nhìn lại các sáng tác của những cây bút văn chương trẻ trong thời gian qua thật sự mà nói vấn đề chiều sâu và tầm nhìn văn hóa phần nhiều còn khá hời hợt và nông nỗi. Tính năng động, tính sáng tạo, sự “sung mãn” trong cách tiếp cận và phản ánh hiện thực đời sống xã hội được thể hiện qua các trang viết (mang tính “thời sự”) là điều rất đáng trân trọng và biểu dương ở các cây bút trẻ (dù sao đây cũng là lợi thế của họ). Tuy nhiên, sự bốc đồng, tâm lý hiếu thắng, sự nóng vội và dễ dãi trong suy nghĩ chính là nguyên nhân làm cho các cây bút trẻ “không lớn” lên được. Điều này thể hiện rất rõ từ cách tiếp cận cho đến cách giải quyết vấn đề trong các tác phẩm của các cây bút này. Nhìn chung, phần lớn những cây bút trẻ chỉ mới tiếp cận vấn đề mang tính bề nổi, những hiện tượng riêng lẻ chứ chưa thật sự chạm đến cái “cái bản chất sâu xa” để có thể khái quát lên thành những vấn đề mang tầm “dân tộc” và “nhân loại” như các nhà văn tiền bối. Nói cách khác, những cây bút trẻ tuy có cố gắng, có khát khao tìm tòi và thể hiện nhưng tác phẩm của họ phần nào chỉ mới đáp ứng được yêu cầu “phản ánh” chứ chưa cho thấy một sự “nghiền ngẫm” nghiêm túc và sâu sắc hiện thực đời sống đang đầy sôi động và nóng bỏng hiện nay. Hoặc giả cũng có “nghiền ngẫm” nhưng đó chỉ là một sự “nghiền ngẫm” chưa tới, “nghiền ngẫm” chưa ra, “nghiền ngẫm” chưa đến nơi đến chốn…
Cũng Bùi Việt Thắng trong “Truyện ngắn trẻ - văn chương suồng sả của đời” có một nhận định khá chính xác về các cây bút trẻ hiện nay là: “Dường như khi viết họ chỉ cốt bằng mọi cách phô diễn cho hết mọi ý tứ, thậm chí viết làm sao cho lạ, cho mùi mẫn mà không nghĩ rằng nghề chữ cũng lắm công phu. Sự cẩu thả trong cách viết của các cây bút trẻ, tôi nghĩ, không phải do học vấn, văn hóa mà là từ một quan niệm “văn chương suồng sã của đời” nên phải viết làm sao cho nó “bụi bặm”. Hoặc giả từ một quan niệm muốn hiện đại hoá tiếng Việt nên vay mượn, lai căng. Tôi dám chắc các cây bút trẻ có mặt trong cuốn sách này và rộng ra là văn trẻ nói chung, mấy ai đã kì công như Nguyễn Tuân trong lao động nghề nghiệp để luyện chữ.”
Bùi Việt Thắng đã nói rất đúng và đây cũng chính là một trong những khiếm khuyết và hạn chế của các cây bút trẻ hiện nay trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Đồng thời cũng là biểu hiện hiện rõ nhất cho sự thiếu chiều sâu và tầm nhìn văn hóa trong sáng tạo nghệ thuật của các cây bút trẻ. Điều này cũng đã lý giải vì sao có rất nhiều tác phẩm của những cây bút trẻ đến tay độc giả nhưng rồi họ cũng sẽ “quên ngay sau khi đọc”. Họ - các cây bút trẻ có phần chủ quan, không ý thức cũng như không trang bị cho mình một vốn sống - vốn văn hóa cần thiết để có thể theo nghiệp văn chương vốn rất thiêng liêng và cao quý vì thế, đã đưa đến một hệ lụy là sự“cẩu thả trong cách viết”. Nếu nói rằng ngôn ngữ phản ánh tư duy của con người thì từ đây có thể suy ra “sự cẩu thả trong cách viết” của các cây bút trẻ phần nào cũng nói lên sự cẩu thả trong cách tư duy, cách suy nghĩ của họ. Có thể nêu ra đây hai vấn đề thường gặp nhất trong các sáng tác của các cây bút trẻ hiện nay như sau:
Thứ nhất, như đã đề cập ở phần đầu, tác phẩm của các cây bút trẻ tuy có cố gắng tìm tòi sáng tác nhằm trình bày những suy nghĩ của bản thân về những thay đổi của xã hội và con người Việt Nam trong xu thế mới. Tuy vậy, trong quá trình thể hiện những điều ấy hoặc là các cây bút trẻ sa vào phản ánh hoặc đưa vào tác phẩm tất cả những gì mình thấy không những vụn mà còn khá thô nhưng rồi cuối cùng cũng không khái quát thành vấn đề mang tầm tư tưởng gì một cách rõ ràng; hoặc không thì lại cố tình tạo ra một tâm lý “nổi loạn” ở những “con người mới” với những suy nghĩ phản kháng thậm chí là sẵn sàng cắt đứt mọi sợi dây ràng buột về văn hóa (vốn tồn tại mấy ngàn năm) với thế hệ cha ông. Vì thế, các tác phẩm thường rơi vào tình trạng “chiêu thuyết” cho một lối nghĩ, một cách nghĩ, cách sống nhỏ hẹp, hời hợt của một bộ phận công chúng trong xã hội mà thiếu một cái nhìn mang tính định hướng và dự báo, dự cảm những vấn đề mang “tầm thời đại”…
Thứ hai, do tâm lý nóng vội của tuổi trẻ muốn nhanh chóng khẳng định mình, các cây bút trẻ thường bộc lộ những suy nghĩ khá chủ quan về một vấn đề nào đó của con người và xã hội thông qua cách nói mang tính “triết lý” đôi khi rất tầm ruồng và hời hợt; trong cách viết, cách nghĩ thường rất ham khái quát mọi chuyện lớn nhỏ của cuộc sống thành những “quy luật” này nọ trong khi bản thân mình chưa từng “sống”, chưa từng được trải nghiệm một cách thấu đáo…
Tiêu biểu cho những vấn đề này có thể dẫn ra đây trường hợp của Đỗ Hoàng Diệu với tác phẩm Bóng đè. Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu lúc vừa “ra lò” đã được rất nhiều người đánh giá cao và cho rằng nữ văn sĩ trẻ này còn là cây bút đầy tiềm năng và triển vọng trong tương lai. Thế nhưng cho đến nay, có vẻ như Bóng đè và Đỗ Hoàng Diệu chẳng còn mấy ai nhắc tới và những hứa hẹn về “tiềm năng”, về “triển vọng” ở nhà văn này cũng chẳng thấy “phát tiết” ra sao. Vì sao như vậy? Có thể nói Bóng đè là kết quả (hay hậu quả) của những suy nghĩ thiếu sự “nghiền ngẫm” tới nơi nới chốn nên cuối cùng cũng chẳng khái quát được vấn đề gì lớn lao về văn hóa cũng như con người Việt Nam (theo như ý đồ của tác giả); một sự nóng vội và cẩu thả trong cách thể hiện vấn đề sex vào tác phẩm nghệ thuật. Do chưa đủ bản lĩnh và kỹ năng để xử lý vấn đề này, nên sex trong Bóng đè vô tình đã làm che mờ và phủ lắp cái ý tưởng ban đầu của nhà văn. Bóng đè vì thế, chỉ có thể là “những trang viết lạ” chứ chưa mang lại một “thông điệp” gì “to tát” như nhiều người đã nhận xét, càng không thể hiện được một chiều sâu và tầm nhìn tư tưởng gì ghê gớm để có thể “tiếp thị” và quảng bá văn chương cũng như con người Việt Nam đến với bè bạn quốc tế.
Nhìn sang lĩnh vực thi ca, những năm đầu thế kỉ XXI, trên thi đàn nói chung cũng rất xôn xao về “hiện tượng” thơ Vi Thùy Linh. Tương tự như trường hợp của Đỗ Hoàng Diệu, từ khi nữ thi sĩ này xuất hiện có không biết bao nhiêu là bài viết đánh giá và khen ngợi hết lời của không biết bao nhiêu nhà phê bình, nghiên cứu hay các nhà văn, nhà thơ khác (rất may là cũng có không ít nhà phê bình “tỉnh táo” hơn khi viết bài… không ca ngợi). Nào là thơ Vi Thùy Linh “là một biểu tượng giải phóng phụ nữ, là cơn lốc ý tưởng, cơn lốc chữ”; nào là thơ Vi Thùy Linh thể hiện“khát khao về chức năng làm mẹ, và nghĩ một cách thâm trầm, sâu sắc đến không ngờ về thiên chức người mẹ trong thế giới”; rồi nào là “một dòng thi ca rất “Linh” chảy từ đời xưa đến nay để rứt ra một Vi Thùy Linh chuyển cõi bay lên chạm vào khối tinh tú cuồng dại”; nào là “thơ Vi Thùy Linh tạo một dư chấn ám ảnh khôn nguôi”; rồi nào là thơ Vi Thùy Linh là “thơ phóng sinh ý tưởng ra ngoài gông cùm của thành kiến truyền kiếp, đập cánh quyết liệt vào hiện đại. Thơ phá tung cánh cửa vờ vĩnh che chắn trái tim tục lụy, trưng cầu ánh sáng v.v và v.v..[2]
Ấy vậy mà cho đến nay, “hiện tượng thơ” ngày nào cũng chẳng còn mấy ai quan tâm (ngoại trừ một vài người trong giới). Cây bút trẻ này đang bay cao, bay xa tới đâu cũng chẳng còn ai biết, ai hay? Nói điều này không phải để phủ nhận những cố gắng, tìm tòi của Vi Thùy Linh, tuy nhiên rõ ràng đến nay có thể lý giải được vì sao không còn mấy người nhớ đến và nhắc đến thơ Linh phải chăng ít nhiều đã nói lên rằng thơ chị tuy có cố gắng sáng tạo, có cố gắng cách tân trong nhiều phương diện nhưng nhìn chung vẫn thiếu một chiều sâu và tầm nhìn văn hóa? Người ta cho rằng những câu thơ mang yếu tố “sex” trong thơ Vi Thùy Linh là độc đáo, là sáng tạo góp phần thể hiện khát vọng yêu đương rất thực, “rất người”, “rất đời” của con người (đặc biệt là người phụ nữ) trong thời đại mới, đồng thời góp phần tạo nên “thương hiệu” cho thơ chị (đại loại như những câu:“Khỏa thân trong chăn. Thèm chồng. Thèm có chồng ở bên. Chỉ cần anh gối lên đùi. Mình ôm lấy anh ôm mình. Biết sự bình yên của mặt đất”) không phải là không có cơ sở. Tuy nhiên, có thể thấy, thơ Vi Thùy Linh vẫn thiếu một “chiều sâu” để bạn đọc có thể đồng cảm với chị một cách dài lâu. Co thể thấy, trong thơ Linh tuy sự chân thành, sự nồng nhiệt thậm chí “cuồng nhiệt” thì có thừa nhưng lại thiếu và đánh mất những đằm thắm, những dịu dàng, những tinh tế của con người (đặc biệt là người phụ nữ Á đông) trong lúc thụ hưởng những phút giây ngọt ngào nhất của yêu đương, của ái ân. Ngoài ra, sự thiếu chiều sâu văn hóa trong thơ Vi Thùy Linh còn thể hiện ở cách “ứng xử” trong tình yêu. Trong tình yêu hay trong cuộc sống nói chung của con người phải biết dung hòa giữa hai việc “cho” và “nhận”, trong sự “đòi hỏi hưởng thụ” và “đức hi sinh”. Có vẻ như thơ Vi Thùy Linh khi đề cập đến vấn đề này thiên về sự “nhận” hơn là “cho”, thiên về “đòi hỏi” một chiều hơn là sẵn sàng “hi sinh”… vì vậy mà người đọc khó đồng cảm, khó nhớ, khó thuộc. Đó là chưa nói đến việc phải có “tay nghề” trong cách sử dụng ngôn từ đẹp khi đề cập đến những vấn đề “tế nhị” nhưng không gây sốc mà vẫn tạo được giá trị thẩm mỹ và cảm xúc cho thơ. Điều này ở Vi Thùy Linh cũng không hẳn đã cao.

Nhân chỗ này, chúng ta thử nhìn lại cách các nhà thơ Mới Việt Nam (1932-1942) viết về vấn đề khát khao yêu đương và “cháy” hết mình trong tình yêu cách đây hơn nửa thế kỷ để có cái nhìn rõ hơn về chiều sâu văn hóa trong thơ:
Đây là những câu thơ của “ông hoàng” thơ tình yêu Xuân Diệu:

Hãy sát đôi đầu, hãy kề đôi ngực!
Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài
Những cánh tay hãy quấn riết đôi vai!
Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt
Hãy khắng khít những cặp môi gắn chặt
Cho anh nghe đôi hàm ngọc của răng
Trong say sưa anh sẽ bảo em rằng
“Gần thêm nữa, thế vẫn còn xa lắm”.

(Xa cách – Xuân Diệu)

Và đây là những câu thơ của Vũ Hoàng Chương:

Hãy buông lại gần đây làn tóc rối
Sát gần đây, gần nữa, cặp môi điên
Rồi anh sẽ dìu em trên cánh khói
Đưa hồn say về cuối tận trời quên!

(Quên – Vũ Hoàng Chương)

Nên nhớ rằng, các nhà thơ Mới Việt Nam trước 1945 vốn cũng là những trí thức có tuổi đời còn rất trẻ (thậm chí nhiều người còn trẻ hơn các cây bút trẻ hiện nay) lại chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa và văn học phương Tây (nhất là Pháp) trong hoàn cảnh giao thời của đất nước. Họ chính là những đại diện tiêu biểu trong cuộc “bút chiến” với những trí thức Nho học lúc bấy giờ để đấu tranh cho một cuộc cách mạng trong văn hóa (hay cụ thể hơn là trong văn học nghệ thuật nói chung). Tuy vậy, các nhà văn, nhà thơ trong giai đoạn này không bao giờ cẩu thả và hời hợt trong cách nghĩ, cách viết… Có thể thấy, ở các nhà văn, nhà thơ này một sự cách tân rất táo bạo, rất mạnh mẽ (trên tất cả mọi phương diện của văn chương so với trước đó) tuy nhiên sự cách tân ấy luôn được đặt trong cái nhìn và mối liên hệ với truyền thống văn hóa dân tộc rất sâu sắc và có trách nhiệm. Vì thế, các sáng tác của họ đã thể hiện rất rõ một bản lĩnh và chiều sâu cũng như tầm nhìn văn hóa thông qua những biểu hiện của một “cái tôi” độc đáo không những được công chúng đương thời nồng nhiệt ủng hộ mà còn bất hủ với chúng ta hiện nay. Đọc lại những Tiếng sáo thiên thai của Thế Lữ; Tiếng thu của Lưu Trọng Lư; Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp; Nguyệt cầm, Lời kỹ nữ của Xuân Diệu; Ông đồ của Vũ Đình Liên, Chân quê, Mưa xuân của Nguyễn Bính; Tống biệt hành của Thâm Tâm… chúng ta thấy rất rõ “nội lực” và chiều sâu cũng như tầm nhìn văn hóa của các tác giả này.

4

Trên đây là một vài trường hợp tiêu biểu minh chứng cho cái gọi là thiếu chiều sâu và tầm nhìn văn hóa trong sáng tạo văn chương ở những cây bút trẻ hiện nay. Vẫn còn khá nhiều những cách nghĩ, cách tư duy hời hợt và cách viết cẩu thả của rất nhiều cây bút trẻ khác mà trong cùng lúc không thể nào kể hết ra đây. Tuy vậy nói như thế, không có nghĩa là phủ nhận sạch trơn những đóng góp của các cây bút trẻ. Cũng rất may cho văn chương Việt Nam, những năm gần đây còn có một vài cây bút trẻ ý thức khá sâu sắc vấn đề này như Nguyễn Ngọc Tư, Dương Bình Nguyên, Di Li… Đặc biệt là với Nguyễn Ngọc Tư, điều này cũng đã lý giải vì sao trong số những cây bút trẻ hiện nay, Nguyễn Ngọc Tư có vẻ nổi trội hơn cả; những sáng tác của chị được đông đảo bạn đọc cũng như các nhà phê bình nghiên cứu đánh giá cao và ít nhiều đã góp phần quảng bá cho văn chương nước nhà đến với bạn bè trong khu vực và thế giới trong thời kì hội nhập. Có thể thấy, một trong những yếu tố làm nên thành công và sự “bứt tốp” của Nguyễn Ngọc Tư so với các cây bút còn lại, nói như nhà văn Dạ Ngân chính là sự “điềm đạm và thấu đáo” của chị trong cách nghĩ, cách viết. Nhìn kĩ sẽ thấy những sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư bao giờ cũng được xây trên “cái nền” khá vững chắc của văn hóa dân tộc (cụ thể ở Nguyễn Ngọc Tư là văn hóa và con người vùng đất Nam bộ). Nguyễn Ngọc Tư đã kết hợp yếu tố hai thời đại và truyền thống để từ đó khái quát lên thành một “cái nhìn khắc khoải” của riêng chị về những vấn đề mang tính thời sự, bức thiết và nhức nhói của đất nước và con người Việt Nam trong những năm đầu hội nhập và toàn cầu hóa. Những sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư qua cách đặt tiêu đề thôi cũng cho thấy ở chị một chiều sâu và nội lực văn hóa rất đáng quý, đáng nễ như: Ngọn đèn không tắt, Nước chảy mây trôi, Lý con sáo sang sông, Dòng nhớ, Cuối mùa nhan sắc, Cánh đồng bất tận, Chuồn chuồn đạp nước…

***
5. Thay lời kết

Trước 1945 trong tác phẩm Đời thừa, nhà văn Nam Cao có viết: “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề nào cũng là một sự bất lương nhưng sự cẩu thả trong văn chương là một sự đê tiện”. Câu nói thể hiện một ý thức trách nhiệm rất cao của Nam Cao đối với những người theo nghiệp cầm bút. Đồng thời qua đó cũng cho thấy chỉ có những nhà văn có một nội lực, một chiều sâu và tâm nhìn văn hóa mới có thể “nghiền ngẫm” và phát biểu hay như vậy. Nhìn lại các nhà văn trẻ trên văn đàn Việt Nam hiện nay, rõ ràng họ đang có rất nhiều ưu thế để có thể thành công hơn nữa trong sự nghiệp cầm bút của mình so với các thế hệ cha anh trước đây về điều kiện vật chất và tinh thần; nhiều người cầm bút hiện nay có thể nói cũng không bận tâm lắm về vấn đề “cơm áo gạo tiền” như các nhà văn tiền bối. Tuy vậy, các cây bút trẻ cần phải ý thức rằng văn chương không phải là chuyện ai muốn đến là đến, ai muốn đi là đi; văn chương cũng không phải là chuyện “cầu được, ước thấy”; càng không phải là chuyện ra chợ bỏ tiền mua cái “láp-tóp” rồi về nhà gõ chữ là thành. Văn chương, chữ nghĩa vốn rất Thiêng vì thế, rất cần một sự chân thành, một sự chính chắn và nghiêm túc. Nói tóm lại, văn chương rất cần một chiều sâu và tầm nhìn văn hóa của người cầm bút. Những ai đang đùa hay thậm chí là đang “đùa dai” với văn chương xin hãy dừng lại… một phút thôi để tự vấn lương tâm.
________________________________________
[1] Bùi Việt Thắng - “Truyện ngắn trẻ - văn chương suồng sả của đời”. Báo Văn nghệ Trẻ, số 16 ngày 17 tháng 4, năm 2010.
[2] Những nhận xét của các tác giả Thanh Thảo, Dương Tường, Nguyễn Thiên Đạo, Nguyễn Trọng Tạo in ở bìa tập thơ “Linh” và tập thơ “Khát” của Vi Thùy Linh – Nhà xuất bản Phụ nữ, 2007.

Thứ Ba, 28 tháng 9, 2010

Lê Kiều Như viết truyện thiếu nhi, phụ huynh phát hãi

Sau thất bại của ấn phẩm "người lớn" Sợi xích, cô ca sĩ đã nhanh chóng chuyến hướng ngòi bút sang... trẻ con.

Sau "giường chiếu" là... hoàng tử mèo, công chúa chim

6 tháng trước, tại buổi họp báo giới thiệu "Sợi xích", đứa con đầu lòng trong nghiệp viết lách của mình, Lê Kiều Như đã hé lộ thông tin về một ấn phẩm dành cho thiếu nhi mà cô đang ấp ủ.

Những tưởng sau khi "Sợi xích" bị dư luận "dập" tơi tả và không có cơ hội xuất hiện trên các kệ sách, cô ca sĩ sẽ bỏ cuộc. Thế nhưng mới đây, người đẹp từng mạnh miệng tuyên bố "được biết đến từ lúc sexy" đã cho ra mắt quyển truyện tranh có tên "Công chúa Chim Sâu và hoàng tử Mèo".

Tâm sự về ấn phẩm này, Lê Kiều Như cho biết ý tưởng đến với cô sau khi chứng kiến những con vật tội nghiệp bị bắt, bị nhốt. Cô mong muốn cuốn sách này sẽ truyền tải được những thông điệp về bảo vệ thiên nhiên, gìn giữ môi trường tới các độc giả nhí.

Không chỉ chịu trách nhiệm xây dựng nội dung và tạo hình nhân vật, Lê Kiều Như còn tự bỏ tiền túi để thực hiện "Công chúa Chim Sâu và hoàng tử Mèo". Mặc dù vậy, chính bản thân tác giả cũng không đặt nặng vấn đề lời lãi.

Theo như nữ ca sĩ thích viết lách này thì cô làm vì yêu thích đam mê. Chính vì thế mà người đẹp họ Lê đã khẳng định rằng cô sẽ tiếp tục sáng tác cho thiếu nhi trong tương lai.

Khi được hỏi liệu dư âm của "Sợi xích" có ảnh hưởng tới "Công chúa Chim Sâu và hoàng tử Mèo" hay không, Lề Kiều Như đã mạnh dạn trả lời rằng cô tin độc giả sẽ đón nhận vì mỗi cuốn sách có một đời sống riêng của nó, không thể lấy tác phẩm này để đánh đồng với tác phẩm khác.

Nhiều phụ huynh phát hãi

Có lẽ, mọi việc không đơn giản như cô ca sĩ nghĩ.

Ngay sau thông tin Lê Kiều Như phát hành ấn phẩm mới xuất hiện, đã có nhiều ý kiến trái chiều xuất phát từ các ông bố bà mẹ.

Với nhiều người cực đoan từng đọc qua "Sợi xích", họ khẳng định chắc chắn sẽ không mua truyện thiếu nhi của Lê Kiều Như cho con cái mình. Bởi với họ, một người từng viết những câu văn nhớp nhúa sẽ không thể sáng tác được một câu chuyện hồn nhiên, trong sáng.

"Thật nực cười là một tác giả vừa có thể viết cái thể loại "nhạy cảm" có thể chuyển ngay sang thể loại truyện tranh cho thiếu nhi. Để tránh rủi ro, tôi sẽ không bao giờ cho con tôi đọc các tác phẩm của Lê Kiều Như." Độc giả có tên Thanh Huyền chia sẻ.

Một độc giả khác lại viết: "Có ai dám dũng cảm cho con mình đọc truyện Lê Kiều Như không? Tôi thì tôi xin chịu..."

Bên cạnh những "ám ảnh" về nội dung của "Sợi xích" thì lại có những ông bố bà mẹ cảm thấy lo ngại về khả năng ngữ pháp bị đánh giá là ngô nghê của cô ca sĩ.

Thành viên tieulongnhi của một diễn đàn Trẻ thơ đã bày tỏ: "Không bàn chuyện có dung tục hay ko, nhưng riêng cái khả năng dùng từ của cô Như này đã thể hiện 1 sự hạn chế cực độ." Ý kiến này đã nhận được nhiều sự đồng tình.

Không chỉ ái ngại về nội dung và từ ngữ, một số bậc phụ huynh còn không chấp nhận việc Lê Kiều Như đưa hình ảnh rồng Châu Á vào trong một cuốn truyện cổ tích có phong cách Châu Âu. Điều này khiến họ nghi ngờ về phông văn hóa cũng như hiểu biết của tác giả.

Mặc dù bên cạnh đó, cũng đã có một số người lên tiếng bênh vực, ủng hộ Lê Kiều Như với lần trở lại này. Họ cho rằng không thể đánh giá một tác phẩm khi mà còn chưa biết nội dung ra sao, hình vẽ như thế nào.

Tuy nhiên, với những điều tiếng quá lớn từ "Sợi xích" thì quả thật, không dễ để "Công chúa Chim Sâu và hoàng tử Mèo" được nhiều độc giả đón nhận.

Theo VNN
____________________________________________

Đôi điều nói thêm về một nhà văn vừa tạ thế

Phạm Khải

Ngày Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội đang tới rất gần. Chính vì lẽ đó mà việc một tác giả có nhiều trang viết gắn bó với cảnh sắc và con người Hà Nội như nhà văn Băng Sơn qui tiên đã khiến tôi cũng như không ít bạn đọc tiếc nuối, bâng khuâng.
Vâng, ở tuổi 78, việc một con người ra đi cũng không phải là chuyện quá bất thường. Chỉ tiếc là, giá như nhà văn được nán lại ít ngày để cùng chúng ta chứng kiến giây phút trọng đại "ngàn năm có một" - sự kiện Hà Nội chẵn 1.000 năm tuổi.
Nhưng, tiếc nuối thì tiếc nuối vậy, sau khi đọc một số bài viết đưa tin, chia buồn nhân sự kiện nhà văn Băng Sơn từ trần, tôi lại không khỏi có cảm giác băn khoăn, nhất là khi đọc trên một tờ báo thấy cái tiêu đề: "Tác giả Hà Nội 36 phố phường" đã ra đi...".
Trong tâm trí tôi (và hẳn cũng là của nhiều bạn đọc yêu văn chương khác), gần như đã được mặc định, rằng khi nhắc tới cái tên "Hà Nội băm sáu phố phường" là nhớ ngay tới cuốn bút ký của nhà văn Thạch Lam (cũng quê Cẩm Giàng, Hải Dương với nhà văn Băng Sơn). Cõ lẽ nào, vì yêu Hà Nội, vì mê văn Thạch Lam mà nhà văn Băng Sơn đã lại đặt cho cuốn sách của mình cái tên từ lâu đã quá nổi tiếng như vậy? Rất may là một bài báo được tải trên một trang web đã nhanh chóng gỡ mối thắc mắc cho tôi.
Trong bài báo có tên gọi "Đừng để Băng Sơn mang tiếng đạo văn Thạch Lam", nhà nghiên cứu Trần Đình Thu cho biết, sau khi thấy một số báo giới thiệu tên một tác phẩm của nhà văn Băng Sơn là "Hà Nội 36 phố phường" (gần với tên "Hà Nội băm sáu phố phường" của Thạch Lam), ông đã băn khoăn tra cứu lại thì nhận thấy, thực ra, tên cuốn sách của Băng Sơn là "36 phố phường Hà Nội". Một sự nhầm lẫn "chết người" đã khiến ông rơi vào tình cảnh "cầm nhầm" tên tác phẩm của tiền nhân.
Ngoài sự cố nhầm lẫn nói trên, đọc một số bài viết về nhà văn Băng Sơn thời gian qua, tôi còn thấy có những tác giả đã đánh giá rất cao các trang viết về ẩm thực của nhà văn Băng Sơn. Họ xem ông như người rất "sành sỏi" trong ăn uống... Đọc ý kiến này, bất chợt tôi lại nhớ tới một bài viết được tôi thực hiện từ một cuộc phỏng vấn trực tiếp nhà văn Băng Sơn (bài viết sau đó đã được đăng báo và bản thân nhà văn Băng Sơn cũng không có ý gì khác). Xin kể lại một chút để bạn đọc tham khảo, ngõ hầu hiểu thêm về vấn đề này, từ đó có cái nhìn chân xác hơn, cũng như hiểu thêm một đặc điểm trong phong cách viết tùy bút của Băng Sơn so với một số nhà văn đàn anh.
Những ai từng đọc nhiều các tác phẩm Băng Sơn hẳn đều biết rằng, ông là tác giả nhiều bài tùy bút viết về thú ẩm thực của người Hà Nội (sau này được gom vào cuốn "Thú ăn chơi người Hà Nội", 2 tập, NXB Văn hóa - Thông tin xuất bản các năm 1993, 1996). Trong đợt Hội chợ Du lịch thương mại quốc tế tổ chức tại Hà Nội tháng 11/2003, Đài Truyền hình Việt Nam cũng đã có cuộc phỏng vấn ông bên một quán bún ốc. Có người cho rằng, sau Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Băng Sơn là người đại diện cho nét tinh tế, "sành điệu" của người Hà Nội trong việc ăn uống.
Chính bởi điều đó nên không ít bạn đọc đã lấy làm ngạc nhiên khi trên tờ báo Người Hà Nội số ra ngày 21/11/2003, trong bài "Nhà văn Băng Sơn viết ẩm thực bằng... mắt", tác giả Tâm Tâm lại cho biết: Khác với những điều bạn đọc hình dung, ở ngoài đời, Băng Sơn là người rất chỉn chu: "Ông tuyệt nhiên không bao giờ la cà, ăn uống ở đâu. Dù có đi đâu ông cũng chỉ về ăn và uống những thứ do vợ ông tự tay làm". Điều này đã khiến nhà thơ Nguyễn Hà lúc sinh thời có lần phải thốt lên: "Thằng này có dám ăn uống, chơi bời gì đâu. Viết về ăn uống toàn ngửi và nhìn thôi".
Thật ra, câu nhận xét đầy tính hài hước nhắc tới trên tôi cũng đã được nghe nhà thơ Nguyễn Hà "tái bản" nhiều lần và từ lâu, song chỉ coi đấy là chuyện đùa. Cho nên việc báo Người Hà Nội khẳng định hai năm rõ mười thế kia, tôi ngạc nhiên lắm. Lần đó, nhân gặp nhà văn Băng Sơn tại lễ trao giải và kết nạp hội viên mới của Hội Nhà văn Hà Nội, tôi đã nêu lại vấn đề này cốt để xem ý kiến chính thức của ông ra sao.
Thật đáng ngạc nhiên là nhà văn Băng Sơn tỏ ra ôn hòa với những điều tác giả Tâm Tâm viết.
- Họ viết cơ bản là đúng đấy. Tôi rất ít ăn ở quán - Ông khẳng định.
- Nhưng trong chương trình truyền hình vừa rồi, cô gái bán bún ốc chẳng đã nói ông vẫn thường xuyên đến ăn ở quán của cô?
- Thì lên truyền hình họ nói vậy. Thực ra ngày xưa thỉnh thoảng mình có ăn ở quán bún ốc của bà mẹ cô gái ở phố Phù Đổng Thiên Vương. Nay họa hoằn mới ăn.
- Như vậy, bác gái ở nhà hẳn phải là người rất khéo tay?
- Cũng... vừa vừa thôi. Nói chung tôi ăn ở nhà vì điều kiện kinh tế, cũng vì vệ sinh. Bụng dạ tôi "kém" lắm, không như người ta. Đấy như trong chương trình truyền hình cậu vừa nhắc tới đó, khán giả thấy tôi và anh Quang Minh (biên tập viên) nâng bát, cầm đũa, ngỡ tưởng chúng tôi sắp dùng bữa. Kỳ thực, khi máy quay vừa tắt đèn, chúng tôi đứng dậy ngay, có ai ăn miếng nào đâu.
- Ông ăn "ít" thế mà viết thì nhiều. Đã có bậc thức giả nào có ý kiến lại những bài viết của ông chưa?
- Tôi viết về ẩm thực chủ yếu từ 1980 đến nay. Không thấy ai phản đối. Chắc là đúng! Với lại, tôi viết "tán" là chính. Mà "tán" thì dễ quá chứ còn gì.
Nói vậy, song ông cũng giải thích thêm:
- Với lại, nói thì nói thế chứ năm nay tôi đã trên bảy mươi, mấy chục năm qua, các món ăn kia tôi ăn cả. Vấn đề là ăn ít nhưng phải chịu khó quan sát.
Nghe nhà văn Băng Sơn thổ lộ những điều gan ruột vậy, vẫn có người cho rằng hoặc là ông đùa, hoặc là do ông khiêm tốn. Kỳ thực, đọc kỹ những bài ông viết, tôi thấy những điều ông tự nhận xét về mình không phải là không đúng. Đọc những bài viết về ăn uống của Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, ta thấy hương vị của các món ăn rất rõ, còn trong bài của Băng Sơn, ta chủ yếu thấy hình dáng, màu sắc... của chúng. Ví dụ, khi viết về những cái như thể cái "kẹo mầm" chẳng hạn, ông thường chỉ tả: "kẹo cứ lồng khồng, trông rất nhiều, nhưng cho vào miệng, nó xẹp lại còn bé tí tẹo".
Nói chung là những thứ có thể quan sát người khác ăn mà viết được.
Bởi vậy, nói Băng Sơn là nhà văn viết ẩm thực bằng... mắt, có lẽ đúng chăng?
Trong bài điếu văn đọc tại tang lễ nhà văn Băng Sơn (được tổ chức tại Hà Nội ngày 5/9 vừa qua), nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam đã nêu nhận xét: "Băng Sơn là một mẫu nhà văn hầu như trọn đời chỉ viết về một đề tài, một vùng đất, đó là Hà Nội. Gần 20 tác phẩm của ông là bộ sưu tập giàu có và kỹ càng về cuộc sống và con người Thủ đô. Với những trước tác như thế, phải có độ lùi về thời gian mới hiểu hết giá trị của nó".
Nhận định của ông Chủ tịch Hội Nhà văn, theo tôi là kín kẽ. Nhà văn Băng Sơn viết văn, làm thơ từ rất sớm, khi chưa tới tuổi 20. Song ông lại được kết nạp vào Hội Nhà văn khá muộn, khi đã... 68 tuổi (nghĩa là sau nửa thế kỷ sáng tác). Phải có độ lùi thời gian mới có thể đánh giá chính xác, cũng như mới hiểu hết những đóng góp, cũng như những giá trị mà tác phẩm của ông để lại. Và phải có độ lùi như thế, ta mới có thể thấy đâu là phần đóng góp riêng, quý báu của ông vào mảng đề tài về Hà Nội so với các bậc đàn anh như Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Thạch Lam...

____________________________________________________

Điểm nhìn nghệ thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú

Trần Tố Loan

Nguyễn Đình Tú rất ý thức trong việc đặt điểm nhìn không, thời gian, nhưng có thể nói điểm nhìn tác giả và nhân vật mới là điểm nhấn đáng chú ý nhất trong nghệ thuật kể chuyện của anh.
Theo quan điểm của Umberto Eco, ba yếu tố cấu thành tác phẩm văn xuôi hư cấu nói chung, tiểu thuyết nói riêng là truyện (story), kết cấu (plot) và diễn ngôn (discourse). Đọc các tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú từ Hồ sơ một tử tù, Bên dòng Sầu Diện, Nháp đến Phiên bản, chúng tôi nhận thấy, bên cạnh việc xây dựng một cốt truyện hoàn chỉnh, sử dụng ngôn từ phù hợp, nhà văn đã dụng công trong việc tổ chức kết cấu tác phẩm một cách sinh động và hấp dẫn.
Kết cấu là toàn bộ tổ chức của tác phẩm, là phương tiện quan trọng nhất của khái quát nghệ thuật. Kết cấu có nhiều chức năng như bộc lộ chủ đề tư tưởng của tác phẩm, cấu trúc hệ thống tính cách, tổ chức điểm nhìn nghệ thuật của tác giả... Trong bài viết này, chúng tôi đi sâu tìm hiểu điểm nhìn nghệ thuật trong tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Đình Tú.
Điểm nhìn nghệ thuật (the point of view) là vấn đề cơ bản, then chốt của kết cấu. Điểm nhìn là vị trí, chỗ đứng để xem xét, miêu tả, bình giá sự vật, hiện tượng trong tác phẩm. Trong tác phẩm tự sự, tương quan giữa nhà văn và chủ đề trần thuật hay giữa điểm nhìn của người trần thuật với những gì anh ta kể là điều đặc biệt quan trọng. Có nhiều người đề xuất cách gọi điểm nhìn là nhãn quan, điểm quan sát, tiêu cự trần thuật… nhưng theo chúng tôi, dùng khái niệm điểm nhìn là phù hợp nhất vì điểm nhìn còn thể hiện lập trường tư tưởng của nhà văn. Điểm nhìn nghệ thuật được xem như một camera dẫn dắt người đọc vào mê cung văn bản ngôn từ. Khi nghiên cứu điểm nhìn nghệ thuật, người ta chia điểm nhìn thành các loại như điểm nhìn tác giả, điểm nhìn nhân vật, điểm nhìn không gian, điểm nhìn thời gian, điểm nhìn tâm lý, điểm nhìn tư tưởng, điểm nhìn tu từ… Trong nghệ thuật trần thuật, sáng tạo của nhà văn trước hết thể hiện ở cách “ứng xử” với câu chuyện để tạo ra sự đa dạng của các điểm nhìn nghệ thuật. Đọc tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú, chúng tôi nhận thấy tác giả đã thành công trong việc sử dụng điểm nhìn không, thời gian, điểm nhìn tác giả và nhân vật.
Về điểm nhìn không gian, trong cả 4 cuốn tiểu thuyết, tác giả đều cố gắng “khu biệt hóa” vùng không gian để “nhìn ngắm” nhân vật của mình dịch chuyển trong đó. Với Hồ sơ một tử tù và Nháp, nhà văn chủ ý để cho nhân vật mình dịch chuyển giữa các vùng không gian khác nhau. Trong Hồ sơ một tử tù, là sự dịch chuyển từ nông thôn ra thành thị và theo bước chân của nhân vật chính, không gian rộng mở đến khu đào vàng Lũng Sơn đầy tội phạm, dân giang hồ, bọn lục lâm thảo khấu. Còn ở Nháp là từ Phố núi đầy huyền thoại trẻ thơ ra đô thị phồn tạp, cám dỗ. Từ sự dịch chuyển không gian, tính cách nhân vật chính thay đổi. Ở Bên dòng Sầu Diện, trường nhìn của nhà văn đặt vào thị trấn An Lạc - thị trấn Nét Mặt Buồn nằm lọt thỏm giữa núi Cô Hồn và dòng Sầu Diện, trong đó, có những không gian nhỏ hơn như Xóm Đáy, xóm Khơ me, phố Tứ Phủ…
Trong không gian ám ảnh và có tên gọi gắn với huyền thoại tự tạo ấy, nhà văn kể câu chuyện về cuộc đời nhân vật Minh Việt từ khi ra đời đến lúc già cả. Và theo bước chân hành quân của Minh Việt, không gian mở rộng tận Sài Gòn nhưng không thật ấn tượng. Riêng trong Phiên bản, tác giả đã đặt nhân vật vào vùng đất nghịch “ngã ba sông” - nơi có truyền thống sinh ra những nữ tặc để kể câu chuyện về sự tha hóa của Diệu - Hương ga, từ một cô nữ sinh ngây thơ thành một siêu giang hồ. Cùng với quá trình tha hóa của Hương ga, không gian được mở rộng đến tận Sài thành. Đọc ở thế liên văn bản, Phiên bản gợi ta nhớ đến các vùng không gian trong tiểu thuyết Bỉ vỏ của nhà văn Nguyên Hồng. Trong cả bốn cuốn tiểu thuyết kể trên, nhà văn thường nhìn nhân vật cận cảnh, trường nhìn mở rộng theo sự dịch chuyển của nhân vật và sự thay đổi của không gian gắn với sự đổi thay của tính cách, số phận nhân vật. Như vậy, từ điểm nhìn cận cảnh và trường nhìn dõi theo sự di chuyển của nhân vật, trong các tiểu thuyết của mình, Nguyễn Đình Tú đã dùng kết hợp kiểu không gian điểm là “thị trấn Nét Mặt Buồn”, vùng đất nghịch ngã ba sông và không gian hình tuyến nông thôn; phố núi - phố thị.
Về điểm nhìn thời gian, trục thời gian trong các tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú thường là hiện tại - quá khứ hoàn thành - quá khứ - hiện tại tiếp diễn.
Bên dòng Sầu Diện mở đầu bằng sự chào đời của Minh Việt, tiếp đó là câu chuyện về những ngày đã xa của Nguyên Bình, Mến…; những tháng ngày chưa xa của Việt, bè bạn, người thân rồi trở về hiện tại. Trong hồi ức của bố Việt, có câu chuyện về tuổi học trò, ngày đầu tham gia cách mạng, gặp lại người bạn học Tuấn Thành, cuộc gặp gỡ với Mến - mẹ của Minh Việt… Tiếp đó, Minh Việt kể lại những chặng đường, những bước ngoặt lớn của đời mình cho đến giây phút anh đứng ở núi Cô Hồn nhìn về An Lạc, nghĩ đến quá khứ.
Câu chuyện trong Hồ sơ một tử tù bắt đầu từ giây phút Bạch Đàn ra pháp trường. Đứng bên cọc bắn, hắn nhớ lại cảnh đưa Hiến lên đầu đài trong trò chơi thời trẻ con, nhớ về 20 năm trước, tuổi thơ khó nhọc nơi công trường đá Áng Sơn... Từ đó nhà văn kể về quá trình tha hoá của Phạm Bạch Đàn từ một sinh viên khoa triết giỏi, thông minh thành một tử tù trong 10 chương tiểu thuyết rất hợp lí. Bạch Đàn vốn là một người có bản tính bộc trực, thẳng thắn. Do sự dồn đuổi của hoàn cảnh, ý thức lệch lạc của bản thân và sự vô cảm của những người xung quanh, Bạch Đàn từng bước trượt dài vào con đường tội lỗi. Câu chuyện tha hóa của Đàn từ chuyện nhỏ là xích mích với bạn đến việc tham gia vào băng đảng đào vàng, đánh người, giết người, trốn tù... được tác giả kể chuyện từ hiện tại nhìn về quá khứ, mỗi chương tương ứng với một bước chân của kẻ tử tội trên đường đến cọc bắn.
Nháp bắt đầu từ câu chuyện Thạch điều tra một vụ án mạng và nhớ về Đại, trong chuỗi nhớ bất tận đó chuyện về Thảo, về Yến, về mẹ, về Toàn... lần lượt hiện ra.
Trong Phiên bản, câu chuyên bắt đầu từ cuộc đối thoại giữa “ta” với trăng ở thời điểm hiện tại, sau đó là những hồi ức về sự sa ngã của Diệu được kể theo thời gian đồng hiện song song xen lẫn qua khứ với hiện tại.
Nhìn chung, Nguyễn Đình Tú khước từ lối kể chuyện tuyến tính, ngay cả trong cách kể phi tuyến tính thì câu chuyện anh kể cứ bện xoắn vào nhau theo kiểu đồng hiện kép. Đặc biệt, trong Nháp, anh đã để cho Thạch kể chuyện khá ngẫu hứng như nhạc jazz, cứ một đoạn kể chuyện mình lại nhớ chuyện của Đại. Bất cứ điều gì đó gợi nhớ đến Đại như mắt nâu, cây sấu… Thạch lại hồi ức. Tuy vậy, nhờ xử lý khéo léo và dẫn dắt hợp lý, người đọc không bị sa vào “ma trận thời gian” của các sự kiện, câu chuyện vẫn mạch lạc và hấp dẫn.
Khi kể chuyện, Nguyễn Đình Tú rất ý thức trong việc đặt điểm nhìn không, thời gian nhưng có thể nói điểm nhìn tác giả và nhân vật mới là điểm nhấn đáng chú ý nhất trong nghệ thuật kể chuyện của anh. Tác giả của Phiên bản không xem mình là người kể chuyện toàn tri, là “chủ nhân ông biết tuốt”. Biết giới hạn của mỗi góc nhìn trong việc khám phá sự phức tạp và tinh tế trong mỗi con người, tiểu thuyết của anh thường sử dụng phối hợp điểm nhìn của người kể chuyện và của nhân vật. Sự phối hợp giữa ngôi kể thứ nhất (xưng tôi, tên riêng) và thứ ba (hắn, thị) khiến câu chuyện linh hoạt hơn. Anh biến mình trở thành người kể chuyện toàn tri một phần (partially omniscient). Nói như Scholes và Kellogg, anh đã sử dụng quyền năng của người kể chuyện một cách hợp lí theo kiểu một chứng nhân (eye-witness) hơn là một sử quan (histor).
Trong Hồ sơ một tử tù, theo suốt 10 chương tiểu thuyết, câu chuyện về cuộc đời của tội nhân Phạm Bạch Đàn từ khi sinh ra cho đến lúc bị xử bắn được kể bằng giọng người kể (gọi hắn) và giọng nhân vật (xưng tên). Nhưng trong suốt quá trình kể, người kể chuyện thường lui vào “cánh gà”, nương theo điểm nhìn của nhân vật nên câu chuyện về quá trình tha hóa của Bạch Đàn như là lời tâm sự, dòng độc thoại nội tâm ám ảnh. Người kể chuyện chỉ lên tiếng khi cần phân tích, lý giải các sự kiện theo quan điểm của mình. Nhờ việc nhà văn chủ động xóa bỏ khoảng cách giữa người trần thuật với câu chuyện được kể, “thả rông” cho nhân vật tự “diễn xuất”, ngôi kể trong truyện biến hóa, đặc biệt là trường đoạn ông Thảnh kể về tiểu sử của cha con Bạch Đàn, Bạch Đàn tự kể về quá trình nhúng sâu vào tội lỗi của mình. Cách kể chuyện theo bước chân của tử tù theo mỗi chương thực sự lôi cuốn độc giả, kéo họ đi theo từng trang “hồ sơ” của nhân vật cùng sự phân tích của người trần thuật. Ở Bên dòng Sầu Diện và Nháp, nhà văn để cho nhân vật luân phiên kể chuyện của mình lúc xưng tôi, lúc xưng tên. Minh Việt kể chuyện mình ra đời, bố anh - Nguyên Bình kể về tuổi học trò, chuyện đi làm cách mạng, mẹ Minh Việt - cô Mến kể về cuộc gặp gỡ Nguyên Bình… Trong Nháp, Thạch và Đại là người kể chuyện. Nhà văn đã xáo trộn câu chuyện của hai nhân vật chính, chọn giao điểm ở sự trùng lặp của cảm xúc, dự cảm, linh cảm và nếu câu chuyện của Thạch là bè nổi, thì chuyện của Đại là bè trầm.
Càng về sau, nhà văn càng có ý thức “phức tạp hóa” điểm nhìn trần thuật. Câu chuyện trong cuốn tiểu thuyết thứ tư, Phiên bản, được chia thành 31 khúc, kể bằng 3 ngôi khác nhau: ta, em và thị. Các khúc được người trần thuật kể với ngôi “thị” là mảng sự kiện tội - tình - tù gắn với hoạt động của Hương ga với các băng nhóm giang hồ. Các khúc nhân vật tự kể xưng “em” là dòng chảy nội tâm, suy tư của Diệu hướng về Nhân, nhằm bày tỏ nguồn cơn đưa đẩy cô vào vòng tội lỗi, còn ở ngôi kể xưng “ta” lại giống như cuộc đối thoại, tự vấn của nhân vật chính để vượt thoát tội lỗi, tìm về bản ngã, cũng là mong muốn của tác giả sau giai đoạn thân trung ấm (sự sống sau khi chết, trước khi thần thức người ấy đi tái sinh vào cõi nào đó), nhân vật sẽ được đầu thai làm người. Lối trần thuật đa ngôi này không mới nhưng nhờ thế đời sống nhân vật được soi chiếu từ nhiều phía, nhiều quan điểm khác nhau trở nên hấp dẫn hơn. Nếu tác giả chỉ sử dụng một ngôi kể, e chỉ thấy được một “phiên bản” Diệu. Ngoài việc dịch chuyển điểm nhìn từ người trần thuật sang nhân vật chính, tác giả còn sử dụng điểm nhìn của các nhân vật phụ hỗ trợ cho dòng tự sự chính như câu chuyện Đạo và bé Ly viết trong Bên dòng Sầu Diện, hay Tâm và Hồng Nhung tự kể chuyện mình trong Hồ sơ một tử tù...
Từ Hồ sơ một tử tù đến Phiên bản, Nguyễn Đình Tú luôn có ý thức đổi mới cách kể chuyện. Điều này không chỉ thể hiện trên bề mặt các tiểu thuyết mà còn ở sự di động các điểm nhìn nghệ thuật. Văn chương nhiều khi chỉ là cách kể mới về những chuyện đã cũ. Khi viết tiểu thuyết, Nguyễn Đình Tú ý thức rằng, mình đang tham gia “trò chơi kết cấu” và đã phần nào thành công. Tuy vậy, trong các tiểu thuyết đã viết, anh luôn trình bày một cốt truyện hoàn chỉnh, với tiết tấu kể nhanh, dồn dập nên ít khoảng trống, khoảng lặng để người đọc suy ngẫm, đồng sáng tạo. Hy vọng, những cuốn tiểu thuyết sau anh sẽ dành nhiều khoảng lặng hơn cho người đọc tự trải nghiệm, không tạo áp lực “sự kiện” lên người đọc nhiều như thế nữa.

_________________________________________________

Thứ Bảy, 18 tháng 9, 2010

Chuyện Ông Móng

TRUYỆN NGẮN- Nguyễn Huy Thiệp

Mấy năm trước nghe nói ở ngoại thành có một chợ bán phân nổi tiếng, " độc nhất vô nhị " nên tôi tò mò đến xem. Chợ phân họp chừng một giờ đồng hồ từ 3 giờ sáng đến 4 giờ sáng ở ngay bên đường đi Sơn Tây. Đây là vùng trồng rau, trồng cà nổi tiếng. Giống cà pháo, cà bát rất hợp với việc bón phân tươi, nhất là phân người. Người ta cũng dùng phân để bón cho lúa, nhưng phân bón cho lúa phải được ủ cho mục ra, cho chín phân. Thế nào là ủ phân ? Phân tươi có nhiều loại : phân trâu bò, phân lợn, phân gà (gọi chung là phân chuồng), phân người (còn gọi là phân bắc) nhưng được ưa quý hơn cả là phân lợn, phân gà. Phân lợn quý vì nó mát, có thể dùng ngay, bón được ngay cho cây, mà cây nào cũng hợp. Phân gà cũng quý nhưng phân gà nóng, chỉ hợp bón cho cây ớt mà thôi. Riêng phân người (phân bắc) có lẽ bởi có nhiều đạm, nhiều chất khó phân huỷ nên bón trực tiếp thì cây xót, chết ngay. Riêng chỉ cây cà là chịu đựng được, lại hợp với việc bón loại phân này. Nhìn chung, tất cả các loại phân đều phải được ủ thì mới nên dùng. Người ta đào một cái hố ở ruộng, chất phân vào cùng với tro, trấu, rồi trát bùn non trộn với rơm bên ngoài, trông như một cái mả, để đấy chừng dăm bữa nửa tháng cho ngấu dần. Phân được ủ chín, cứ thế mục ra, oải ra. Những con dòi ăn hết phân cũng chết đi, bản thân nó cũng hoá thành phân.

Khi tôi đến thăm chợ phân thì chợ đang họp. Đây là chợ phân tươi, hoàn toàn không có phân ủ (phân chín) không có phân xanh (phân làm từ các loại lá cây) hay phân hoá học. Cũng rất ít có phân chuồng, tức là phân lợn, phân gà hay phân trâu bò. Tất cả đều là phân người.

Phân người được cho vào những thùng gò bằng tôn như thùng gánh nước. Cũng có một số người dùng thùng gỗ hoặc cho phân vào sọt (sọt được lót bằng bao ni-lông). Có lẽ phần lớn phân ở đây đều được lấy từ các nhà xí công cộng trong thành phố ra, nhiều thùng phân còn thấy lẫn cả giấy vở học sinh hay giấy báo.

Chợ phân không đông, chỉ có chừng hơn ba chục người vừa mua vừa bán. Hình như họ vốn đã quen biết nhau và khá thuộc " mặt hàng " của nhau nên việc mua bán thoả thuận cũng nhạnh Dưới ánh đèn cao áp tựa như ánh trăng và không khí hơi lạnh buốt, chợ phân cũng có phần nào giấu đi được sự bẩn thỉu, sự nghèo hèn, lam lũ và cần lao.

Những người bán phân đều bịt mặt hay đeo khẩu trang. Tất cả đều bán mua, mua bán một cách âm thầm chịu đựng, ít nhất đấy cũng là cảm giác ban đầu của tội Không có ai nói to tiếng hoặc mặc cả ráo riết như ở các chợ khác, chỉ trừ có mỗi một người, người này có vẻ như " ông chủ chợ ". Ông ta khoảng 60 tuổi, dáng người thấp đậm, đầu húi cua, mắt trố, quai hàm bạnh, ngực nở nang, chân tay rắn chắc. Ông ta không đeo khẩu trang hay bịt mặt, hoàn toàn chẳng có vẻ gì sợ hãi hay ghê tởm khi phải tiếp xúc, đụng chạm với các thùng phân bẩn thỉu và các dụng cụ dơ dáy ở đây. Tôi để ý thấy ông ta không mua, cũng không bán nhưng ông ta đi đi lại lại, nhắc nhở mọi người, xem xét, đánh giá từng thùng phân, bông đùa, góp ý cho những ai còn đang băn khoăn hay lưỡng lự. Ông ta khá linh hoạt, lanh lẹn. Sự linh hoạt của ông ta khiến cho phiên chợ sôi nổi hẳn lên nhưng cũng có vẻ gì khá bất nhẫn. Ông ta như một vị nhạc trưởng, như người giữ nhịp điệu cho cả phiên chợ quái đản này.

Có mấy người đôi co về hai sọt phân của một phụ nữ. Người phụ nữ này ăn mặc quần áo như một nhân viên Công ti vệ sinh. Người phụ nữ cầu cứu "ông chủ chợ " :

- Bác Móng ! Phân này của cháu mà chê là chua thì có ức không ?

Ông Móng (tức " ông chủ chợ ") đến gần xem xét. Ông ta dùng một cái gắp phân bằng cật tre, trông hơi giống một cái đũa cả sục sâu vào đáy sọt phân rồi rút ra, đưa lên mũi ngửi. Một con nhặng xanh bay nhoằng ở ngay trước mặt ông ta. Ông ta lùi một bước, quắc mắt, chuyển cái gắp phân từ tay trái sang tay phải rồi ước lượng đón đầu đường bay của con nhặng xanh, đập véo một cái vào không trung. Ông ta hô lớn :

- Chết này !

Sau tiếng hô người ta thấy con nhặng xanh ngã vật xuống ở giữa sọt phân. Ông ta bình thản bảo người mua hàng :

- Phân tốt đấy, không chua đâu ! Chắc hố xí nhà này gần chỗ làm đậu phụ nên có nước đỗ tương lẫn vào !

Người phụ nữ bảo :

- Vâng đúng ! Trong phân vẫn còn vỏ đỗ tương đây này !

Ông Móng bảo :

- Phân của mày hôm nay không đậm như phân hôm qua ! Nát nhẽo nát nhèo... Thôi thì giảm một giá...

Người phụ nữ bảo :

- Cháu gánh kẽo kẹt suốt từ cửa ngoài ô đến đây, nặng ơi là nặng. . .

Ông Móng bảo :

- Cho chết ! Ai bảo tham múc nhiều nước vào. . . Mày phải chắt cho kiệt nước đi thì phân mới ngon !

Ở cuối chợ có ai trút hai thùng phân sang hai cái thúng sơn bị đổ ra đường. Ông Móng quát :

- Vét ngay ! Vét cho thật sạch ! Ban ngày người ta mà thấy phân dây ra đường là không còn để cho họp chợ nữa đâu !

Người bán hàng vét phân bằng một dụng cụ làm bằng tôn hơi giống như một cái thìa xúp to, có cán dài, cái này cũng gọi là móng. Tuy đã vét sạch nhưng trên mặt đường nhựa vẫn lầy nhầy một lớp váng nước bu đầy ruồi nhặng. Ông Móng đi đến, bắt người kia phải đi múc nước từ một con mương gần đấy lên để rửa đường.

Một thanh niên trẻ, người gầy nhẳng đẩy một xe phên đi đến. Đây là chiếc xe vẫn dùng để gom rác nhưng được sửa đi để đựng phận Những người không bán được hàng (ế hàng) hoặc hàng xấu (tức là phân lõng bõng toàn nước hay nhiều dòi quá) đều trút cả vào xe cho anh tạ Anh ta mua hết nhưng đều với giá rẻ, mọi người gọi là giá bèo, giá vứt đi, giá hết chợ. Ông Móng và anh này có vẻ thân nhạu Ông Móng khen :

- Làm được nhà, lấy được vợ chỉ nhờ vào phân ! Thế là nhất !

Anh ta cười, vẻ mãn nguyện, lấy thuốc lá ra mời ông Móng. Hai người đứng hút thuốc lá, bàn tán những chuyện gì đó không rõ nhưng nghe loáng thoáng có câu " nhất nghệ tinh, nhất thân vinh " với " sinh ư nghệ, tử ư nghệ ". . .

Phía cánh đồng ngoại thành bóng tối lễnh loãng dần, bắt đầu mờ mờ nhìn rõ mặt người. Những tia mặt trời đầu tiên hân hoan báo hiệu một ngày mới đang đến dần. Những tiếng rung động đầu tiên rất khẽ rồi cứ thế lan toả ra, lớn dần lên, liên hoàn ầm ào như có muôn ngàn tiếng sóng vỗ, như có muôn ngàn tiếng chim đập cánh, như rùng rùng tiếng dậm chân của cả đoàn người. Tiếng còi xe lửa, tiếng còi ô-tô lảnh lót vang lện Thành phố bắt đầu cựa mình thức dậy như một con mãnh thú to lớn, như một tên khổng lồ vĩ đại có rất nhiều tham vọng phàm tục, có rất nhiều ước mơ táo bạo cùng với năng lực ẩn tàng. Hắn vừa chậm rãi, lại nhanh nhẹn, vừa ngáp ngủ, lại tỉnh thức. Người ta không thể lường được một ngày của hắn rồi sẽ thế nào, hắn sẽ làm gì, hắn sẽ bắt đầu bữa tiệc thịt người ngay tức khắc hay sẽ hào hiệp vung tay gia ân rải bạc vàng lên khắp chốn cùng nơi như một đế vượng Thành phố ! Đấy là bao nhiêu nỗi kinh hoàng, bao nhiêu niềm vui hoan lạc ! Thành phố ! Ở đấy có cả biết bao cảnh giới thiên đường và sự đoạ đầy trong tầng tầng địa ngục !

Những người họp chợ phân tản đi rất nhanh, loáng cái chẳng thấy còn một người nào, cứ như là chui xuống đất. Ông Móng đi dọc cái chợ không còn một ai xem xét. Không biết ông ta lấy đâu ra một cái chổi nan dài, chỗ nào còn rớt lại ít phân thì ông ta dùng chổi rấp ngay vào bên rệ đường như để phi tạng Xong xuôi ông ta bước xuống con mương gần đấy rửa tay rồi lững thững đi vào quán phở vừa mới mở cửa bên đường. Ở đây ông được đón tiếp như một khách hàng quen biết thường xuyên đặc biệt. Chủ quán biết rõ ông thích ăn gì và ăn thế nào.

Sau lần tôi đến chợ phân, tôi đã làm quen với ông Móng, tìm cách trò chuyện với ông ta nhưng ông ta kín như bựng Tôi cũng đã nghe thiên hạ kể về ông ta nhiều chuyện nhưng đều " bán tín bán nghi ", chẳng biết thực hư thế nào.

Bốn chục năm trước, Móng là một thanh niên nông thôn chất phác. Anh ta sống ở một làng quê ven thành. Lớn lên Móng đi lính, đã từng sang Lào và Campuchia. Cũng có người nói hồi trẻ Móng khá tài hoa, cầm, kỳ, thi, hoạ đủ mùi.

Một dạo, đóng quân ở một vùng xa, Móng có làm quen và yêu một cô gái Chặm Cô gái tóc xoăn, da nâu, nồng nàn như lửa. Anh lính nhà quê chất phác si tình như bị hớp hồn. Họ kéo nhau vào rừng trước một pho tượng đá cổ tạc những hình thù kỳ dị mà mãi về sau Móng được nghe giải thích là tượng linga. Móng đòi cô gái trao thận Cô gái bắt Móng phải thề chung thuỷ với cộ Nửa đùa nửa thật, Móng thề :

- Nếu tôi không chung thuỷ với em thì suốt đời tôi đi hót cứt !

Cô gái vui vẻ, tự nguyện trao thận Sau đó Móng đã chuyển đi nơi khác. Anh ta quên ngay cô gái người Chặm Cuộc đời chinh chiến giang hồ bôn ba khắp nẻo, sau này Móng cũng đã nhiều lần gặp gỡ không ít những cô gái khác. Hết chiến tranh trở về quê quán, giống như nhiều người đàn ông có giáo dục và lương thiện khác đã qua thử thách, Móng lấy một cô gái làng, lập gia đình và sống cần cù, gương mẫu.

Tôi nghe kể nhưng không tin lắm vào câu chuyện trện Tôi hỏi ông Móng và biết ông làm việc ở chợ phân này mấy chục năm nay tình nguyện và không vụ lợi. Nhiều người cũng đã xác nhận việc ấy với tội Không có lẽ ông lại có tình yêu và lòng say mê với phân như khối người dở hơi chúng ta vẫn say mê văn chương nghệ thuật, toán học, chính trị hay đồ cổ ? Tôi có mang chuyện này trao đổi với một nhà sự Ông bảo :

- Sám hối vẫn thường là một nhu cầu tâm linh của người ta khi đã về già. Thế nào gọi là sám ? Thế nào gọi là hối ? Sám có nghĩa là ăn năn về những lỗi lầm mình đã phạm từ trước. Các nghiệp ác, các tội ngu si mê chấp, kiêu ngạo khinh mạn. . . hoàn toàn xin ăn năn hối lỗi, từ nay về sau không còn gây ra nữa. Thế gọi là sám. Hối có nghĩa là hối cải những điều lỗi có thể phạm phải sau này. Các nghiệp ác, các tội ngu mê, kiêu ngạo, ngông cuồng, ghen ghét. . . đã được giác ngộ sẽ phải dứt bỏ hẳn, không gây ra nữa. Thế gọi là hối, gọi chung là sám hối. Kẻ phàm phu mê chấp chỉ biết ăn năn những tội lỗi đã phạm phải từ trước mà không biết hối cải những tội lỗi về sau của mình thế là tội trước chưa diệt, lỗi sau lại sinh, vậy chưa thể gọi là sám hối được. Mỗi một thiện trí thức phải nung nấu lắm !

Tôi ngồi nghe, không hoàn toàn bằng lòng với cách giải thích như trên vì thấy ông Móng không có vẻ gì đang là người ăn năn sám hối. Tôi cũng đã dò hỏi về " linga " và các quan niệm về quả báo của người xưa Trong bái vật tổ - tôn giáo nguyên thuỷ (nhiều người coi là tà giáo) - hình tượng âm vật, dương vật giao cấu cũng khá phổ biến, chưa nghe nói vì báng bổ mà đến nỗi phải rước tai hoạ gì. Chắc chắn không hề có chuyện mê tín ở đậy. Tiếp xúc với ông Móng, tôi thấy ông là người vô thần, cũng khá hồn nhiên chất phác yêu đời. Tôi băn khoăn quá, giải thích chuyện này cho thật thấu đáo kể cũng đau đầu.

- Không tôn giáo, không chính trị, không vụ lợi, không " sếch-xy " - Ông Móng bảo tôi - Nghề hót phân trên đời là nhất !

_____________________________________________

Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2010: Một mùa thơ đậm chất Hà Nội

Quang Nam

Hai tập thơ và một tiểu thuyết đã đoạt giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2010, theo kết quả phiên họp chung khảo ngày 10.9.2010. Trong những năm gần đây, giải thưởng hàng năm này là giải thưởng văn học được chú ý và chờ đợi bậc nhất, và thường gây ra tranh luận sôi nổi.


Tác phẩm vào chung khảo được sàng lọc từ những tác phẩm xuất bản trong khoảng thời gian từ 1.7.2009 đến 30.6.2010, có dư luận trên báo chí, được người đọc quan tâm, kết hợp với sự phát hiện và giới thiệu của hội viên. Theo quy chế của hội, đối tượng được xét giải là sách văn học của các nhà văn hội viên Hội Nhà văn Hà Nội và tác phẩm về Hà Nội của các tác giả viết tiếng Việt ở trong và ngoài nước.
Hội đồng chung khảo đã làm việc nghiêm túc, cẩn trọng, đã trao đổi và tranh luận thẳng thắn trên tinh thần dân chủ và mang tính chuyên môn. Sự nhất trí đã thể hiện trong kết quả cuộc bỏ phiếu kín vào ngày 10.9.2010.
Tập thơ Cởi gió của Nguyễn Phan Quế Mai được chú ý giữa những giọng thơ trẻ. Một giọng thơ biết tiết chế để khi chạm đến cái riêng tư vẫn không sa vào vụn vặt. Tình cảm với đất nước quê hương của người xa xứ, hoặc đang sống ngay giữa lòng đất nước, thật tha thiết mà không lạm dụng cảm xúc. Tác giả cũng chứng tỏ một bản lĩnh thơ trẻ, không chấp nhận cách cấu tứ quen tay, không sa vào ngôn từ dễ dãi, cũng không gây choáng bằng hình thức cầu kỳ, phù phiếm. Những bài thơ về Hà Nội dễ nhận được sự chia sẻ nhờ một cách nhìn hiện đại, một cách nghĩ, cách cảm trẻ trung và khá mới lạ. Đồng thời người đọc cũng mong chờ sự bứt phá của tác giả trong thời gian tới, trên cơ sở gia tăng độ mỹ cảm cho ngôn ngữ, nghiêm khắc hơn trong kỹ thuật và nghệ thuật thơ.

Nhà thơ Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) có những thành tựu đáng kể trong nhiều lĩnh vực, nhưng có thể nói thơ là nơi ông gửi gắm đời sống tinh thần của mình, nơi bộc lộ rõ nhất lý tưởng, lẽ sống và tình yêu của nhà thơ. Cũng chỉ với thơ, Lưu Quang Vũ thể hiện được nhiều hơn sự tài hoa và lịch lãm của nghệ sĩ gắn bó với Hà Nội. Lần đầu tiên một tuyển tập khá đầy đủ thơ của Lưu Quang Vũ được xuất bản và Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi cho người đọc một cái nhìn bao quát về sự nghiệp thơ của ông. Tình yêu với thành phố nơi mình sinh ra và lớn lên, tình yêu đôi lứa, tình yêu với đất nước vừa đem đến niềm tự hào vừa xót thương vô hạn... thực sự lay động được cảm xúc của người đọc. Sự hồn nhiên và nồng nhiệt của cảm xúc đã nhiều lúc biện hộ cho một giọng thơ miên man như không có điểm dừng, cho một câu thơ hay như bị phân vân giữa ngồn ngộn chữ nghĩa, cho cấu tứ dường như buông lỏng của những bài thơ dài hơi. Hội Nhà văn Hà Nội trao giải cho tuyển tập được biên soạn khá công phu này để khẳng định thành tựu của Lưu Quang Vũ riêng trong lĩnh vực thơ, cũng như tính cập thời còn nóng hổi trong thơ ông.
Về văn xuôi, tiểu thuyết Nhân gian của Thùy Dương là đóng góp của một nhà văn nữ trong việc khám phá và tái hiện đời sống theo một cách nhìn khác. Cõi nhân gian trong tác phẩm không chỉ là cõi người, mà người đọc còn được dẫn dắt vào cõi của người đã khuất. Thêm một cõi nữa mang tính nửa âm nửa dương: chuyện về những người đi tìm hài cốt liệt sĩ, những con người luôn bị ám ảnh và đời sống luôn trăn trở về những kiếp người đã chuyển sang cõi âm. Góc nhìn hiện thực trong tác phẩm được thay đổi xoay quanh ba cõi này và tay nghề của tác giả cũng được thử thách trong quá trình dẫn dắt câu chuyện theo một cấu trúc phân mảng. Thách thức thì lớn và không phải lúc nào tác giả cũng vượt qua: có lúc chị đã sa vào những chuyện kể thiếu chắt lọc làm giảm tính biểu tượng và khái quát của tác phẩm. Ngôn ngữ thuần thông tin trong tác phẩm tiểu thuyết cũng là một sự lựa chọn không hẳn đắc địa, ảnh hưởng đến sức nặng lẽ ra có thể hàm chứa nhiều hơn trong tác phẩm. Giải thưởãng này cũng là một ghi nhận đốëi vớái lao động nghề nghiệåp nghiêm túc của nhà văn Thùy Dương trong thờâi gian qua.
Mùa giải thưởng năm 2010 của Hội Nhà văn Hà Nội đã khép lại với phần nào hẫng hụt khi vẫn có rất nhiều sách dịch được xuất bản, nhiều cuốn cũng gây được sự chú ý của dư luận, nhưng Hội Nhà văn Hà Nội không trao giải thưởng cho một bản dịch cụ thể của năm nay. Những bản dịch đáng chú ý được đề cử, bên cạnh ưu điểm thường đi kèm với những điều gây băn khoăn nên không thuyết phục được đa số hội đồng chung khảo. Cũng như vậy, phần giải thưởng dành cho sách phê bình tiểu luận đã phải để trống bởi vì hội đồng không chọn được tác phẩm thực sự nổi trội.
Lễ trao giải sẽ được tổ chức vào trung tuần tháng 10.2010.

[Giải thưởng
Hội Nhà văn Hà Nội 2010


- Cởi gió, tập thơ của Nguyễn Phan Quế Mai, NXB Hội Nhà văn, 2010. Tác phẩm nhận được 11/12 phiếu.
- Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, tuyển tập thơ của Lưu Quang Vũ, NXB Hội Nhà văn và công ty Nhã Nam, 2010 (giải Thành tựu về thơ). Tác phẩm được 9/12 phiếu.
- Nhân gian, tiểu thuyết của Thùy Dương, NXB Hội Nhà văn và công ty Hà Thế, 2010. Tác phẩm được 8/12 phiếu.

Hội đồng Giải thưởng
Hội Nhà văn Hà Nội


- Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội: nhà văn Hồ Anh Thái.
- Hai phó chủ tịch: nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ và nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên.
- Các ủy viên Ban Chấp hành: Vũ Quần Phương, Bằng Việt, Bùi Việt Mỹ, Lê Trung Tiết, Nguyễn Trung Sơn.
- Các chủ tịch hội đồng chuyên ngành: Lê Minh Khuê (văn xuôi), Đoàn Thị Lam Luyến (thơ), Nguyễn Thị Minh Thái (lý luận phê bình), Đoàn Tử Huyến (văn học nước ngoài).]

___________________________________________________

Con Mốc

Truyện ngắn của ĐOÀN LÊ


Người ta bảo: chó chết, hết chuyện. Xem ra con Mốc xóm Chùa đã chết cho hết chuyện.
Mốc, tên con chó cái lai của lão kép cải lương. Nó đẻ được ba lứa rồi ốm lay lắt như người đàn bà hậu sản, hôm nay chết còng queo ở xó vườn. Nguyên nhân dẫn đến cái chết có thể do nó bị đói khát kinh niên. Bởi từ dạo bà vợ đi theo tiên tổ, lão kép cải lương sống trơ thân cụ, rất coi khinh cái sự ăn uống. Gặp gì ăn nấy, bốc bải cho xong bữa, chỉ rượu là tài. Lão bảo rượu đích thị tinh gạo, lại chả bổ. Con chó không uống được rượu, không nốc được chút tinh gạo vào ruột, do vậy gầy trơ xương. Giống chó, nó giữ đúng câu: chó không chê chủ. Đói quá không nhịn được, nó lang thang tha thẩn các bãi rác khắp làng sục sạo, rồi lại về phủ phục dưới chân lão già.
Tội nghiệp, thế cũng yên phận. Sinh thời nó thường được dùng làm biểu tượng để lão kép ám chỉ những điều chướng tai gai mắt. Ví như muốn chửi khéo cô nhân tình dặt dẹo khiến lão ngứa mắt, lão bô bô mắng con Mốc giữa đám bạn bè tụ bạ:
- Nỡm chửa, mày phải nhớ mẹ mày gốc quê mắt toét chính cống nhá. Ông đã gọi mày là Mốc để mày đừng quên. Giờ mày ra cái điều được dính tí máu Tây, mông to như lồng bàn, váy xẻ ngược xẻ xuôi lấy mẽ, trông lộn ruột lắm!
Cô nhân tình điên tiết, dỗi không cho lão động đến người bữa đó.
- Sao, mày dám chê không ăn hả? Thứ này gọi đúng danh thơ chấm mắm tôm đấy con ạ.
Là lão nói kháy ông bạn thơ rượu ngồi trước mặt. Ai chấp. Lão trái tính, trở mặt như bàn tay, khen đấy, chửi đấy, móc máy văn vẻ tựa con bò cạp độc. Chửi quen miệng rồi. Xưa còn mồ ma vợ lão, bà ta đã phải kêu lên:
- Khiếp, ông được mỗi tài róc rỉa thiên hạ. Ông có biết nghề chính của ông là gì không? Thưa, nghề làm bố thiên hạ đấy ạ. Cấm thấy sờ lên gáy.
Gáy mình lạ gì phải sờ? Bây giờ lão qua ngưỡng thất thập cổ lai hy, càng thích nói cho sướng miệng. Chính phủ à? Quốc hội à? Ôbama à? Chuyện gì lão cũng có thể nhếch một bên mép, phán tung hoăng. Thiên hạ biết tính lão nên chẳng ai muốn nối lời. Lão lại ngỡ họ… phục sát đất, càng nói tợn!
Sĩ Thái sư, nhân vật nổi tiếng xóm Chùa, thi thoảng vẫn đủng đỉnh xuống cuối làng thăm lão già dở chứng chết ấy. Ông chịu đựng mãi cũng quen đi. Không ai muốn qua lại ngó ngàng đến lão kép hát, song ông vẫn giữ nguyên một lời hứa với người đã khuất. Dạo đó, khi thăm vợ lão kép trước lúc bà ta qua đời, chính bà đã nhìn Sĩ Thái sư với ánh mắt trao gửi rầu rĩ.
- Bác ơi, chỉ có bác chân tình với ông cháu. Sau này tôi đi rồi, mong bác đừng bỏ ông ấy, bác qua lại cho nhà cửa đỡ vắng vẻ.
Ông giữ đúng lời hứa. Bị mọi người gọi gàn bát sách ông cũng lờ. Không còn bóng ông ra vào, căn nhà cuối xóm dễ thành nhà hoang.
Hôm nay vừa tới sân, Sĩ Thái sư ngạc nhiên thấy lão kép tề chỉnh quần áo hơn mọi bữa.
- Ông tạo dáng đi đâu mà choáng thế ?
- Tôi đi thăm thú đám khiếu kiện ông ạ. Mình là lãnh đạo, đôi khi cũng phải hé mắt nhìn xuống dân một tí chứ. Nói để ông biết, ngoài nghĩa địa xóm Chùa nhà ta cũng rặt dân khiếu kiện, chật cả sân Diêm Vương đấy.
Lão kép vênh cái mặt lên. Gớm chửa, xưa rày lão chỉ thích đóng vai lãnh đạo, càng cao cấp càng hăng. Và Sĩ Thái sư hiểu lão kép nhắc khéo đến vụ kiện tụng đất cát đang rùm beng cả làng kia.
Sĩ Thái sư hùa theo:
- Thưa vâng. Vậy tôi có phải về để “lãnh đạo” đi thị sát tình hình không?
Lúc đó lão kép mới chùng mặt xuống, nhe răng cười nhẹ:
- ấy, đi rồi. Vừa về. Là đi mua đôi dép mới. Phàm cái gì đổi mới cũng tốt cụ ạ.
- Thì vưỡn!
- Mừng đổi mới, tôi pha ấm chè Ô Long cháu nó vừa gửi biếu để hai ta thưởng thức nhá!
Trà Ô Long pha nước mưa hứng tàu cau còn gì bằng. Lão kép bày sẵn bàn trà bên thềm ngôi nhà thờ nhỏ rêu phong cho thêm thi vị. Mấy chùm hoa mộc li ti lão kép hái ngay trên cây bỏ vào ấm, giờ phảng phất tỏa lên thứ hương thật thanh tao quý phái.
Lão kép khơi mào câu chuyện sau tuần trà đầu tiên:
- Giời oái oăm lắm. Người đẻ sòn sòn, đất lại không nở thêm lấy một ly. Giá mà đất cát tự sinh sản như bèo hoa dâu có phải thiên hạ đỡ kiện tụng nhau không.
Trầm ngâm giây lát, Sĩ Thái sư bỗng hỏi:
- Ông đã nghe chúng nó sắp làm lễ khởi công sân gôn chưa?
- Dám khởi công? Còn bao nhiêu đơn từ phản đối, đã ngã ngũ đâu?
- Phản đối ư? Chúng nó thì… thì đập tiền tấn vào mặt, khắc xong tất.
- Đã đành. Cái chính chúng đập tiền tấn vào mặt ai cơ? Mặt dân đen chúng cóc cần đập cho phí tay.
- Thì vưỡn!
Vừa mới nói đến đấy cả hai lão bỗng dỏng tai nghe. Cái gì ầm ĩ thế? Nghe rõ tiếng quát tháo hò hét ghê người. Hai lão ngồi lặng, đưa mắt cho nhau. Đấy, cuộc sống nhốn nháo không còn ra thể thống gì nữa. Sao mà buồn! Cái xóm Chùa êm ả xưa, ra đường gặp nhau chắp tay vái chào đã lui vào sân khấu cổ tích. Giờ ra đường chậm chân không tránh kịp, xe máy nó tông ngã chổng vó. Nó tha chửi là phúc, lại mong nó vái mình cơ. Hóa ra xóm Chùa chỉ giữ mấy chữ Nho đầu cổng làng làm sang thôi. Triều phục thôn!
Thoáng thấy bóng lão Bân đi qua ngõ, roi bò ve vẩy trong tay, Sĩ Thái sư ơi ới gọi:
- Ông Bân, làm chén nước đã!
Lão Bân hơi ngần ngừ, nhưng cái tính bẻo lẻo xui chân lão rẽ luôn vào ngõ.
- Ui chao, các cụ ngồi bình chân như vại quá nhỉ? Không ra xem người ta sắp giết nhau kia kìa.
- Ai giết ai?
- Anh em thằng chủ tịch Nhì.
- Cứ tưởng anh em nó phe cánh với nhau chứ.
- Phe cũng chẳng bằng tiền. Phen này giết nhau thì có.
Giọng tưng tửng lão Bân kể thành hồi thành chương như kể Tam Quốc diễn nghĩa, mặc dù ai cũng đã lơ mơ ít nhiều biết chuyện. Chuyện rằng đám quan chức xã chắc hẳn vớ bẫm khi giải quyết đất cho làm sân gôn. Chủ tịch Nhì đầu trò vụ này nên rất quyết liệt trấn áp đám dân không chịu nhận tiền đền bù bán đất. Ai ngờ hôm trước lộ ra lão giáo Nhất, anh ruột chủ tịch, đứng đầu đơn khiếu nại lên huyện, lên tỉnh chứ ai. Sáng nay bảnh mắt ông em đã đến dọa đưa ông anh ra công an. Lão Nhất điên tiết vớ chày giã cốm đuổi đánh chủ tịch Nhì. Không có người can, khéo chừng anh em họ bữa nay thịt nhau.
- Đấy, đồng tiền đảo lộn nhân tình. Chả trách người ta gọi nó là đồng bạc.
Lão Bân hấp háy đôi mắt ranh mãnh buông một câu kết luận.
Sĩ Thái sư hỏi lấp lửng:
- Thằng Quân nhà ông nghe nói nhận tiền đền bù rồi kia mà?
- Nói làm gì cái thằng ngẩn ngơ ấy. Nghe người ta xui khôn xui dại nhận tiền buổi sáng, buổi chiều tôi bắt mang trả tắp lự. Định bán đất ra làm xe ôm ngoài tỉnh. Rõ ngu như chó. Tí đất ấy rau cháo cũng nuôi sống cả nhà nó, đời con, đời cháu mãi mãi. Bán đi vài chục triệu mua cái xe ôm, chỉ vắt mũi bỏ miệng được mình thần xác nó thôi. Vài năm xe rã vứt đi là tuyệt đường sinh sống.
Lão kép tư lự:
- Con cháu nó muốn đổi đời ông ạ. Cắm mặt xuống ruộng cũng khổ ngang kiếp con trâu, sung sướng gì?
- Đã đành. Nhưng cha ông tổ tiên mình sống đến giờ đều trông miếng đất ấy cả. Nay lấy đất nông nghiệp làm sân gôn phục vụ mấy thằng cha rửng mỡ, giúp cho mấy thằng đầu cơ hốt tiền, có khác gì nhà nước bòn nơi khố rách đãi nơi quần hồng kia chứ?
Một khi lão Bân giở món tranh luận ra, cấm ai theo kịp. Mặt lão nổi gân, mắt hiếng nhìn trời, tựa hồ lão không thèm đếm xỉa cái thằng đối thoại kém cỏi trước mặt. Trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, bị mỗi bệnh táo bón kinh niên nên lão hay nổi nóng lý sự thôi.
Nghe tiếng lão Bân nói như quát, con Mốc sợ hãi cố lê từ gầm bàn thờ trong nhà ra ngoài thềm... Gớm các ông ơi, chỉ giỏi võ mồm góc nhà. Dễ không sợ thằng công an xã con nhà Quảng à? Mà sao cứ làm như bị giằng lấy mất khúc xương thế? Thôi, kính các ông tranh cãi, con đi tìm hớp nước...
Khi qua chỗ các lão ngồi, con Mốc lấm lét giống người có lỗi. Lão kép nhìn thấy con Mốc vội gọi:
- Mốc, êu Mốc!
Con chó cái nghe chủ gọi dừng lại, đứng ì ra đó. Được lão kép vất đến tận mõm một cái bánh rán, nó ngửi qua, không ăn, chỉ ngước đôi mắt rầu rĩ ậng nước, nhìn đăm đắm vào mắt chủ. Ông ơi, ăn uống bây giờ chẳng được nữa rồi. Miệng đắng ngăn ngắt. Sắp tới sợ rằng con không còn nhìn thấy ông nữa thôi. Con mệnh hệ nào, xin ông tha lỗi cho con đã không hầu hạ bầu bạn cùng ông trọn tình trọn nghĩa. Nào con có muốn thế. Cũng do cái số phận hẩm hiu xui nên…
Con Mốc hức một tiếng rất khẽ, rồi từng bước lê đi, không một lần ngoảnh lại. Cứ đứng đấy nhìn chủ, nó thêm tan nát cõi lòng, khéo khóc mất.
Lão kép nhăn mặt nhìn theo con Mốc nghĩ ngợi, lẩm bẩm:
- Quái thật, con Mốc nghe chừng ốm quá.
Hai lão bạn mải tranh luận không để ý.
Con chó cái bỗng thèm chút mật ngọt trong chảo nấu kẹo nhà ông giáo Nhất. Nhà ông giáo cách đó một ngõ, nhưng giáp vườn nhà lão kép, bà giáo chuyên sản xuất món kẹo dồi, bánh cốm mạch nha. Hai cái chảo đại sau khi nấu mật trộn cốm xong, tầm này chúng được quẳng ra góc sân giếng, ngâm nước, bà giáo chưa rửa vội. Con Mốc thường lân la tới đó liếm láp chút nước ngọt trong chảo cho đỡ xót ruột. Hôm nay nó mệt đứt hơi, nhưng nghĩ đến chảo nước lại thèm cháy gan cháy ruột, cố liêu xiêu lê đi.
Chưa đến ngõ nhà ông giáo, nó bị đạp bắn vào gốc duối vì những bàn chân hùng hổ chạy qua. Khốn nạn, vội gì thế không biết? Theo bản năng nó định ngoặc răng vào bắp chân những kẻ thô lỗ, nhưng không còn đủ sức làm việc đó. Nó cố nén đau đớn nép vào bờ rào, vừa rên ư ử. Chao ôi, họ đang giằng xé nhau, hay đúng hơn họ đang giằng xé một bà cụ già áo quần tơi tả. Nếu con Mốc không kịp né ra xa sau cú đạp mạnh, họ giẫm bẹp ruột là cái chắc.

(còn nữa)
_____________________________________________-