Thứ Ba, 30 tháng 11, 2010

Xuân nữ

Truyện ngắng của DẠ NGÂN


Thường thường, trước khi cột dây xuồng vô chạt cây bình bát ở góc bến của chị, tôi phải nhóng xem hồi lâu. Hoặc cắm dầm ngóng nghe hoặc sẽ kêu lớn để đánh động: “Chị Xuân ơi, em lên chơi nè, được không?” Tôi thích cả hai trường hợp. Chị đang một mình thì chị em sẽ được riêng tư thỏa thuê còn như có ông nào trong nhà, tôi sẽ được ngắm cái ông may mắn sở hữu chị. Dám chắc tôi không phải kẻ tò mò duy nhất. Những người chưa quen biết sẽ cho xuồng từ từ trôi qua mong nhìn thấy một lần người đàn bà nguy hiểm; cánh đàn ông không xa lạ thì dần dừ dầm chèo hy vọng được mời mọc để bước lên và ngồi lâu. Đàn bà con gái ư, đa số xì xào sau lưng những lời muôn thuở của đàn bà, riêng tôi, tôi được trọng thị như một người bạn vong niên trong trẻo. Người đẹp nào cũng cảm nhận được quyền lực của mình nhưng không phải ai cũng tận dụng nó để làm ra lợi. Chị cảm động vì tôi và chính vì chị bình thản tự tại nên chị rất đặc biệt, tôi tin là vậy.

Gần bốn mươi năm đã trôi qua kể từ khi tôi biết chị lần đầu. Không cứ mọi ký ức chiến tranh đều đau buồn, u ám. Thời gian quá xa để những cơn ác mộng trong đêm thưa dần, để những con rắn con đỉa không khiến mình hét lên trước khi choàng tỉnh. Nhưng những gì tốt đẹp nhất thỉnh thoảng vẫn lóe lên, như những viên ngọc sắc nét trong bóng tối. Bữa cơm rụt rè đầu tiên ở nhà người đánh dấu chặng đời thoát ly; tiếng hát ai đó vút lên trong một buổi hoàng hôn dào dạt những đoàn xuồng, một câu thơ của Thâm Tâm gửi thầm theo chàng trai vừa khiến mình xao động… Và chị, chị là một phụ nữ thường dân khiến tôi day dứt tới tận hôm nay bởi ấn tượng khi chị xuất hiện, cái cách chị chấp nhận chiến tranh và cuối cùng là sự mất hút để phải rất nhiều tin đồn vương vãi như thể người ta đã tìm thấy xiêm áo, giày dép bên bờ sông trong câu chuyện về những thiếu phụ cả gan làm cho người đời phải nhắc đến.

Tôi thích vẻ chín muồi của chị ở quãng sau này hơn mặc dù lúc đó chị đã bị xoi mói nhiều hơn. Nhưng hãy nói về ấn tượng ban đầu trước đã. Một gương mặt có cạnh hàm hơi vuông nếu nhìn nghiêng. Không trái xoan không mũi dọc dừa không mày cong mi rậm môi hồng nhưng toàn bộ gương mặt đẹp vẻ đẹp đằm thắm, sáng rỡ. Gì nữa? Thêm làn da ngà ngà tươi, thêm chiếc cổ vươn cao trên chiếc áo bà ba khoét trễ, chị như một món quà giữa khung cảnh hoang tàn và bị dồn đuổi sau Tết Mậu Thân. Tôi tinh khôi mười tám tuổi, lần đầu tiên tôi thấy những người đàn ông trong nhóm của mình bất động như bị điểm huyệt trước một người đàn bà. Quá đẹp để nghẹn thở nghĩ về sự tàn khốc của chiến tranh đang có mặt ở quanh chị, khắp nơi. Đó là một buổi chiều điêu linh, nhóm đi Cứ chúng tôi đang dựng chòi trong biền lá dừa nước, vườn của dân phía trên đã bị thuốc khai hoang làm cho bình địa, biền lá la liệt những tàu lá chết vàng gãy gục. Du kích sống rải rác trong những căn chòi thấp phủ bằng những tàu lá chết, tất cả sự sống phải bị che đậy bằng cái chết của cả một biền lá để qua mắt lũ máy bay các loại quần thảo suốt ngày. Chị hiện ra, ở đường mòn có những bẹ dừa nước thả dài trên đất sình, chị giống một nàng tiên hơn là người thực giữa buổi chiều thê lương đó. Chị nói chị không thể chạy ra ven vì có một bà má mù lòa, chị phải bám trụ cùng với mấy người bà con trong đội du kích. Trong khi những người đàn ông nhóm tôi há hốc không nói nên lời, tôi đoán biết vì sao chị không chạy đi. Tản cư trong cảnh ra vô giữa hai vùng, nhất định chị sẽ không trót lọt được với những gã lính đồn đói khát nhiều thứ trong hàng rào kẽm gai, bằng như phải ra chợ kiếm sống thì chị cũng không thể yên ổn bởi nhan sắc của mình.

Dạo ấy chị mới chỉ có một anh bộ đội trên bàn thờ, người chồng nghe đâu quê tận U Minh. Từ chỗ chòi Cứ của mình tôi rải thêm một lớp bẹ dừa nữa để thật khô chân mỗi khi chạy qua chỗ chị. Những đọt dừa non đã bắt đầu le lói màu xanh trên một biển lá vàng. Chúng tôi giống những con còng thập thò trong hang trong lỗ. Những khi được thoát ra, tôi thích ngắm chị xắn cao quần đi từ mép lạch lên với chùm lưới cá trong tay, để lộ đôi đùi non miễn nhiễm với ô rô cóc kèn như thể trong da đã có chất kháng sinh. Tôi thích được múc nước trong cái khạp dội xuống mái tóc dài đen tuyền mỗi khi chị gội đầu bằng nước lắng tro - chúng tôi không có tiền và cũng không mua được xà bông, những lúc ấy cái cổ thanh thanh là tâm điểm của ánh mắt thán phục, không biết mô tả thế nào cho xứng. Càng thích hơn khi nhìn chị nghiêng nghiêng chải tóc trong áng chiều được thả lỏng, thời gian ngơi nghỉ như một cam kết bất thành văn của cả hai bên: lũ giặc trời thôi không tác oai nữa, các họng pháo ở chi khu cũng im miệng cho nguội nòng và quân lính của đối phương trong những cái đồn gần nhất cũng phải ăn uống tắm táp theo kiểu nào đó để tồn tại và dân đi Cứ chúng tôi rất thích la cà với dân bám trụ để thư giãn. Tôi chỉ có một địa chỉ duy nhất là chị, một bà góa phi thường hơn là đáng thương trong cảnh mẹ lòa, phải tự tìm ra con cá lá rau và đêm đêm còn phải lên đồng cuốc đất vãi mạ cấy gặt để có hột gạo lứt mà cầm cự với thời cuộc. Tôi thường hỏi, ở đâu ra nhan sắc này và ở đâu ra sự gan góc dường ấy?

Cuộc chiến ngày mỗi khốc liệt ngoài sức tưởng tượng của con người. Trước khi tình cờ gặp lại chị trên một bờ kênh rất xa vịnh nhà của chị, một con kênh thuộc quyền kiểm soát hoàn toàn của bên kháng chiến, đã đến tai tôi tiếng đồn về một Xuân nữ cao có số sát chồng, nguy hiểm còn hơn một tay bắn tỉa. Dung mạo, làn da, vóc dáng chị giống hệt bức ảnh người phụ nữ trên hộp thuốc Xuân nữ cao bổ âm thịnh hành thời đó và biệt danh ấy do ba người đàn ông trong nhóm của chúng tôi loan ra. Nó hơi sến nhưng nó vẫn có ý nghĩa nào đó về mặt tri ân, như một ghi nhận, như một liều thuốc. Phải nói rằng cuộc gặp lại của chị em tôi có không khí của người nhà, ai nói sao về chị, mặc, tôi vẫn say mê chị như ngày nào, thậm chí có phần sùng bái. Cuối cùng chị cũng đã phải bật gốc khỏi biền lá, thay vì chạy theo dân tản cư, chị bị cuốn vào bên trong cùng với những người kháng chiến, một thường dân cá biệt và nổi bật. “Nhà” của người bám trụ cũng chỉ là một mái chòi dưới một lùm cây bình bát sống sót, một chiếc bàn bằng cây tạp, một khuôn bếp, một bộ vạt tre cho dân đi Cứ lui tới làm khách và một tấm vách ngăn với chiếc giường của gia chủ bên trong. Bà má của chị trên bàn thờ nhìn tôi, người bộ đội đầu tiên của chị sau chiếc lư hương nhìn tôi và chị nhìn tôi, buồn rầu. Chính vì vậy mà chị mặn mà hơn, không sao cưỡng nổi. Chị bảo con cá lá rau của lung Ngọc Hoàng này không bỏ đói ai cả, chị biết cầm phảng phát đất cấy lúa, cũng qua ngày đoạn bữa như thường. Tôi biết rõ cái nết nhẫn chịu của chị với bom đạn giặc giã, nó không có gì đáng nói trong câu chuyện của chiến tranh, nó quen thuộc như mở mắt ra là cụ bị đồ lề để có thể lát nữa sẽ phải xuống xuồng chui rúc tránh né cuộc càn, nếu chuyện đó không diễn ra thì canh chừng bom pháo cho đến lúc chiều xuống mới ra đồng phát cỏ cấy trồng hay bắt cá lượm ốc hái rau qua ngày. Duy có một điều tôi muốn chính chị liệt kê ra nhưng lại không dám hỏi. Nghe đâu chị đã có tới ba người trong một năm, cả ba đều được ra mắt chính thức với mấy người quen trong Cứ và dĩ nhiên, người đi thì đi luôn, chỉ có giấy báo tử quay về. Là nhà báo, tôi biết mặt họ hết, cả ba đều là sĩ quan cấp tiểu đoàn, một người quê ở Bến Tre, một người quê Rạch Giá còn người kia là dân Bạc Liêu. Khí phách và sự phóng túng của những sĩ quan chủ lực miền thì khỏi phải nói nhưng họ biết mà vẫn lần lượt đâm đầu vào để chết, liệu có nên không? Nhưng mà, khi đã đứng trước chị thì chính tôi cũng muốn bế bổng chị lên để hít hà mặc mọi chuyện ra sao thì ra, mặc hết.

Vẫn cái bếp có khuôn cắm bằng cây tạp, chị không chịu ngồi bếp xổm bao giờ. Vẫn cái giàn để hong những cây củi chặt ra bằng ngăn ngắt. Vẫn cái ấm nước gạo rang đặc biệt uống bằng chén, hầu như chúng tôi không có trà bao giờ, nhưng nước gạo rang chỗ chị vàng nhất và cũng thơm nhất. Có lẽ đàn bà đẹp thì cái gì cũng thơm và làm gì cũng thấy có lý. Vẫn cái cách chải tóc cẩn thận sau một ngày lấm láp, dáng đứng không lả lơi nhưng cực kỳ gợi cảm. Tôi đã thấy lại chị, một cái nụ câm trước một bông hoa đã nở tràn nhưng trong tôi đâu chỉ dừng lại ở sự thân thiết giản đơn đó. Tôi thích có chị trong tầm mắt, người ta đàm tiếu bao nhiêu thì tôi càng muốn biết thực sự chị dễ yêu và dễ gắn với đàn ông chiến trận là vì lẽ gì, lực hấp dẫn trai tài gái sắc, hay thuần túy đàn ông đàn bà, hay hàm chứa một sứ mệnh bí ẩn? Chị thường tình gái góa hay chị là một câu đố, một bài toán khó?

Một lần, một người đàn ông ngồi trên gờ cây bình bát trước cửa chòi của chị thôi thúc tôi ghé lại. Tôi ngờ ngợ, tôi có biết người này không? Lực lưỡng, tóc xoăn, da ngăm, miệng rộng, nhìn qua cũng biết lại một anh bộ đội chủ lực miền, họ rất khác với cánh cán bộ dân chính hay du kích hay địa phương quân. Tôi đã nhớ ra, anh từng đóng quân trong vườn nhà tôi, thần tượng âm thầm thời thiếu nữ của tôi và thật nực cười, tình cảm ấy bỗng dưng kết thúc khi vợ của anh từ Đầm Dơi đánh đường lên đơn vị thăm anh, một người phụ nữ trẻ không gây được ấn tượng nào ngoài cái sự trẻ. Vợ anh tầm thường đâu phải lỗi của anh nhưng tôi cũng không còn tôn thờ anh nữa. Đã nói đó là tình cảm bốc đồng của tuổi dậy thì mà lại. Sau đó, tên tuổi anh vang dội lên mãi, từ đại đội trưởng rồi tiểu đoàn phó và không chừng, lúc mắc kẹt trên gờ cây bình bát này, anh đã tiểu đoàn trưởng rồi cũng nên. Thiệt là, tôi muốn kêu lên với bà chị của mình, chị không khước từ bất kỳ ai hết, phải không? Anh ta đang giũa một cây lược cài tóc từ một mảnh nhôm máy bay, cánh bộ đội rất tài ở những ngón này: đàn hát, tấu hài, bắt rắn mò tôm và những trò thủ công từ tấm kính cho cây đèn pin, hay khắc bông lên cây kẹp tóc, hay biến một chai cồn thành cây đèn dầu có nắp dùng để bắt muỗi trong mùng… “Anh dân trung đoàn Một từng chà xát ở Long Mỹ, đúng không?” - tôi hỏi gặng để khiến anh ta nhớ tôi là ai. Nhưng hoặc là tôi đã lớn bổng lên không thể nhận ra cô bé hay trèo cây dưới vườn dừa, hoặc Xuân nữ của tôi đã làm mờ mắt anh ta. “Bộ dạng tui có đóng dấu trung đoàn sao? Chị Xuân cô ở trên nhà, cô lên uống nước đi!” Tôi cột xuồng, bước gấp lên, tôi bắt gặp chị sau vách chòi, chỗ chị đang múc nước từ khạp đổ vô ấm. “Chắc chắn ông nầy có vợ rồi chị ơi!” Chị bình tĩnh, khẽ cau mày, chị không từ bà mẹ mù lòa đã ra người thiên cổ kia, chị cũng không phải sản phẩm của sình bùn, chị thuộc về bí ẩn của tạo hóa ở cái cách cau mày nầy. “Có chắc không?” - chị thờ ơ hỏi lại. “Em biết rành, vợ anh nầy dân Đầm Dơi, không xấu không đẹp nhưng mà…” Chị nghiêm trang: “Người ta trận mạc, đừng có khắt khe!” Tôi không chịu lùi: “Còn quân phong quân kỷ, ảnh bỏ ngũ luôn à?” Chị đưa tôi cái ấm để vấn lại mái tóc, hai cánh tay thon dài như đang cử hành một vũ điệu: “Đừng lo, ảnh đã ở mấy ngày nay. Tối nay em ở lại chơi, chị em mình liên hoan tiễn một người trở lại đơn vị, nghen? Có lịnh điều quân lên Châu Thành Cần Thơ rồi, chắc khó về lắm”. Nếu quãng đời làm báo trong chiến tranh có khoảnh khắc nào khiến tôi do dự và dễ đầu hàng nhất thì chính là giây phút này, khi sự khẩn khoản khiến chị đẹp lịm đi. Chị bảo tôi nhóm lửa nấu nước, còn chị thì bước ra và ngồi xuống tình tứ bên mép kênh với người đàn ông sắp đi vào tuyến lửa. Năm đó để giành thế thượng phong ở bàn Hội nghị bốn bên, Hà Nội tin mật vào rằng phải vừa đánh vừa đàm, động viên tổng lực, mọi người dân đều phải được huy động, không chừa một ai.

Tôi tìm mọi cách dõi theo người đàn ông thứ năm ấy và không ngạc nhiên khi nghe anh đã nằm xuống trong một trận thư hùng dữ dội ở Phong Điền Cần Thơ. Không ngạc nhiên nhưng càng hình dung càng bứt rứt. Tóc xoăn, ngăm đen, ngang tàng, sức vóc, khéo tay, hoạt khẩu… Đã bị chôn xuống đất đen một con người như vậy, đã kết thúc dễ dàng một cuộc đời như vậy sao? Liệu Xuân nữ đã hay tin này chưa, lần này nhất định tôi phải chứng kiến sự đón nhận khắc nghiệt này. Bốn lần trước tôi chỉ tưởng tượng ra, chị đau khổ kiểu gì với ba cái giấy báo tử trong một năm và chị là người hay sắt đá mà không biết sợ cái tờ giấy ấy? Chị không có nốt ruồi nào trên mặt, nốt ruồi sát phu càng không, còn cái tướng sát phu là tướng gì và nó ra làm sao hở trời? Tôi sẽ lột trần chị ra, nếu được, chị không má bầu không hồng hồng dâm đãng, vậy chị liên tục cần đàn ông để làm gì, chị cần một đứa con ư, sao cứ nhè các chàng sĩ quan ấy để phải ra nông nỗi cho cả hai bên? Chị đón tôi bằng ánh mắt đỏ hoe và quần áo tóc tai vẫn trang trọng như thường. Chị bày trên tấm vạt những kỷ vật, anh Thứ Hai một bức ảnh bán thân từ thời anh là học sinh chợ huyện trước khi về quê đăng lính, anh Thứ Ba một cái gương cầm tay có khắc hai con bồ câu kề mỏ vào nhau sau lớp thủy, anh Thứ Tư một tấm vải dù chị đã thêu tên anh bằng chỉ đỏ vào góc khăn. Chị cầm lên cây lược cài tóc của anh Thứ Năm, dùng cả hai tay từ từ cài nó lên và lặng lẽ nhìn tôi, chị khóc không thành tiếng, nước mắt lã chã đầm đìa, Xuân nữ của tôi, khóc cũng không giống ai, khóc cũng đẹp thì có chết người ta không chứ! Mọi ý định của tôi đều không nỡ, ngay cả câu chất vấn vì sao chị không đưa họ lên bàn thờ cũng không thể nữa, một cách dàn hàng ngang như vậy để làm gì, có ích cho ai?

Tôi ra vô với chị thường hơn khi có dịp. Chủ trương vừa đánh vừa đàm của Hà Nội đã khiến cho vùng kháng chiến mở ra, từng tháng một. Lung Ngọc Hoàng nườm nượp người và xuồng ghe. Cũng có nghĩa là đàn ông con trai đi qua cái bến cây bình bát của chị đã dập dìu hơn. Đến người Thứ Sáu thì tôi không chậm chân nữa, tôi phát hiện ra ngay và tôi đã xộc lên chòi, tôi kéo chị ra xa, tôi xoay chị bằng hai bàn tay giận dữ và tôi dồn chị như một quan tòa: “Chị tu đi, chị xuống tóc đi, chị đừng khiến người ta lui tới sập sận nữa! Chết chóc đủ rồi, tai tiếng đủ rồi, chị có biết người ta nói gì sau lưng mình không? Chị đâu còn trẻ nữa, già không bỏ nhỏ không tha là sao? Chị không thấy anh chàng nầy trai tơ ngơ ngác hay sao? Chị từ chối đi, chị làm cứng đi, chị xua đuổi anh ta đi, chị phải để người ta sống mà trở về với ba má người ta, gần kết thúc rồi, gần lắm rồi, không lâu nữa đâu, chị hiểu không?” Chị giang tay tát thẳng vào mặt tôi, trân trối nhìn, nhịp thở dồn dập lên ngực: “Em mà cũng nói cái giọng đó hả? Không chị em gì nữa, kệ chị”.

Tôi đã nói những gì vậy hở trời, xét cho cùng chị có lỗi gì đâu. Không biết chàng trai búng ra sữa kia để lại cho chị kỷ vật gì. Mỗi người là một cơn bão chứ không phải là chồng hay người tình nữa. Sau này, khi ký ức đã thành những thớt vỉa trong tôi, mỗi lần bóc chúng lên là mỗi lần tôi nhìn sâu hơn vào thớ quặng của chúng, tôi hiểu chị thấu đáo dần. Trời sinh ra những người đàn bà đẹp để làm gì? Họ là những ánh chớp cho ta thấy cả đất và trời trong một lúc nào đó, không hư vô thường tình chút nào, lúc đó. Rồi mọi thứ sẽ trở lại đều đều, quân bình, nhàm chán, thậm chí tẻ nhạt. Nó, những tia chớp giật ấy là hiểm họa mà cũng là tài năng phải có trong cuộc đời này, không dành riêng cho ai cả.

Người Thứ Bảy đang cùng chị hiện ra trước mắt tôi trên một chiếc xuồng. Lúc này chị đã dời lên kênh Long Phụng, giữa lung Ngọc Hoàng, chắc lại là một mái chòi nho nhỏ, có chiếc bàn và ấm nước gạo rang uống bằng chén, có khuôn bếp đứng nấu, có bộ vạt hiếu khách và có căn buồng với những chiếc gối xinh xinh để đêm đêm chị thả người xuống, tung mái tóc dài ra, hai cánh tay thon nuột chờ đợi dịu dàng; tôi hình dung chị sẽ không bốc lửa ma quái mà luôn luôn cao nhã, ân cần, dâng hiến, ngầy ngà. Không khí tháng Tư năm Bảy lăm cấp rấp ở khắp nơi, dào dạt hy vọng ở khắp nơi. Người đàn ông đứng tuổi cầm chèo, chị ngồi mũi và quay mặt về phía ông ta, chiếc xuồng lướt đi hối hả. Tôi hét lên vui mừng, chúng tôi giận nhau và xa cách nhau như thế đủ rồi, đã ngửi thấy mùi chiến thắng rồi, một người đàn ông cuối cùng cho chị, không đáng mừng sao? Chị chờ xuồng tôi chạm vào rồi mới nhỏ nhẻ: “Chị đưa anh Tư ra kinh xáng rồi về. Ra đó nhiều ghe máy ra hướng Ngã Bảy, anh quá giang dễ hơn. Anh rượt theo đơn vị mà, em!” Chị nhìn người đàn ông của mình, âu yếm, buồn thương. Không khí nước rút bao bọc chị, nó khiến chị đằm thắm, từng trải hơn nhưng cũng da diết hơn trong giây phút lặp lại kẻ ở người đi, biết đâu, lại là đi mãi nữa? Tôi biết người Thứ Bảy này nhưng ông ấy lại không biết điều đó. Ông là vị chỉ huy tài ba của tiểu đoàn chủ lực danh tiếng tỉnh nhà, mắc mớ gì đó với tỉnh đội nên có ý định bỏ ngang. Dù sao ông ta cũng đang trở lại chiến trường, nói theo cách nói thời đó, là không viện cớ bất mãn để nằm dài, chờ thời, bảo mạng. Tôi lướt xuồng đi, mấy lần ngoảnh nhìn. Đáp lại nụ cười ma mãnh của tôi, chị vẫn nghiêm trang như trước nay, mặt có tươi lên đôi chút.

*

“Chị đi tu đi, sao chị không xuống tóc đi cho thiên hạ nhờ!” Tôi đã nói những gì, tôi đã nhân danh gì, nhà đạo đức, sự ghen tuông hay lòng đố kỵ? Tôi day dứt mãi, chị đã biến mất ngay khi người đàn ông ấy ngã xuống trong ngày 30 tháng Tư ở cửa ngõ vào Cần Thơ. Không làm sao lần ra được dấu vết của chị. Cho tới tận hôm nay, nhiều lúc bất chợt gặp một cái cằm hơi vuông nhìn nghiêng bên vành khăn sư nữ hay một dáng đi thanh thoát trong nếp áo nâu sồng, tôi vẫn thắt tim hy vọng. Có phải chị đó không, Xuân nữ? Nhưng chắc gì trời đã để chị chọn đường tu, có khi chị đã về với trời xanh và mây trắng, đã xong một sứ mệnh và một đời người, thôi thì cứ nghĩ vậy cho thanh thản. Cuộc sống đã lại đều đều, nhàm chán, thậm chí là tẻ nhạt quá rồi, chị ơi!

D.N
_________________________________________________

Trái đôi Xuân Diệu, Huy Cận với Tự Lực Văn Đoàn

CÙ HUY HÀ VŨ

Lấy chăn che phủ ghế chui qua/ Ngăn bàn thích lục, tranh gà thích xem/ Xếp rồi cháu lại đảo lên/ Có hôm bác phải mười phen dọn nhà” (1), ấy là câu thơ của Xuân Diệu tả chú cu Vũ đang biến cuộc sống văn chương ngăn nắp của ông tại 24 Cột Cờ (nay là Điện Biên Phủ, Hà Nội) thành một trật tự thế giới mới, trật tự của những sự đảo lộn. Và Xuân Diệu đã tôn trọng cái “nền giáo dục tự thân và tự giác” ấy của tôi như điều kiện tiên quyết để hình thành nhân cách tri thức.
Về phần mình, đơn giản tôi nghĩ là nếu không có người bác và là người cha nuôi thân yêu ấy thì làm sao tôi có thể hình dung nổi thuở bé thơ của mình. Nói cách khác, các bậc phụ huynh chính là những người đầu tiên chép sử con cái của họ. Sau khi đã mệt nhoài với những kiến tạo thế giới theo cách của mình, lại nằm co vào lòng bác tôi để thiu thiu thực hành một nền học vấn không tự giác hay vô thức qua lời ru của ông với “Phụ tử tình thâm” và những câu hát giọng Nghệ Tĩnh.
Đôi khi thảng thốt tôi tỉnh dậy và mở mắt ra (cũng dễ hiểu vì giấc ngủ chớm trưa không thật sâu) thì vẫn thấy bác Diệu tôi ngồi đó, tựa lưng vào thành giường, lời ru không còn thành tiếng nhưng vẫn nhận biết được nhờ những nhịp vỗ khẽ lên tôi, cái nhìn trở nên xa xăm, chốc chốc ông lại nhìn xuống nhoẻn cười với tôi nhưng vẫn với cái xa xăm ấy. Khi chớm tuổi đến trường thì chiến tranh đã lan ra miền Bắc và thế là tôi phải xa gia đình đi sơ tán, tất nhiên không ngậm ngùi như cậu bé Rémy của Hecto Malo.
Thực vậy, liên hệ giữa tôi và gia đình hầu như không bị gián đoạn, vì cứ vào cuối tuần bác tôi lại xắn quần đạp xe 30km về thăm tôi tại chùa Thầy. Chính vào những đêm đầy sao trên bờ thửa cánh đồng nơi sơ tán mà tôi được Xuân Diệu truyền cho cái vi diệu của những áng văn cổ: hết Nguyễn Khuyến, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương lại đến Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm và trở đi trở lại là Truyện Kiều của Nguyễn Du, đại văn hào cùng quê Hà Tĩnh. Nhưng lúc đó tôi đến với văn học một cách bán ý thức: có thấy được cái Hay, cái Đẹp nhưng lại không cố tìm hiểu hết nghĩa mà những con chữ lung linh như những vì sao kia chuyển tải. Vào tuổi thành niên, sự tò mò cao độ của tôi về bản ngã may mắn thay lại được thỏa mãn với sự hiện diện Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Dọc đường gió bụi, Tiêu sơn tráng sĩ trong tủ sách của bác tôi.
Những pho truyện tình cảm đó của Tự Lực Văn Đoàn thời ấy bị liệt vào “sách cấm”, ấy vậy mà bác tôi không cản tôi đọc, thậm chí còn giảng giải là đằng khác. Tôi còn nhớ bác tôi tấm tắc mãi với bố tôi, Huy Cận, câu của Phạm Thái - người câu cá: “Chí lớn trong thiên hạ không đựng đầy trong hai con mắt mỹ nhân”.
Thật lạ, đọc những truyện ấy tôi cũng thấy thú vị như khi đọc những mẩu truyện về các anh hùng dân tộc và cách mạng. Không những tôi không cảm thấy bi lụy, buồn chán với những cuộc tình ảo não, vô vọng mà còn hứng khởi trước những tình cảm mới mẻ, rất có cá tính, điều mà tôi không cảm nhận được một cách rõ ràng từ nền giáo dục đương thời. Cũng có thể tôi không còn ở cái thời đại của những con người “tiểu tư sản” nào đó sống không có mục đích rõ rệt đâm ra chán đời. Nhưng trong bối cảnh cuộc chiến vẫn tiếp diễn, cái “tập thể” dường như từ chỗ nhân danh đã đi đến gần như thay thế hẳn cái “riêng”, cái “cá nhân” chí ít trên bình diện xã hội, nên những cái gì giúp tôi “giải mã” được những cái “cảm” của trẻ trai mới lớn thật sự làm tôi khoan khoái.
Mặt khác, cũng phải nói rằng những tình cảm nhân đạo của những Anh phải sống, Gánh hàng hoa, Đời mưa gió... trong một chừng mực nhất định có thể là động lực giúp ta thành những anh hùng vô danh với những hành động nghĩa hiệp giữa đời thường mà lòng tự hào hẳn cũng không kém gì lòng tự hào của những anh hùng được toàn thể xã hội công nhận.
Rồi những cuốn truyện lãng mạn ấy bắc cầu cho tôi đến với Thơ Thơ, Gửi hương cho gió, Lửa thiêng - những thi phẩm trước cách mạng hay còn gọi là “tiền chiến” của bác tôi và bố tôi. Tưởng như có vẻ ngược đời nhưng là sự thật. Và rồi tôi mới vỡ ra rằng, xét theo hoàn cảnh tôi lại là người chậm chân đến với những giá trị tinh thần của những người thân yêu nhất của tôi, vì trong đáy ba lô của bao con người trẻ tuổi trên những nẻo đường chiến tranh có những dòng nắn nót chép thơ tình Xuân Diệu, những Tràng giang, Vạn lý tình, Ngậm ngùi, Áo trắng của Huy Cận. Đến đây thì dẫu trí có non nớt, tôi vẫn khẳng định được rằng cái Văn đoàn ấy một khi đã “tạo” ra những Xuân Diệu, Huy Cận thì không “tiêu cực” như tôi được hiểu bấy lâu nay.
Thế là lần theo hai “chứng nhân - người nhà” ấy tôi đi tìm diện mạo Tự Lực Văn Đoàn trong phạm vi “lịch sử tình yêu” giữa thể chế văn chương này với các thành viên sáng lập và Xuân Diệu, Huy Cận. Để nói rằng lần này thì tôi đến với văn chương, dù dưới khía cạnh sử học, một cách chủ động, hay đúng hơn là có ý thức. Lẽ dĩ nhiên cuộc tình nào cũng không tránh khỏi những bề trầm, những éo le của nó.
Tự Lực Văn Đoàn được sáng lập năm 1933 bởi nhóm làm báo Phong Hóa gồm 7 người: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ và Nguyễn Gia Trí, có trụ sở tại 80 Grand-Bouddha (nay là Quán Thánh) Hà Nội. Nhóm này chủ trương “tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không phiên dịch sách nước ngoài để làm giàu thêm văn sản trong nước”, “ca tụng những nét hay, vẻ đẹp của nước nhà mà có tính cách bình dân, khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính cách trưởng giả quý phái” và nhất là “trọng tự do cá nhân”.
Con số 7 gắn với mục đích văn chương này gợi nhớ tới Pléiade gồm 7 nhà thơ của Pháp thế kỷ thứ XVI do Ronsard và Du Bellay cầm chịch, nhưng Tự Lực Văn Đoàn chỉ được coi là bản sao của Thất tinh Pháp với sự gia nhập của Xuân Diệu. “Và từ đây chúng ta đã có Xuân Diệu”, lời reo vui ấy của Thế Lữ trong tựa Thơ Thơ cũng chính là sự hoan nghênh nhiệt liệt của nhóm Tự Lực dành cho chàng thi sĩ “hiền hậu và say mê” được khám phá bởi chính họ.
Quả vậy, Xuân Diệu ra mắt công chúng với Với bàn tay ấy in trên báo Phong Hóa năm 1935 khi còn là cậu học sinh Lycée (trung học) Khải Định. Và Thế Lữ chính là người có “con mắt xanh” phát hiện ra và hơn thế nữa hết lòng tuyên truyền cho tài nhân ấy.
Giở lại trang thư của tác giả Nhớ rừng gửi Xuân Diệu từ năm 1936, ta có thể đọc: “Lúc nào nghĩ đến anh, hay nói đến anh trước mặt bạn hữu tôi đều thấy vui vẻ sung sướng như nghĩ đến, nói đến một thứ tài trong trẻo và có hy vọng rất nhiều. Nhiều lần tôi đọc thơ anh cho người khác nghe để giảng dẫn cho họ thấy những tình cảm rất tươi thắm mà chưa nhà thi sĩ Việt Nam nào phô diễn ra được. Tôi tin ở tài anh lắm và lúc nào cũng mong được đọc thơ anh gởi ra”. Như thể “chúa rừng Thơ Mới” thoạt kỳ thủy giờ đã hết phải ngậm ngùi “thời oanh liệt nay còn đâu” vì đã tìm ra được kẻ xứng đáng kế tục mình trong công cuộc chinh phục hoàn toàn chốn “thi lâm”. Rồi “Thấy anh được thưởng giải Nhất về Pháp văn ở Concours Général (Giải toàn Đông Dương mà hai năm sau, 1938, Huy Cận cũng đạt được - CHHV), tôi rất sung sướng, nhưng không lấy gì làm lạ, Xuân Diệu giỏi hơn các bạn học về văn chương là việc dĩ nhiên rồi. Tôi mong sao công việc trước tác của anh sau này cũng rực rỡ như thế”.
Ôi, những tình cảm đẹp đẽ và đầy ánh sáng như thế của bậc đàn anh đối với những người đến sau trong làng văn có còn gặp lại ru! Không chỉ dừng lại đấy, Thế Lữ “chộp” lấy “tài trong trẻo và có hy vọng rất nhiều” ấy để gây thanh thế cho Tự Lực ngay từ khi chàng vừa đỗ Bac (tú tài) vào tháng 6 năm 1937 với lời mời gọi thiết tha: “Anh Xuân Diệu. Anh có thể ra ngay Hà Nội được không? Ra để liệu tìm cách sống ở đây, nghĩa là để lăn lóc vất vả cùng với bạn hữu”. Và dường như để khẳng định cái “nghiệp”, ông tiếp: “Viết bài “kiếm ăn” được ít, nhưng có lẽ đó là thứ công việc hợp với chúng ta hơn”. “Được lời như cởi tấm lòng”, Xuân Diệu từ Huế ra Hà Nội và xắn tay viết cho báo Ngày Nay của Tự Lực và năm sau chính thức “se duyên” cùng Văn Đoàn với tư cách là thành viên thứ 8.
Sự nhiệt tình, cái sốt sắng ấy của Tự Lực đối với Xuân Diệu cũng là tình cảm chung của nhiều nhóm thi nhân cùng thời với thi sĩ họ Ngô, có thể nói trở thành đối tượng “giành giật” của các nhóm đó. Chính Hàn Mặc Tử đã bàn với Chế Lan Viên ngay từ tháng 1 năm 1938 là mời cho bằng được Xuân Diệu để lập một Thi Xã tên là Hoàng Anh Tao Đàn với mục đích “nâng cao trình độ thơ mới và tuyển trạch nhân tài”. Cái Thi Xã ấy của “ba chàng ngự lâm pháo thủ” xứ Bình Định mãi mãi là dự định vì bản thân Chế đã cảm nhận được sự gắn bó của Xuân Diệu với Thất tinh Hà Nội và vì vậy thi sĩ họ Hàn lấy làm “tiếc lắm”.
Cũng cần nhắc lại rằng Tự Lực Văn Đoàn, ngoài các báo Phong Hóa và Ngày Nay (2), còn sở hữu Nhà xuất bản Đời Nay, một nhà xuất bản lấy “tìm tòi những nhà văn có giá trị, khuyến khích họ làm cho nhà văn và tác phẩm được nhiều người biết đến” là phương châm. Vì thế có gì đáng ngạc nhiên Thơ Thơ, Cụm đầu mùa của Xuân Diệu là do Đời Nay ấn hành để trân trọng giới thiệu cùng nhân gian. Thơ, ấy chính là cái gạch nối giữa thi nhân họ Ngô và Tao Đàn và được thể hiện không gì rõ hơn ở ngay chính tiêu đề: Xuân Diệu - Thơ Thơ - Tự Lực Văn Đoàn.
Ngược lại, chẳng có gì là lạ khi Xuân Diệu đề tặng các thành viên của “Gia đình văn chương” của mình những bài thơ khoái cảm nhất của ông: Cảm xúc tặng Thế Lữ, Đây mùa thu tới tặng Nhất Linh, Đi thuyền tặng Khái Hưng, Vô biên tặng Hoàng Đạo, Nhị hồ tặng Thạch Lam, Giới thiệu tặng Tú Mỡ, Đơn sơ tặng Gia Trí. Thế nhưng có người vồ lấy cái tiêu đề ấy, những lời đề tặng ấy để nói Xuân Diệu là người cạn nghĩa cạn tình khi “cạo hẳn” dòng chữ Tự Lực Văn Đoàn trong Thơ Thơ in lần thứ hai và những lời đề tặng Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo trong những ấn phẩm sau này của ông. Thực ra ai nói như vậy không phải là người nghiên cứu đến nơi đến chốn. Vì bên cạnh Tự Lực, Xuân Diệu đã có Huy Cận.
Vốn vô cùng mê say Với bàn tay ấy, Huy Cận thì có thể mừng rỡ được gặp lại thi nhân cùng quê Hà Tĩnh hơn mình hai lớp trong buổi tựu trường Lycée Khải Định (Quốc học cũ) tháng 9 năm 1936. Ngay lập tức hai hồn thơ gắn với nhau như định mệnh để rồi có những dự định riêng mãi mãi. Một trong những dự định ấy là xuất bản các tác phẩm của hai người bằng tiền túi của mình. “Huy Xuân” như một nhà xuất bản đã ra đời như thế vào cuối năm 1939 ngay sau khi Huy Cận vào học Cao đẳng Canh Nông với nguồn tài chính và nhuận bút viết báo của Xuân và học bổng hạn hẹp của Huy. Và sản phẩm đầu tiên của cái “Nhà” ấy lại là Thơ Thơ. Lần tái bản này, quả thực không còn dòng chữ “Tự Lực Văn Đoàn” nữa.
Chúng ta đã biết rằng Đời Nay có thể nói là độc quyền xuất bản các tác phẩm của thành viên Tự Lực. Vì vậy, trước khi thực hiện dự định, đôi bạn Huy-Xuân đã rủ nhau đến gặp Ban trị sự Đời Nay để có được sự thông cảm thì được sự nhũn nhặn trả lời rằng việc các ông tái bản Thơ Thơ ở nơi khác dĩ nhiên là quyền của các ông nhưng trong trường hợp đó đừng để Tự Lực Văn Đoàn vào sách thì lý lẽ đã rõ. Vậy là vẹn cả đôi bề.
Cũng phải nói ngay rằng Thơ Thơ là ấn phẩm duy nhất của “Huy-Xuân” vì hai dự định khác là xuất bản Tây sương ký do Nhượng Tống dịch (đã trả nhuận bút) và tái bản Phấn thông vàng đã không thành, đơn giản là vì ngay sau Tết 1940, Xuân Diệu đã rời Hà Nội vào Mỹ Tho làm Tham tá nhà Đoan (Douanne - tiếng Pháp là quan thuế). Điều đáng nói ở đây là thái độ “làm ngơ” đầy thông cảm của các thành viên còn lại trong nhóm bởi họ quá yêu Xuân Diệu cùng bạn chàng, Huy Cận. Điều đáng chú ý là các thủ lĩnh của Tự Lực Văn Đoàn rất có cảm tình với Huy Cận trước hết là do tài thơ của ông vì khi đăng Chiều xưa, thi phẩm đầu tiên của Huy Cận trên Ngày Nay cùng một khung với bài Cảm xúc của Xuân Diệu trong số Tết năm 1938, họ vẫn chưa biết Xuân Diệu và Huy Cận đã là một đôi bạn tri kỷ. Thực vậy, nhận được bài thơ của Huy Cận từ Huế gửi ra, Xuân Diệu lại không làm cái việc “lăng xê” bạn mình như người đời thường làm bằng cách cầm bài thơ đến gặp Nhất Linh hay Thế Lữ là người phụ trách mục thơ của báo mà lại gửi bằng bưu điện đến.
Vậy là chỉ sau khi Huy Cận đã được “làng” Tự Lực “duyệt” với bài Chiều xưa rồi, nhân đầu năm mới Xuân Diệu mới đưa “người thi sĩ lành như suối nước ngọt, hiền như cái lá xanh” ấy lần đầu tiên ra đất ngàn năm văn vật và cũng là lần đầu thăm đất Bắc, đến 80 Quán Thánh để chào các thành viên của cái Văn đàn “khét tiếng” đấu tranh cho một nền văn chương mới và nhân bản ấy. Đến chào theo đúng nghĩa đen của từ này vì Huy Cận không mang theo bài thơ mới nào hết. Và Huy Cận đã may mắn gặp được tất cả, đặc biệt Nhất Linh và Thế Lữ mà ông đã từng đọc và học rất nhiều. Ngay khi mới gặp chàng Huy, Nhất Linh (tên thật là Nguyễn Tường Tam) hạ ngay: “Bài Chiều xưa của anh hay lắm, rất cổ mà lại rất mới”. Và như để chứng minh cái tâm đắc của mình, Nhất Linh đọc một hơi bài thơ ấy trước sự ngỡ ngàng của tác giả rồi nói ngay rằng Huy Cận cứ gửi thơ ra là Ngày Nay sẽ đăng.
Rõ là một cú “đúp” thành công của thi nhân họ Cù: không những ông được vị thủ lĩnh Tao Đàn hoan nghênh nhiệt liệt mà thơ của mình từ nay không sợ không có “đầu ra”, không nghi ngờ gì nữa, thái độ nể phục ấy của vị chánh chủ khảo Giải thưởng Tự Lực Văn Đoàn có giá trị như vòng nguyệt quế đầu tiên mà Huy Cận được nhận trong đời của mình.
Sau này, khi ở Sài Gòn, Nhất Linh còn khẳng định rằng về lục bát, “Huy Cận là hậu duệ của Nguyễn Du!”. Khái Hưng, Tú Mỡ, Hoàng Đạo, Thạch Lam và Nguyễn Gia Trí cũng chỉ có thể chia sẻ quan điểm của văn nhân họ Nguyễn. Đặc biệt Khái Hưng, cũng như Nhất Linh, rất đề cao thơ Huy Cận, ông còn nói với Nguyễn Hữu Đang lúc đó hoạt động trong hội truyền bá Quốc ngữ “Huy Cận hay từng bài, từng câu từng chữ”. Thế Lữ thì lại trách Xuân Diệu sao không đưa bài thơ ấy trực tiếp cho ông mà lại vòng vèo thế. “Là vì - Xuân Diệu đáp – tôi muốn xem giá trị thực của bài thơ thế nào chứ tự tôi đưa đến e mất khách quan”.
Ngẫm lại, quả thi nhân họ Ngô ngay từ khi còn măng tơ đã là một bậc thầy trong đối nhân xử thế trên căn bản biết mình, biết bạn và biết người. Là kẻ “tri âm”, Xuân Diệu muốn bạn mình “hữu xạ tự nhiên hương”, hay mượn cách nói thời thượng, muốn Tự Lực “tâm phục khẩu phục”. Cái tâm của chàng Xuân dường như đã thấu tới ông trời nên vô tình mà như hữu ý sự “trình làng” của chàng Huy trên Ngày Nay lại được xếp cặp với chàng Xuân. Như thể Tự Lực đã tiên liệu cỗ song mã Huy - Xuân ấy là cách đưa Thơ Mới đến với nhân gian một cách lộng lẫy nhất.
Kỳ vọng của Xuân Diệu nơi Huy Cận đã được đền đáp: Lửa Thiêng đã được Đời Nay cho ra mắt bạn đọc vào năm 1940 với 3000 bản, một số lượng vào loại kỷ lục vào thời đó. Hơn thế nữa, Tự Lực Văn Đoàn đã quyết định kết nạp thi sĩ họ Cù và lịch sử văn chương Việt Nam lẽ ra biết tới thành viên thứ chín của Tao Đàn ấy nếu không có những biến cố chính trị xảy ra gắn liền với cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ II. Sự nuối tiếc của Huy Cận vì đã không kịp trở thành thành viên chính thức của Tự Lực Văn Đoàn không phải đợi đến hôm nay mới được ông thổ lộ với tôi mà đã được bộc lộ từ lâu ở ngay trong dòng chú thích “T.L.V.Đ” do tay ông viết bên cạnh tên mình trong tờ quảng cáo Nhà xuất bản Đời Nay in năm 1941, trong đó, ngoài các thành viên của nhóm và Huy Cận ra còn có Đỗ Đức Thu, Trần Tiêu, Nguyên Hồng, Nguyễn Khắc Mẫn, Đoàn Phú Tứ, Trọng Lang, Anh Thơ (đúng ra là Cô Anh Thơ) Mạnh Phú Tư cùng ảnh chân dung của họ.
Cái “tình cảm gia đình” của Tự Lực dành cho chàng thi sĩ quán sông La ấy có thể cảm nhận rất rõ trong thư của Khái Hưng gửi Xuân Diệu ngay sau khi thi sĩ khăn gói vào Mỹ Tho: “Anh đi Nam, chúng tôi thấy thiếu anh quá. Nói thực đấy, không khách sáo đâu. Nhất những hôm hội họp ở nhà anh Tam (Nhất Linh - CHHV) ai cũng bảo: “Thiếu có Xuân Diệu”. Nhưng có người tiếp luôn: “Đã có Huy Cận ăn hộ cả hai người”. Huy Cận, ai cũng coi như một nửa của linh hồn anh. Rồi chính tác giả của Tiêu Sơn tráng sĩ đã cùng với Nhất Linh, Thạch Lam và họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung dẫn Huy Cận đi thăm chùa Tây Phương và chùa Thầy nhằm khẳng định lòng tự hào dân tộc vốn là động lực của Tự Lực Văn Đoàn trong cuộc đấu tranh chống lại chính sách nô lệ của Pháp. Mặt khác cũng rất có thể khi tổ chức những cuộc du ngoạn đó các thành viên của Văn Đoàn muốn thấy một Huy Cận Đường thi chuyển hướng mạnh hơn nữa sang văn hóa của cha ông. Bản thân bố tôi cũng thừa nhận là tứ của các bài Các vị La Hán chùa Tây Phương của ông đã manh nha từ dạo ấy.
Để nói trong thực tế, Huy Cận đã thuộc về Tự Lực Văn Đoàn và cho đến tận hôm nay bố tôi vẫn dùng những lời âu yếm nhất để nói về thực tại đó. Tình thân thiết đã như chân tay thì chỉ còn gượng cười khỏa lấp cái sầu ly biệt. “Bát tiên quá... chén” là cái cười gượng ấy của các thành viên Tự Lực trong giờ phút chia tay với Xuân Diệu vừa được bổ làm Tham tá nhà Đoan tại Mỹ Tho. Trong tay tôi là một tờ giấy gió lụa với hoa văn dập nổi màu ngà rất sang (mà tôi đồ rất sẵn tại Nhà xuất bản Đời Nay vốn tọa lạc cùng trụ sở Tự Lực Văn Đoàn tại 80 Quán Thánh) mang bài thơ được hình thành do Hoàng Đạo, Nhất Linh, Thạch Lam, Huy Cận, Thế Lữ, Tú Mỡ, Khái Hưng, Xuân Diệu (theo thứ tự chữ ký) mỗi người góp một câu:

BÁT TIÊN QUÁ… CHÉN

Bỗng dưng thi sĩ hóa tây Đoan
Nửa mặt nhà văn, nửa mặt quan
Chén rượu tiễn đưa thơ khó nghĩ
Nỗi niềm cách biệt ý khôn toan
Hôm nay nhớ bữa chia bùi ngọt
Lát nữa còn vui cảnh tóp chan
Ví thử anh em đều xuất cả
Còn tuôn ra lắm mạch thơ gàn...
(Hà Nội 2/2/1940)

Và đâu chỉ có Huy Cận không thể quên một thời “chia bùi ngọt” với Tự Lực Văn Đoàn, qua ông, bản thân tôi cũng tiếc nuối cái bầu không khí văn chương lãng mạn và gia đình ấy trong đó tập thể tồn tại cùng riêng tư, trong đó đố kỵ, “bằng mặt mà không bằng lòng” phải khiếp đảm trước triết lý “mình vì mọi người, mọi người vì mình” trong cuộc đấu tranh đầy cam go vì một nền “văn học quốc ngữ”. “Gái có công, chồng không phụ”, công lao gây dựng nền văn học đậm đà bản sắc dân tộc ấy chẳng những được bạn đọc và các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước ghi nhận mà còn được các nhà cách mạng Việt Nam đánh giá rất cao. “Tự Lực Văn Đoàn - cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định với Huy Cận - rất có công với Văn học Việt Nam thông qua đổi mới cách viết văn nói riêng và đổi mới nền văn học nước nhà nói chung”.
Vẫn theo Huy Cận, các nhà cách mạng khác như Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp... đều có cùng một nhận định. Mặt khác, tính đến ảnh hưởng sâu rộng cũng như tổ chức chặt chẽ của nó (có tôn chỉ, nguồn tài chính riêng, cấp giấy chứng nhận thành viên, lập giải thưởng, có cơ quan ngôn luận và thậm chí cơ quan xuất bản), tôi cho rằng Tự Lực Văn Đoàn xứng đáng được nhìn nhận như “Hội nhà văn” đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại.
Lùi để tiến, hay như Xuân Diệu nói: “Hy sinh một tiểu đội nhưng để thắng một trận đánh”, bác tôi đành để cơ quan xuất bản có thể nói là “giáo điều” lược bỏ những đề tặng Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo khi làm Tuyển tập Thơ của ông miễn sao Xuân Diệu vẫn tiếp tục hiện diện một cách tích cực trong cuộc đời. Tuy nhiên nếu cho rằng những lược bỏ đề tặng đã nói trên đơn thuần là “chiến thuật”, là một việc làm miễn cưỡng của Xuân Diệu thì cũng không hẳn.

Còn nhớ, cả Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo đều tham gia Việt Nam Quốc dân đảng và vì vậy về mặt chính trị là xung khắc và sau Cách mạng tháng 8 là xung đột với một Xuân Diệu trong mặt trận Việt Minh. Trong “Lời giới thiệu” của Tuyển tập, Hoàng Trung Thông viết: “Người ta thường khen anh (XD) dũng cảm đấu tranh với bọn Quốc dân đảng bằng những bài thơ đả kích”.
Quả thật, bên cạnh ngọn Quốc Kỳ ca ngợi nền Dân Chủ Cộng Hòa, Xuân Diệu liên tục “ra đòn” đánh lại cái đám “Việt Quốc” (Việt Nam Quốc dân đảng của Nguyễn Tường Tam), Việt Cách (Việt Nam Cách mạng đồng minh của Nguyễn Hải Thần) bằng những “Tổng bất... đình công”, “Một cuộc biểu tình”, “Vịnh cái cờ”... Không nghi ngờ gì nữa, đây chính là sự khởi đầu của mạch văn “chính trị - quần chúng hóa” của một Xuân Diệu “Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi/ Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu/ Tôi sống với cuộc đời chiến đấu/ Của triệu người yêu dấu thân yêu”. Không những thế, ông còn chống lại các đảng phái ấy bằng cả “nắm đấm” theo đúng nghĩa đen của từ này.
Còn nhớ, bác Diệu tôi nhiều khi dùng “quân sự”, tức là dùng “nắm đấm” để giáo dục tôi, không có “oong, đơ” gì hết. Nhưng một bận đang khi dùng “biện pháp mạnh” thì ông cảm thấy không có hiệu quả như trước vì lúc này tôi đang lớn vổng ở tuổi thành niên, lập tức ông hét lên: “Mày đừng tưởng lớn rồi mà tao sợ. Ngày trước tao còn đánh nhau tay không với Quốc dân đảng cơ!”. Lúc đó tôi nào có để ý đến đối tượng mà ông lấy ra so sánh mà chỉ nhói trong tim: đâu phải tôi đã thực sự lớn mà bác tôi đã bắt đầu yếu rồi. Và tôi đã khóc dù không mấy đau.
Chỉ đến mãi sau này khi được những người hoạt động cùng thời kể chuyện Xuân Diệu dừng xe đạp để đánh nhau với một nhóm Việt quốc, Việt cách biểu tình chống Cách mạng ngay trên đường Garnier (nay là Đinh Tiên Hoàng), Hà Nội trong những ngày Tổng khởi nghĩa thì tôi mới thấm thía chất “cách mạng” nơi “nắm đấm” của ông. Kết quả là ông bị nhừ đòn và phải thoát thân vì “tương quan lực lượng” quá chênh lệch. “Con ngựa sắt” mà ông phải bỏ lại lúc đó sau này được một người dân trả lại vì trên biển xe có đề “Xuân Diệu”. Cũng may, theo Huy Cận, Xuân Diệu đã thoát được, nếu không chắc sẽ bị chúng bắt đem về thủ tiêu tại một trong những “Hắc điếm” của chúng ở phố Ôn Như Hầu (nay là Nguyễn Gia Thiều), “bót” Hàng Đậu hay phố Joffrin (nay là Lý Nam Đế)...
Vậy đó, Xuân Diệu không chỉ “giáp lá cà” với phản cách mạng mà ông còn “vùng lên” chống lại mọi biểu hiện tiêu cực ở con người dù đó là sự ngu dốt và lười biếng. “Cách mạng” là thường trực ở nơi ông! Hiểu được như thế thì việc cơ quan xuất bản có lược bỏ đề tặng Nhất Linh - sau này là lãnh tụ Việt quốc - chắc không thật làm phiền lòng Xuân Diệu. Tuy nhiên, Xuân Diệu không cực đoan: bỏ lời đề tặng Nhất Linh là đủ bày tỏ chính kiến của mình và ông giữ lại những lời đề tặng Khái Hưng và Hoàng Đạo, điều này được thể hiện trong bản thảo cho Tuyển Thơ của ông. Thái độ đúng mực này của Xuân Diệu là nhất quán với quan điểm của ông từ 1958 đối với các tác phẩm trước Cách mạng: “Một số tác phẩm đã đạt tới một mức nghệ thuật nào và đã có một khuynh hướng tiến bộ so với hoàn cảnh thời đó, thì vẫn còn lại một giá trị văn học nghệ thuật. Hoàn toàn vứt cả, coi nó là “dưới Zê-rô”, là không có quan điểm lịch sử trong phê bình” (3).
Quan điểm ấy cũng được Huy Cận, người đồng chí của ông suốt cả cuộc đời, chia sẻ. Bản thân thi nhân họ Cù cũng tặng Nhất Linh Áo trắng, tặng Hoàng Đạo Giấc ngủ chiều, tặng Khái Hưng Buồn đêm mưa và Tràng giang (bài này đề tặng Trần Khánh Giư, tên thật của Khái Hưng) trong thi phẩm Lửa Thiêng. Vậy mà trong Tuyển tập Thơ Huy Cận xuất bản 1985, lời đề tặng ba thành viên trên của Tự Lực cũng không còn.
Tôi có hỏi bố tôi về chuyện này thì không chần chừ ông khẳng định ngay: “Với tư cách là người khởi xướng Tự Lực Văn Đoàn, Nhất Linh rất có công với nền văn học nước nhà. Ông là một đồng nghiệp tốt, thân ái với mọi người. Về mặt chính trị Nguyễn Tường Tam trải qua ba giai đoạn. Giai đoạn đầu là yêu nước theo hướng dân túy (populiste), giai đoạn thứ hai là chọn nhầm con đường cứu nước qua việc dựa vào Nhật để chống Pháp (như cụ Phan Bội Châu), giai đoạn thứ ba là phản động khi dựa vào Tàu Tưởng để chống lại Việt Minh. Như vậy Nguyễn Tường Tam là đối lập chính trị với Xuân Diệu và Huy Cận (4). Thật đáng tiếc, con người yêu nước Nhất Linh đã đi nhầm đường để cuối cùng trở thành phản cách mạng”.
Rồi bố tôi nói thêm rằng ngay tại Đại hội Tân Trào năm 1944 Lê Đức Thọ đã bàn với ông vận động Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo đi với Việt Minh và chính cụ Hồ Chí Minh ngay sau khi Cách mạng thành công cũng nói: “Chú quen biết Nguyễn Trường Tam (Bác đọc nhầm Tường thành Trường) thì chú vận động anh ta đi với Cách mạng, đi với Việt Minh thì tốt”. Nhưng những nhân vật trọng yếu ấy của Việt Nam Quốc dân đảng đã “nguây nguẩy” từ chối vì cho rằng Việt Minh là “độc tài”!? Thậm chí báo Việt Nam do Khái Hưng chủ trương còn “mỉa” rằng nhà thơ Huy Cận ngồi cô đơn ở Bắc Bộ Phủ (lúc đó Huy Cận là Bộ trưởng Canh Nông) để làm cái gì?! Suy cho cùng, có thể nôm na thế này, vợ chồng không hợp nhau thì ly dị miễn những đứa con - tác phẩm phải được nuôi cho đến nơi đến chốn và như đã thấy, Xuân Diệu và Huy Cận đâu bỏ rơi “đứa con tinh thần” nào của mình.
Để kết luận, Huy Cận, người bạn nối khố của Xuân Diệu và đồng nhân chứng của “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” khẳng định với tôi rằng cả Xuân Diệu lẫn ông luôn luôn biết ơn Tự Lực Văn Đoàn vì đã “khai sinh” ra họ trên địa hạt văn chương; văn tài và nhất là cái tâm của Nhất Linh, Khái Hưng cũng như của các thành viên sáng lập đối với sự nghiệp văn học nước nhà trong thời kỳ ấy là không thể phủ nhận. Thậm chí cho đến tận giờ Huy Cận vẫn từ chối khái niệm “tan” khi nói về sự chấm dứt hoạt động của Tự Lực.
“Sau khi Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí bị Pháp bắt vào năm 1941, Nhất Linh lẩn trốn do hoạt động chính trị thân Nhật chống Pháp, Thế Lữ đi lánh - ông giải thích - không kể Xuân Diệu đã vào Mỹ Tho từ đầu năm 1940, Thạch Lam mất năm 1942, Tự Lực Văn Đoàn trong thực tế không còn thành viên hoạt động nữa”. Và Huy Cận có lý do vì “tan” chỉ thích hợp với sự chấm dứt hoạt động bởi những lý do nội tại như mâu thuẫn nội bộ nghiêm trọng hơn, do mâu thuẫn về lý tưởng nghệ thuật. Để nói cái thực thể văn chương này dường như là giời sinh ra để dẫn nhập Thơ Mới với lịch sử văn học nước nhà, vừa kịp định vị “trái đôi” Huy-Xuân ấy trên Thi Đàn thì cũng là lúc nó không tồn tại nữa.
________________________________________
(1) Xuân Diệu - Bác đi xa cháu, nhớ ghê - Hai đợt sóng, NXB Văn học 1967.
(2) Cuốn Văn học lãng mạn Việt Nam (1930-1945) - NXB Văn học 2002 (tr.241) cho rằng Ngày Nay kế tục Phong Hóa khi Phong Hóa bị đóng cửa vào 1936. Trong thực tế hai tờ báo song song tồn tại trong một thời gian vì ở “en tête” của giấy viết thư của Tự Lực Văn Đoàn có ghi: Phong Hóa - 80 Avenue Grand-Bouddha (Quán Thánh) và Ngày Nay - 55 Rue des Vermicelles (Hàng Bún).
(3) Xuân Diệu - Những bước đường tư tưởng của tôi. NXB Văn hóa, 1958.
(4) Từ 1939, Huy Cận, thành viên Ban lãnh đạo Tổng hội sinh viên (toàn Đông Dương) đã cùng với Dương Đức Hiền, Chủ tịch Tổng hội và là người có quan hệ mật thiết với Đảng Cộng sản, đấu tranh chống khuynh hướng thân Nhật. Năm 1941 Huy Cận tham gia Việt Minh “đánh pháp đuổi Nhật”. Năm 1943, Xuân Diệu tham gia Việt Minh ở Hà Nội ngay sau khi từ chức Tham tá nhà Đoan ở Mỹ Tho.

_____________________________________________________

Thứ Sáu, 26 tháng 11, 2010

Trục vớt một bài thơ đắm trên sông Thiệp

Hoa Nip
(Về bài thơ "Vào chùa" của Đồng Đức Bốn)

Chuyện kể rằng, ngày nọ, có gã ăn mày lê la xin ăn cả nửa ngày trời mà chả ai cho gã được chút gì. Đến giữa trưa nắng nôi, gã lả đi trong cơn đói.
Khi ngang qua một mái chùa, gã sực nhớ đến việc ngày xưa thày trò Đường Tăng lúc sang Tây Thiên thỉnh kinh cũng đã từng rất nhiều lần vào chùa xin cơm chay và tá túc. Nghĩ vậy, gã bước vào trong cổng chùa. Thế nên mở ra câu chuyện là câu thơ đầu:
“Đang trưa ăn mày vào chùa”
Và do đó, có thể thấy rằng không giống như một cử chỉ hướng thượng vào chốn cao minh (gặp gỡ tôn giáo) một liệu pháp tâm linh [1], gã ăn mày vào chùa chỉ để xin bát cơm chay đạm bạc cho qua cơn đói.
Nhà sư thấy gã ăn mày bước vào, liền đem ra cho gã một lá bùa, rồi lẳng lặng bỏ đi, không một lời. Thế nên câu thơ tiếp theo:
“Sư ra cho một lá bùa rồi đi”
Vì sao nhà sư lại im lặng và lạnh lùng với gã như thế? Phải chăng vì gã là tên ăn mày rẻ rúng? Hay vì vô ngôn là triết lý của nhà Phật nói riêng và tôn giáo nói chung? Vậy thì bằng cách nào để thuyết giảng, truyền giáo và phổ độ chúng sinh đây?
Giải thích cho sự im lặng đáng sợ ấy của nhà sư, hãy xét đến một luận cứ: nhà sư thấy chính mình trong bộ dạng của gã ăn mày. Phải, đúng thế! Nhà sư đã thấy thân phận của mình trong thân phận của gã ăn mày kia. Xét về khía cạnh nào đó thì người tu hành cũng chỉ là một kẻ khất thực, thở được, ăn chay niệm Phật được, phổ độ được là nhờ một phần rất lớn quà công đức của chúng sinh. Và cũng với tâm lý đó, liệu chúng ta còn có thể mở lời khuyên nhủ được ai nữa khi mà ta thấy chính mình trong họ?
Gã ăn mày hờ hững cầm lá bùa trên tay và lại chực nhớ đến Thần đèn - một vị thần đã giúp đỡ rất nhiều điều cho Aladin. Tuy nhiên, gã cũng nhanh chóng ngộ ra rằng thời đại của gã là thời bấy giờ, không phải “thời của thánh thần”, không phải thời trong câu truyện thần thoại “Ngàn lẻ một đêm” kia, thế nên gã mới thốt lên lời chê bai sự vô dụng của lá bùa:
“Lá bùa chẳng biết làm gì”
Gã ăn mày không dốt nát đến nỗi chẳng biết làm gì với lá bùa, mà chính là lá bùa kia “chẳng biết làm gì” để giúp được cho gã. Bằng chứng cho sự vô dụng, vớ vẩn của ấn chứng nhiệm màu ấy ở câu thơ cuối cùng:
“Ăn mày nhét túi lại đi ăn mày.”
Nếu ấn chứng nhiệm màu ấy linh nghiệm thì khi có được lá bùa trong túi, có lẽ gã ăn mày kia đã không “lại đi ăn mày” như đoạn kết, và có lẽ chẳng bao lâu sau, gã đã trở thành một đại gia bất động sản, hay đại gia chứng khoán rồi chăng?
Câu chuyện kết thúc như thế. Rất hiện thực. Nên cũng rất lạnh lùng. Đó là một câu chuyện ngụ ngôn mà Đồng Đức Bốn đã kể qua bài thơ “Vào chùa”. Câu chuyện thâm thúy mà cũng rất đau.
Qua bài thơ “Vào chùa”, Đồng Đức Bốn muốn chỉ ra một thực tế là chẳng có bùa ngải nào trong cuộc sống này cả, và đến ngay cả kẻ mạt hạng nhất trong xã hội như gã ăn mày kia cũng nhận thức được điều đó. Và đây nhất định không phải là một bài thơ thiền.
____________________________________________________________
[1] Nhân đọc "Khổ câu thơ cứ đến rồi lại đi" trong "Giăng lưới bắt chim" của Nguyễn Huy Thiệp, và tất cả chữ in nghiêng đều là chữ của Nguyễn Huy Thiệp. Sông thường chỉ chảy một chiều, phê bình thì nên đa chiều.

'Khói trời lộng lẫy' của Nguyễn Ngọc Tư

TP - Chiều 12-11, chưa tới giờ khai mạc buổi ra mắt cuốn sách mới 'Khói trời lộng lẫy' của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, đã có hàng trăm độc giả kéo đến, ngồi chật cứng căn phòng khá lớn của quán cà phê Thứ 7 - (37 đường Nguyễn Đình Chiểu, quận I, TPHCM).

Bà Nguyễn Thế Thanh - Tổng giám đốc Công ty Sài Gòn truyền thông - đơn vị phát hành cuốn sách phân bua với các nhà báo: “Chúng tôi không ngờ lại đông độc giả đến như thế nên không chuẩn bị kịp”. Nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu như Cao Tự Thanh, Nguyễn Tiến Văn, Chinh Văn, Vũ Trọng Quang… cũng đành phải ngồi ngoài. 100 cuốn Khói trời lộng lẫy được BTC dự tính sẽ cho tác giả ký để bán cho những bạn đọc đầu tiên đã bán hết veo dù tác giả chưa kịp ký. 200 cuốn sách được bổ sung gấp cũng hết sạch.

Khói trời lộng lẫy - tác giả Nguyễn Ngọc Tư - do Sài Gòn truyền thông và NXB Thời Đại xuất bản. Sách gồm 11 truyện ngắn và truyện vừa Khói trời lộng lẫyđang được bán với giá 36.000 đồng tại các nhà sách trong cả nước.

Nhiều ý kiến cho rằng đây chỉ là những truyện Nguyễn Ngọc Tư đã đăng rải rác trên các báo trong cả nước được tập hợp lại, sức hút của nó với bạn đọc xuất phát từ bộ phim Cánh đồng bất tận đang xôn xao ở các rạp. Nguyễn Ngọc Tư cho rằng mỗi truyện có một nét rất riêng, khi đứng chung trong một tập sẽ tạo một điều thú vị hơn là đứng một mình. Chị cũng không nghĩ Khói trời lộng lẫy sẽ tiếp tục là Cánh đồng bất tận thứ hai vì mỗi tác phẩm có thời điểm sáng tác riêng, có không gian riêng nên khó có thể nói giống nhau được…

Tư tâm sự, cô viết tập sách này là để kết thúc chuỗi câu chuyện với chủ đề trả thù. “Bắt đầu từ Cánh đồng bất tận và kết thúc bằng Khói trời lộng lẫy. Nhưng nếu có vụ trả thù nào hay thì chắc cũng sẽ viết tiếp”, Tư vừa cười vừa nói. Cô nhắc lại cách đây vài năm, có lần chụp ảnh cho một tờ báo, người nhiếp ảnh nói cô đứng trước một cánh đồng cỏ đang rạp xuống vì gió… Bức ảnh đó nhiều người khen, nhưng với cô, giờ nhìn lại, như một vẻ đẹp đã chết, vì mọi thứ đều luôn biến hóa, thay đổi và cô cũng phải vậy thôi.

Một độc giả hâm mô Tư, ở độ tuổi ngũ tuần, đã hỏi cô về nỗi sợ: “Tại sao cô Tư vượt qua được nỗi sợ để viết những thứ mà hiện nay nhiều nhà văn lớn tuổi đều câm lặng?”. Tư trả lời: “Thật ra khi viết mình có cảm giác sợ chứ. Khi viết xong Cánh đồng bất tận, tâm trạng thật khủng khiếp. Nhưng bắt đầu đã quên thì mọi người lại… sợ. Họ tìm tì vết gì đó… Rồi mình nghĩ nếu viết mà năm nào cũng như Cánh đồng bất tận thì chỉ cần vài năm nữa là hoặc bỏ nghề hoặc có cái chết nhẹ nhàng. Nhưng có lẽ giờ thì mình đã quên rồi, nếu anh vẫn còn sợ thì đó là nỗi sợ của anh, không phải của em”.

Trả lời câu hỏi: “Chị nghĩ gì khi có người nói chỉ cần đọc ba câu là biết văn của Nguyễn Ngọc Tư?” của một bạn gái tuổi hai mươi, Tư cho rằng cô cũng như tất cả những người viết khác đều có khao khát định hình phong cách ngay từ đầu. Và cô may mắn có được và đến giờ vẫn làm cô hài lòng. Tuy vậy nếu như bước tiếp theo, cô có thêm tài biến hóa nữa thì đó là điều cô tiếp tục mong muốn mình có may mắn… thêm.

________________________________________

Thứ Tư, 24 tháng 11, 2010

Ở phòng viết của nhà văn Đỗ Chu

Chỉ vài năm nữa là đến tuổi 70 mà vẫn vui vẻ, đi nhiều, viết nhiều như lúc còn trẻ. Trong câu chuyện với bạn bè, ông là người nỏ chuyện. Chuyện gì cũng sôi nổi và có chính kiến, sắc sảo, quyết liệt. Nhàng nhàng vóc hạc, cởi mở, vui thì khơ khớ hồn nhiên. Nhiều khi bức xúc có thể phản pháo bằng những ngôn từ mạnh bạo khiến người yếu bóng vía đâm hoảng. Và hình như sự thâm trầm thường ẩn dưới một vẻ ngoài lâng bâng.

Vòng vèo mãi mới tìm ra được khu chung cư ở phố Đội Nhân đối diện Nhà tang lễ bệnh viện 354 - nơi mà ông bảo ngày nào cũng đóng cửa sổ để khỏi phải nghe những lời vĩnh biệt các "cán bộ ưu tú của Đảng, người cha mẫu mực của gia đình". Ấy thế mà, vừa vào tới cửa, ông đã té tát vì tội ngơ ngẩn tìm nhà của tôi qua máy di động. Ông là người dị ứng với di động và các loại máy móc ở đời, ăn trám ngâm, uống trà tươi, gần tự nhiên. Biết vậy nên tôi chỉ cười.

- Từ khi bắt đầu cầm bút, ông cũng đã làng nhàng thế này. Thói thường văn nghệ sĩ hay gắn với rượu bia khiến nhiều người phát tướng, thế mà vẫn cứ thấy một Đỗ Chu thanh mảnh, có lẽ bởi ông là người nhuận ngôn quá chăng?

Nói đúng ra tôi bắt đầu cầm bút từ những năm cuối phổ thông. 1962 đã có bài đăng ở tạp chí Văn nghệ quân đội (TC VNQĐ). Gần nửa thế kỷ cầm bút rồi. Đầu năm nay khi nghỉ hưu, đi khám sức khỏe tổng thể, các bác sĩ bảo lục phủ ngũ tạng của cụ còn tạm làm việc được.

- Vậy là từ thời cha sinh mẹ đẻ, cái tạng ông đã thế ư?

Thuở bé tôi bị hen, lại thêm chứng ra mồ hôi tay, cầm bút viết cứ phải kê một miếng giấy thấm. Như hôm nay trở trời, mồ hôi lại đang túa ra đây này. Đọc báo SK&ĐS thấy nói bệnh này khó chữa, mà tôi cũng không định chữa, sống chung với nó từ nhỏ rồi. Trong cuộc sống, mọi khó khăn, thách thức mình chấp nhận vui vẻ. Thành ra cứ gày yếu thế nhưng trời vẫn cho sống để làm việc.

- Nghe nói ông là người được văn chương ưu ái?

Không chỉ có văn chương ưu ái, mà chính là tôi được cuộc đời ưu ái. Thời chiến thì đi bộ đội, vào làm lính cao xạ, rồi cứ túc tắc viết. Họ thấy mình viết được, có bài đăng ở TC VNQĐ nên lãnh đạo gọi về làm công tác tuyên truyền. Thời đó viết bút ký. Thực ra là mình không vất vả bằng anh em trực tiếp chiến đấu. Làm lính nhưng chỉ viết văn.

- Vậy là nghề văn đã không nhầm khi chọn ông làm đệ tử?

Hồi ở nhà tôi học hành chểnh mảng lắm chứ chẳng giỏi giang gì. Thuở bé đã có đôi chữ Hán do các cụ trong nhà dạy. Xưa mình là con cháu nhà khá giả ở quê, họ hàng nhiều người học hành, chữ nho có, chữ Tây có. 13 - 14 tuổi đã đọc Tam quốc diễn nghĩa, Tây du ký, 18 - 19 tuổi đã có thể đọc thơ Đường, thơ Tống. Chữ nho sớm cho mình cái phông văn hóa. Nói chung tự học là chính, mãi sau này lãnh đạo cũng tạo điều kiện cho đi học viết văn ở Quảng Bá. Khi cầm bút thì cứ viết thục mạng. Không mấy tin vào các phương pháp, xem ra ba hoa láo toét nhiều đấy. Xúc động thì viết, chịu khó suy nghĩ thêm mà thành, thế thôi. Năm 1963 được giải truyện ngắn Hương cỏ mật, rồi cứ vài tháng lại in một truyện, có cái vốn từ độ ấy.

- Cũng từ đó, độc giả quen dần với tác giả Đỗ Chu. Cái tên Đỗ Chu có ẩn ý gì không ông?

À, bố họ Chu, mẹ họ Đỗ, tôi lấy hai họ sinh tôi làm bút danh. Tên khai sinh là Chu Bá Bình. Một cái bình lớn, nó rỗng, có sức chứa nhất định.

- Nói đến Đỗ Chu trong sáng tác, người ta nghĩ ngay đến các truyện ngắn và tùy bút. Câu chữ cũng cứ mộc mạc như khẩu khí ngoài đời vậy.

Đúng thế đấy, người ta gọi tôi là nhà văn của truyện ngắn và tùy bút. Có một lần cũng viết tiểu thuyết nhưng không thành công. Thời chiến, nhiệm vụ được giao là viết phục vụ chiến đấu. Nói chung ai có kỳ tích dũng cảm thì lăn vào ca ngợi thành tấm gương cho mọi người cùng học tập. Cũng viết được cả trăm bài báo, hàng chục tập sách. Lúc chuyển ngành chỉ là thượng sĩ, chẳng cán bộ bốn túi hay huân chương gì, nhưng cũng không dám thắc mắc. Tự thấy, tài năng có là bao, đóng góp cũng có là bao. Giữa một cuộc chiến tranh khổng lồ, bề bộn, rất nhiều hy sinh, đói rét, gian khổ mà mình lại được làm cái việc cầm bút dẫu sao cũng được xem là còn nhàn nhã. Giải ngũ đầu tiên thì về bên điện ảnh, sắp cho đi học ở Liên Xô thì lại có lệnh chuyển về Hội Nhà văn.

- Về Hội Nhà văn, ông được đón nhận như một đồng nghiệp ngang ngửa văn tài. Có người nhận xét ông là nhà văn đọc nhiều, sức nhớ tốt, quan sát tinh tường, sắc sảo. Những năm sau này, ngòi bút ông thường hướng về vấn đề gì?

Làm gì mà được thế, ngồi ở Hội Nhà văn lúc đó còn đang có rất nhiều đấng bậc. Các cụ đều là thầy mình, ngang ngửa làm sao được. Tôi về đó còn kịp được ăn bữa cơm tiễn nhà văn lão thành Nguyễn Công Hoan về nghỉ ngơi. Vài năm sau cụ Tuân mới về. Thế cũng là một may mắn lớn, mình là đứa mồ côi cha sớm, ở đâu cũng tìm ra thầy học. Thời bình số phận con người được đặt ra rộng rãi hơn. Tôi luôn hướng về việc ngợi ca con người với những phẩm giá tốt đẹp. Bắt đầu vào đổi mới thì viết sướng hơn, những vùng cấm nay được mở ra, được nhìn nhận một cách bình tĩnh và thẳng thắn. Cũng vui khi được dư luận xem là một trong những nhà văn thời đổi mới có thành tựu. Năm 1989 in tập Mảnh vườn xưa hoang vắng, sau đó là Một loài chim trên sóng 2002, được giải thưởng Hội Nhà văn VN, rồi giải thưởng văn học ASEAN, sau đó là Tản mạn trước đèn 2004, Thăm thẳm bóng người 2008. Sắp tới sẽ cho in cuốn Đường xa nói về người Việt ở nước ngoài.

- Ông đã hài lòng với những trang viết của mình chưa?

Thực ra, những gì muốn yêu thương, muốn trân trọng một đời thì đã nói được nhiều rồi đấy, nhưng mới ở một mức độ. Còn cái sự thật về chính mình trước một hoàn cảnh thì lại chưa. Cũng thấy tiếc những năm tháng vừa rồi, giá viết căng hơn một chút, thật hơn một chút thì chất lượng trang sách sẽ tốt hơn nữa. Xưa nay người ta thường nói chân thiện mỹ, chứ không ai nói mỹ thiện chân. Cái thật phải được đặt lên hàng đầu. Chừng nào đã sa vào giả dối, không giãy ra nổi là còn lúng túng to.

- Văn chương có đủ nuôi sống ông và gia đình không?

Không có lương thì không đủ nuôi con cái đâu. Tôi chẳng làm công việc gì ngoài viết văn, những người khác vất vả hơn nhiều, họ phải kiêm nhiệm thêm việc ở nhà xuất bản hay tờ báo nào đó chẳng hạn.

- Vì họ nhận thấy năng lực sáng tác của ông hay vì thấy ông không có năng lực quản lý?

Chắc là cả hai.

- Và hôm nay có thể hình dung về một Đỗ Chu thế nào nhỉ?

À thì vẫn là một ông nhà văn vẫn nghĩ, vẫn đi đây đó, vẫn đọc và viết, thế thôi.

- Lầm lũi thế, có bao giờ ông cảm thấy đơn độc trên con đường riêng của mình không?

Mỗi nhà văn đều phải tìm một con đường riêng cho mình trong sáng tạo nghệ thuật, điều ấy là sống còn. Cô đơn là thuộc tính của những ai thực sự sáng tạo.

- Ông để râu từ bao giờ vậy?

Mới đây thôi, độ nửa năm nay, cho vui ấy mà.

- Dạo này ông sống ra sao?

Sống xuyềnh xoàng quen rồi, không chè mạn, chỉ nước chè tươi bằng bát như em thấy đây và hút thuốc lào. Nay mỗi tuổi mỗi già, các cháu cũng đã trưởng thành cả. Chị cô mấy tuần nay đang đi chơi bên Trung Quốc, vừa từ Tây An gọi điện về nhắc chồng ăn ngủ đúng giờ. Nhưng tôi lại nghĩ, làm một thằng đàn ông mà ăn ngủ đúng giờ, uống nước lọc quanh năm, không thuốc, không rượu, không rong chơi, thì nếu không sắp ốm nặng cũng dễ bị vợ bỏ vì vô duyên.

- À, nghe người ta nói có thời ông là Trưởng ban Nhà văn trẻ, vậy ông có mặn mà với những sáng tác của lớp trẻ không?

Nhiều người trong số đó rất có tài, nhưng nói chung thì nên chắc chắn hơn, càng sớm càng tốt. Có bạn trẻ bảo: bây giờ chúng em phải viết khác. Nhất trí thôi, nhưng có khác thì tình cảm con người vẫn phải giống nhau: yêu thương dân tộc và đất nước.

- Ông có quan tâm đến văn học mạng không?

Công nghệ thông tin là một sáng tạo lớn của loài người, nó làm thay đổi cả diện mạo đời sống, nhưng theo tôi không có cái gọi là văn học mạng. Đó là những trang viết cẩu thả, thông tin nhanh nhưng láo nháo. Cái nghề này phải lâu, không ăn xổi được đâu.
Nói đến đây bỗng ông ngồi thừ ra, nhấp ngụm chè tươi. Tôi nhìn mấy bức tranh treo trên tường. Mấy bức siêu thực. Chân dung nhà văn Kim Lân. Nhà triết học Trần Đức Thảo. Nhà thơ Phạm Tiến Duật. Có cái ông vẽ, có cái bạn bè vẽ.

- Ông bắt đầu vẽ tranh lâu chưa?

Cũng tới 30 năm rồi đấy. Có cái vẽ tặng bạn bè, có cái vẽ bán. Hôm nào tiện tôi sẽ vẽ em.

- Vậy ông cũng là họa sĩ nổi tiếng rồi đấy nhỉ?

Dấu hiệu bán tranh không nói lên gì cả. Có những bức rất đẹp nhưng chả có ma nào mua. Nhiều người xem việc mình vẽ là đốc chứng, nghịch xằng. Tự thấy có thế thật.

- Cũng đã có một số nhà văn vẽ tranh và mở triển lãm, ông có định...

Không, bày xong lại mang về, thế là hão. Phải nghĩ về tính hiệu quả. Nhà văn thì phải có tác phẩm để mọi người đọc, đừng vỗ ngực giải thưởng này nọ. Giải thưởng mà cứu được tác phẩm thì khối người đã được bạn đọc xem là thiên tài. Nhưng trong thực tế đâu có vậy, dân chúng đâu có nhầm.

- Mấy hôm nay ông viết gì?

Tôi đang viết bài cho tạp chí Nhân quyền sắp ra mắt. Rồi tôi tập làm thơ, không thường xuyên, lúc nào hứng thì làm. Làm là để hiểu bạn bè mình hơn. Làm thơ vất vả lắm chứ không dễ dàng như mình vẫn tưởng.

Chưa dứt câu, ông đã di chuyển ra chiếc ghế con bên bàn nước làm mồi thuốc lào, quầng khói trắng cuộn lên vấn vít một cách bí ẩn. Rồi ông dẫn tôi vào phòng vẽ ngổn ngang bảng màu, giá vẽ, bút lông với những bức tranh còn đang dang dở...

Tố Lan
(thực hiện)
________________________________________________

Người "ẩn náu" vào tiếng cười văn chương

Thụy Miên


Vốn được sinh ra từ một làng quê nghèo xứ Nghệ, tuổi thơ của Võ Thị Hảo gắn liền với nắng và gió Lào cùng những chú mèo mướp nằm bếp tro của mẹ. Một thế giới hiện hữu mà tựa hồ như cổ tích của cô gái với thân hình bé nhỏ này. Chạy nhảy, chơi trốn tìm, chui vào rơm rạ, trồng cây chuối và làm bạn với những chú mèo là sở thích của phần đông các cô bé như Hảo sống ở những vùng quê.

Khởi nghiệp

Năm 1973, Võ Thị Hảo ra Hà Nội học Đại học Tổng hợp Văn, chuyên ngành Hán - Nôm. Thế nhưng Võ Thị Hảo lại chọn văn chương làm nơi "ẩn náu" cho mình.
Năm 1993, với sự xuất hiện lần đầu tập truyện ngắn Biển cứu rỗi, Võ Thị Hảo như muốn đoạn tuyệt cuộc chiến súng đạn, đầu rơi máu chảy, chết chóc hy sinh, anh hùng và chiến thắng đã qua. Chị quyết định khai chiến với hòa bình, một thứ hòa bình bắt đầu bằng con số không, ngoài sự chói lóa của những hào quang quá khứ còn ánh xạ lại, ru cho không ít người cam chịu ngủ yên trong nghèo đói. Một số người khác thì quẫy cựa tìm lối thoát, nhưng không dễ tìm ra ngay một sớm một chiều. Số còn lại quay lưng chửi đổng, cạnh khóe những điều mà một thời chính họ đã tôn thờ, theo đuổi, nhưng hôm nay họ cảm thấy hình như mình bị một ai đó lừa dẫn độ vào chốn đói nghèo, lạc hậu. Vậy là cuộc chiến dưới bầu trời xanh hòa bình giữa "quân ta" và "quân mình" xem ra cũng cam go không kém. Các giá trị về lối sống, nhân cách và đạo đức bị đảo lộn, quan niệm về chủ nghĩa anh hùng, lòng yêu nước, tự hào dân tộc cũng dần bị đổi thay...

Nợ văn chương phải trả bằng... cười

Thời thân gái dặm trường đã qua, sức vóc nữ nhi không mấy, Võ Thị Hảo chọn cho mình con đường đòi "lợi quyền" bằng tiếng cười văn chương. Âu đấy cũng là thuận duyên, hợp với tính cách của một cô gái như Hảo. Nhưng có lẽ ít ai miêu tả nhiều, tỉ mỉ các cung bậc, sắc thái khác nhau của cái cười trong văn chương đến như Hảo:
"Đôi mắt biểu lộ một nỗi đau khổ bất thường như đã đông cứng. Còn cái miệng thì trớ trêu làm sao, luôn mỉm một nụ cười bất biến [...] Nụ cười ấy giữa khuôn mặt ấy, thật là một nghịch lý, như là đang khóc với nỗi đau xé ruột mà có kẻ tàn ác nào đó cứ nhất định cù vào nách cho ta phải cười rũ ra mới thôi" (Người gánh nước thuê). Đến nụ cười lạnh như thép của người chinh phu không biết cười: "Người chồng cố hết sức để mỉm cười. Đã lâu lắm rồi anh không làm cử chỉ đó nên bây giờ anh không biết bắt đầu một nụ cười như thế nào. Khó nhọc lắm, anh mới nhớ ra rằng, khi cười, người ta phải để lộ ít nhất là một hàm răng. Anh nhếch môi, để lộ hai hàm răng chắc khỏe. Nhưng anh quên rằng, khi người ta cười, chính đôi mắt cười trước, cái miệng cười sau, thậm chí chỉ cười bằng mắt cũng đủ. Mà đôi mắt muốn cười, trước hết tâm hồn phải cười đã, cho nên, cố gắng để mỉm cười, trông anh lại thêm vẻ dữ dằn đe dọa của một con sói" (Hồn trinh nữ).
Dường như Võ Thị Hảo bước lên văn đàn để cười, cười đến rũ người ra, cười xé gan, nát ruột, cười để cho thiên hạ thấy rằng thế hệ cô không còn muốn khóc nữa, vì còn đâu nước mắt. Nước mắt đã bị vắt kiệt cho bom đạn chiến tranh, những cuộc chia ly và những lần đoàn tụ... rồi. Đến khi hòa bình, lấy đâu nước mắt mà khóc nữa, đành cười vậy thôi. Nhưng ô hay, cười mà có khi còn chảy nhiều nước mắt hơn là khóc mới lạ chứ. Nhưng nếu không biết cười, thiên hạ sẽ cho rằng mình là người vô duyên, cái gì cũng cười. Người ta khóc ba năm không sao, nhưng chẳng ai cười được ba ngày. Cái cười của Võ Thị Hảo trong các trang văn có vị đắng chát, ngặt nghèo pha lẫn sự uất nghẹn. Cười được đến như thế hẳn chẳng mấy ai.
Trong truyện ngắn Rừng cười, Võ Thị Hảo mô tả những cái cười méo mó man dại của chiến tranh, của những cô gái Trường Sơn mà "những dòng nước khe màu đen xanh thớ lợ đã dần dà vặt trụi tóc họ". Ở đây không có liệt oanh, anh hùng và chiến thắng, chỉ có rừng với người vượn lõa thể, vừa cười vừa khóc, tay dứt tóc xé quần xé áo. Ở đây chỉ có những nụ cười sằng sặc quánh đặc lá cây của "những người đàn bà vác cày, cầm súng, đi lấp hố bom", "bị buộc phải trở thành đàn ông". Và người con gái duy nhất may mắn sót lại trong "rừng cười" sẽ mãn kiếp bị loại khỏi vòng tình ái, chỉ sống với những giấc mơ triền miên về mái tóc đã bị rừng già cướp giật..
Cái cười của Võ Thị Hảo dường như đoạn tuyệt với những cái cười không thực bụng. Cô gái xứ Nghệ này sinh ra như là để được cười, nhưng không biết Võ Thị Hảo thấy cuộc đời này có nhiều cái để cười thế hay là chính cái cười đã dẫn dụ cô đến chỗ "ẩn náu" an toàn trong văn chương? Chắc chỉ có Chúa mới biết!

________________________________________________________

Thứ Năm, 18 tháng 11, 2010

Nguyễn Đình Tú và tiểu thuyết Kín

3 năm ra 3 tiểu thuyết: Nháp, Phiên bản, Kín, nhà văn Nguyễn Đình Tú gây chú ý không bằng tuyên ngôn hay scandal văn chương, mà bằng những trang viết đầy chật chi tiết sống. Có những lời khen và cổ vũ, có cả những lời chê và thái độ không ưa lối viết, cách kể của tác giả. Và như vậy, tác phẩm của anh vẫn đang được công chúng quan tâm. Chúng tôi đã có cuộc gặp gỡ nhà văn - thiếu tá Nguyễn Đình Tú, hiện đang công tác tại Tạp chí Văn nghệ quân đội.

- Thưa nhà văn! Nhìn lại những cuốn tiểu thuyết thời gian qua, có cảm giác như anh khá "mốt" hay "thời thượng" - theo nghĩa tích cực - khi cập nhật vào văn học của mình những gì là mới mẻ của đời sống xã hội: Lĩnh vực báo chí, internet hay chuyện tìm mộ bằng ngoại cảm, rồi từ sex cho đến vấn đề đồng tính, đến bạo lực hay quần hôn, lối sống sa ngã của giới trẻ… Liệu đây có phải là một chủ trương tiếp nhận và phản ánh của anh không hay là một cách để tiếp cận công chúng, nhất là bạn đọc trẻ?

- Đúng là các cuốn tiểu thuyết của tôi về mặt bề nổi thì có vẻ ngổn ngang những chất liệu của đời sống đương đại. Nói rằng tôi chủ trương tiếp cận bạn đọc trẻ bằng những chất liệu đời sống đương đại thì cũng không sai, nhưng tôi muốn diễn đạt bằng một ý khác: tôi muốn viết về những điều mà tôi cho là bạn đọc ngày hôm nay quan tâm.

- Trong một số tác phẩm của anh và đến cuốn tiểu thuyết Kín này nữa, song hành với đời sống nhân vật, thường có sự phảng phất hoặc những chi tiết gợi ra không khí tôn giáo, tín ngưỡng. Bạn đọc có những cách cảm nhận khác nhau, nhưng bản thân tác giả có thể nói gì về điều này?

- Tín ngưỡng, tôn giáo là một phần của đời sống, gắn bó hữu cơ với mỗi cá thể người. Tôi tin chắc rằng, trong đời ai cũng đã một lần bồi hồi nghĩ về một kiếp khác ngoài cái kiếp mình đang sống. Đó chính là sự khởi đầu của tín ngưỡng trong mỗi cá nhân. Văn học dù viết về cái gì đi nữa thì cũng đều hướng tới con người, vì thế những gì liên quan con người đều được khai thác, mổ xẻ, bóc tách và phản ánh.

- Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã có một cuốn tiểu thuyết mang tên Mẫu Thượng ngàn viết về đạo Mẫu, ở Kín, anh cũng đề cập đạo Mẫu, có thể so sánh điều gì giữa hai cuốn tiểu thuyết này?

- Nếu so sánh như thế thì giống như so sánh hai tác phẩm nào đó cùng viết về nông thôn hoặc cùng viết về chiến tranh. Cũng có bạn đọc kỳ vọng vào việc tôi sẽ lý giải đạo Mẫu một cách mới mẻ như thế nào. Tôi phải nói ngay rằng điều này không nằm trong ý đồ sáng tạo của tôi. Lý giải đạo Mẫu là việc của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian chứ không phải của nhà văn. Đạo Mẫu trong Kín được đề cập như một lớp mã để nói về những vấn đề khác của tiểu thuyết mà thôi.

- Thu lượm nhiều, viết nhanh, nói về rất nhiều điều trong thời gian vài năm, anh đã chuẩn bị và kiến tạo, xây lắp nên tiểu thuyết Kín như thế nào?

- Một lớp trẻ kế thừa những giá trị văn hóa lịch sử cả ngàn năm của ông cha đang loay hoay với hiện tại ra sao? Đó là câu hỏi đầu tiên thôi thúc tôi cầm bút lên viết Kín. Kín phải được viết như thế nào để không giống ai và không giống tôi trước đó? Câu hỏi này khiến tôi phải lập cho Kín một cách triển khai ba tuyến truyện song song với điệp trùng những chi tiết độc đáo. Đã từng có một lượng bạn đọc sẵn sàng bỏ tiền ra mua sách của mình, bây giờ đáp lại những tấm lòng đó như thế nào? Điều này khiến tôi phải viết Kín sao cho hấp dẫn và chạm được vào cái mà bạn đọc đương đại quan tâm.

- Kín lại tiếp tục một hành trình đằng đẵng của nhân vật trẻ tuổi, như những hành trình mà nhiều nhân vật khác đã đi. Ngòi bút của anh vì sao chưa hướng đến và lấy làm trung tâm - một đối tượng nhân vật nào khác?

- Trên hành trình đằng đẵng ấy còn có nhiều nhân vật không trẻ nữa chứ. Nhưng đừng tự bó hẹp cách nhìn của mình như thế. Từ cái trẻ cụ thể của tiểu thuyết, tôi hướng đến cái trẻ lâu bền của đời sống, của không chỉ một kiếp người.

- Có cảm giác như rồi đây, đề tài hoặc những dữ liệu liên quan đến kinh dị, hoang đường, viễn tưởng…, anh cũng sẽ không "tha". Đã có những ý tưởng hay chút loé sáng nào cho thể loại hay những đề tài này?

- Có rồi. Tôi đã bắt tay vào rồi. Tôi không muốn nói trước nhưng chắc chắn cái mà tôi trình ra sau Kín sẽ làm không ít bạn đọc bất ngờ.

- Xin cảm ơn anh!

Hoàng Hoa (thực hiện)
________________________________________________

Để có một nền văn học “sạch”

Diên Khánh

Văn học là một sản phẩm tinh thần cao quý của con người, là thước đo trình độ, bản sắc và tầm vóc văn hóa của mỗi dân tộc. Sự tiếp nhận văn học mỗi người khác nhau, có người đọc để giải trí, có người đọc để học tập, người khác nghiên cứu, lại có người chỉ để thẩm định một hiện trạng cũ - mới. Dù thế nào thì văn học phải đảm bảo những giá trị của nó, phải gánh trên mình nó nhiệm vụ là làm cho con người tiến bộ, cho cuộc sống tốt đẹp hơn, nhân văn hơn.
Theo dõi văn học và đọc những tác phẩm được xuất bản trong những năm qua, người ta dễ dàng nhận thấy có sự khác biệt về giá trị các tác phẩm văn học, tức là văn học ở dạng “vàng thau lẫn lộn”. Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến cho rằng, văn học trước hết là sách, là hình ảnh ngôn từ, là ngôn từ mực đen trên giấy trắng. Ông cũng tỏ ra quan ngại rằng, mấy thập kỉ nay, văn học phải cạnh tranh với một đối thủ ghê gớm mà sự lớn mạnh ngày càng hùng hậu, càng tăng sức áp đảo, đó là truyền hình. Ở những nước công nghiệp phát triển, những người viết sách (trong đó có nhà văn) tỏ ra bi quan trước sự bành trướng của truyền hình. Với tôi, người viết bài này còn tỏ ra bi quan trước sự tràn lan vô tội vạ của nhiều dịch vụ trên internet, đã vô tình làm vẩn đục hàng vạn tâm hồn thanh thiếu niên. Dường như một số dịch vụ truyền hình, internet đang đua nhau phô ra những dịch vụ có tác động mạnh mẽ nhất vào bộ não non nớt của lớp trẻ, sinh ra hàng loạt website bẩn, kênh thông tin sex nhằm thu hút sự quan tâm của đối tượng người trẻ. Với ý nghĩ nào đó, một số cây bút cũng muốn đi bằng con đường này, tạo ra những trang văn thực sự không trong sáng nhằm đánh vào thị hiếu tức thời của một bộ phận người đọc, mà ở đây phần lớn là những độc giả nhỏ tuổi, tò mò, chưa phân biệt được tốt, xấu. Những trang văn không sạch thì khó có thể cấm các em đừng đọc, đừng tiếp xúc? Một bộ phận giới trẻ thiếu “kháng sinh” trong người, rất dễ bắt chước, học đòi tính bầy đàn, tiếp xúc với quá nhiều thông tin kém lành mạnh, đầu óc các em sẽ u mê, trụy lạc...
Trên một số trang báo, có bài phê bình mạnh mẽ những trang văn của các tác giả Keng, Gào... mà họ đã từng được tung hô, PR. Nếu ai đã từng đọc một cách công tâm những tác phẩm của các tác giả này, hẳn sẽ nhận ra chúng không phải là văn học, mà là một biến dạng của thể loại văn xuôi. Không thể nghĩ rằng, cứ viết, cứ in thành tập, gọi đó là tiểu thuyết, truyện ngắn và bảo đó là văn học và bắt người khác phải công nhận. Sẽ có người cãi lại rằng, người ta viết, tôi cũng viết, của người ta gọi là văn, sao của tôi lại không? Không ít người cho rằng, việc đưa ra những dịch vụ, sách nhạy cảm đánh vào óc tò mò của lứa tuổi vị thành niên là một tội ác. Điều đó là rất đúng! Trong khi nhận thức của chúng chưa chín chắn, mọi hành động còn bồng bột, đối với những gì gây tò mò, đều gợi trong chúng sự hưng phấn nhất định. Với sách văn học cũng vậy, giá đừng ghi là cấm thì sự tò mò biết đâu được giảm bớt. Đây cũng là một trò đánh lận con đen của một số người làm sách nhằm kích thích “tiêu dùng” của những người trẻ tò mò.
Vậy, thế nào là một nền văn học sạch và làm sao để có một nền văn học sạch? Văn học sạch sản sinh ra sự yêu thương, lòng bác ái, sáng tạo ra cái đẹp, cái thiện và làm nền tảng cho văn hóa tinh thần của đất nước. Còn làm sao để có nền văn học sạch? Theo tôi, phải có sự kết hợp của ba yếu tố: người viết, tác phẩm và người đọc, trong đó người viết giữ vai trò chủ đạo. Người viết, trước hết phải có tâm thế là một người sáng tạo ra cái đẹp. Anh ta cần có cái tâm và trách nhiệm với ngòi bút của mình, đồng thời hướng đến lợi ích của người đọc bằng tâm hồn trong sáng, gạn lọc được những điều tốt đẹp của cuộc đời để hiến dâng người đọc, định hướng người đọc. Đối với người đọc, để biết đọc và đọc đúng, cũng cần có trình độ để biết được loại sách nào nên đọc, loại nào không. Họ cũng cần trình độ để tham gia vào việc cảm thụ tác phẩm chứ không đơn thuần chỉ là một sự giải trí thông thường.
Mỗi người viết có một xuất phát điểm khác nhau. Anh ta có thể là nhà giáo, kỹ sư, bác sĩ hay là người công nhân, nông dân... Anh ta có thể viết dưới mọi hình thức, nhưng để có một nền văn học sạch, anh ta phải xác định mình tham gia một sân chơi có văn hóa và bình đẳng với nhau về tâm thế sáng tạo. Đồng thời, cũng cần có sự đúng mực của truyền thông khi tham gia vào việc quảng bá tác phẩm. Không thể đổ hết lỗi cho truyền thông đôi khi đã tung hỏa mù văn chương ở giai đoạn công nghệ thông tin bùng nổ. Nếu truyền thông nghiêm túc, họ PR những tác phẩm đúng giá trị thực thì cũng là một điều tốt cho văn học. Đông đảo công chúng sẽ có thêm thông tin và đón nhận tác phẩm giá trị. Soi chiếu vào việc sáng tác văn học trong vài chục năm qua, chúng ta thấy sự xuất hiện của nhiều loại hình văn học: văn học ám chỉ, văn sex, văn sến, văn tục, văn chế giễu... không ít trong số đó đã được truyền thông thổi phồng lên quá mức, đến nỗi nhiều người cay cú vì mua phải hàng kém chất lượng. Phải khẳng định lại, không phải tất cả những loại hình đó đều đi chệch biên độ cho phép của nền văn học chính thống. Văn học chính thống cũng tồn tại những điều ám chỉ, những đoạn sex, đoạn giễu nhại, nhưng với một mức độ khoa học để làm tăng giá trị của tác phẩm. Mỗi người viết nên định liệu thế nào là vừa đủ.
Cuộc sống hiện đại khiến con người thực dụng nhiều hơn, việc cảm nhận cái đẹp và khả năng sáng tạo cái đẹp ngày càng sút kém. Bằng cách này hay cách khác, người ta chế ra những món ăn nhanh bắt mắt, không đảm bảo vệ sinh cốt để thu nhiều lợi nhuận. Nhưng trên mâm cơm nghệ thuật, mà cụ thể là văn học, người dân khao khát những món lạ miệng nhưng phải sạch, phải ngon và đảm bảo dinh dưỡng cần thiết.

_____________________________________________________________

Thứ Sáu, 12 tháng 11, 2010

Văn học và ngữ cảnh văn hóa

Cao Kim Lan

- Đến thập niên thứ ba của thế kỷ XX đã có những biến chuyển trên nhiều mặt của xã hội và lịch sử. Bộ mặt xã hội lộ ra toàn bộ diện mạo và hình hài của nó với tất cả những góc khuất trên nhiều bình diện và cấp độ. Và đây chính là cơ sở đồng thời cũng là điều kiện xuất hiện tài năng Vũ Trọng Phụng.

Lý luận phê bình văn học thế kỷ XX đặc trưng bởi hai xu hướng lớn: xu hướng theo mỹ học nội quan và xu hướng theo mỹ học ngoại quan. Xu hướng nội quan (chủ nghĩa hình thức Nga, Phê bình mới, chủ nghĩa cấu trúc) đề cao tính tự trị của nghệ thuật, xét văn học trong sự cô lập với ngữ cảnh văn hóa xã hội, tìm kiếm trong văn bản đối tượng thẩm mỹ duy nhất. Xu hướng ngoại quan mà điển hình là mỹ học tiếp nhận đề cao ngữ cảnh văn hóa, xem nó như nhân tố làm nảy sinh tác phẩm và xác định giá trị cho nó. Tác phẩm chỉ được "thực hành", thực sự trở thành sinh mệnh khi tiếp xúc với người đọc, khi có sự đọc. Giá trị của nó được quy định bởi sự đọc. Không có cái đẹp duy nhất trong văn bản. Giá trị thẩm mỹ là tương đối, hay nói theo Umberto. Eco: "Tác phẩm văn học và văn học nói chung là một quá trình"(1). Theo tôi một phương pháp phê bình thống nhất những yếu tố khả thủ của hai xu hướng này, nghĩa là phải đặt tác phẩm văn học vào ngữ cảnh văn hóa đồng thời vẫn phải thừa nhận / tìm kiếm trong bản thân nó "một cái gì đó" sẽ là một hướng đi có khả năng tạo ra những cách nhìn mới. Xin thử minh chứng bằng ví dụ của văn học Việt Nam, một trường hợp liên quan đến "các hiện tượng văn hóa phổ biến": vấn đề dâm hay không dâm trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng. Những cuộc tranh luận xung quanh chủ đề này đã có nhiều tài liệu và hầu hết chúng ta đều đã biết, thiết nghĩ không cần phải mô tả lại(2). Ở đây chúng ta chỉ xét vấn đề dâm hay không dâm từ ba góc độ: 1) Từ ý đồ của Vũ Trọng Phụng và hiện thực trong tác phẩm của ông; 2) Từ ngữ cảnh văn hóa đương thời: cuộc tranh luận về vấn đề này những năm 1936-1939; 3) Từ điểm nhìn của chúng ta: ngữ cảnh văn hóa những năm đầu thế kỷ XXI.

Từ quan niệm nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng

Trước hết phải thấy rằng cuộc tranh luận về vấn đề văn chương dâm uế có nguyên nhân sâu xa từ chính bản thân các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng. Quan điểm có phần cực đoan về vấn đề tình dục và việc miêu tả những hành vi xấu xa, dâm loạn của một số nhân vật trong tác phẩm của ông có thể đã làm nảy sinh ở độc giả những suy nghĩ chệch khỏi định hướng và mục đích của tác giả. Vũ Trọng Phụng là nhà văn tả chân và theo ông cái ung nhọt nhức nhối trong xã hội cần phải được người văn sĩ tả chân vạch ra, phơi bày ra. Với riêng Vũ Trọng Phụng tả cái dâm trong sự phú quý; tả cái dâm của người con gái đến tuổi dậy thì mà không được giáo dục một cách đầy đủ; và tả những nỗi thống khổ do sự nghèo đói gây nên (như nạn mãi dâm tả trong phóng sự Lục Sì) là một nhiệm vụ.
Trong bài viết: Thư ngỏ gửi ông Thái Phỉ, chủ bút báo Tin văn về bài Văn chương dâm uế (Hà Nội báo, số 38, ngày 23.9.1936), nhân danh những văn sĩ tả chân Vũ Trọng Phụng phản bác việc mọi người cho rằng miêu tả cái dâm trong các tác phẩm của ông là một cách trục lợi, "kiếm ăn quanh cái bẩn thỉu", "quanh miền hoa nguyệt". Vũ Trọng Phụng miêu tả cái dâm bởi ông cho rằng đó là dâm uế - nghĩa là những thứ dâm uế tạp, nhơ bẩn; nói cách khác, đó là những quan hệ mờ ám, xấu xa, loạn luân trong xã hội đang rất cần ngòi bút của các nhà văn vạch trần ra, lên án và tố cáo. Ông viết: "nhà văn sĩ tả chân có quyền và có bổn phận tả những điều ấy, mặc lòng đó là những thứ dâm uế tạp, nhơ bẩn, khi tả một cuộc dâm loạn bẩn thỉu, ô uế thì là đến chỗ hoàn toàn của nghệ thuật rồi". Đáp lại sự "ngây ngô" của Thái Phỉ khi cho rằng văn của các văn sĩ tả chân là một thứ văn nhơ bẩn, nó khiêu dâm con người ta qua cách miêu tả lõa lồ, sống sượng khiến cho người đọc thấy ghê tởm, Vũ Trọng Phụng giễu cợt: "Đừng bắt ai trong khi tả một cảnh nhơ bẩn lại phải dùng những câu văn thanh nhã nửa kín, nửa hở, đọc lên không những không thấy ngượng mồm mà lại còn thấy hay ho văn chương nữa, thấy muốn ngâm nga hoặc muốn đọc lại để mà nghĩ đến dâm dục được kỹ càng".
Trên tờ Bắc Hà, năm thứ ba, tập mới, số 1 ngày 1 Avril 1937 khi được hỏi về dụng ý miêu tả một vài cảnh mà người ta cho là dâm đãng, Vũ Trọng Phụng đã trả lời: “một chuyện mà cái cốt là ở một chuyện hiếp dâm mà ra thì làm thế nào cho khỏi có những cảnh như những cảnh trong Giông tố của tôi”. Mục đích của Vũ Trọng Phụng khi viết Giông tố là chụp ảnh lấy cái xã hội hiện thời mà theo ông đó là một xã hội “chưa từng có trong lịch sử ta, nó dung chứa những cuộc đồi phong bại tục mà cái cuốn sử nô lệ khổ não mấy nghìn năm cũng chưa từng phải ghi chép” (Chúng tôi phỏng vấn ông Vũ Trọng Phụng về những tiểu thuyết Giông tố, Làm đĩ - Lê Thanh). Theo Vũ Trọng Phụng thì những cảnh dâm đãng mà ông miêu tả là những cảnh có thật, ông không bịa ra, không tô vẽ thêm. Trong thực tế thậm chí nó còn tồi tệ và “khốn nạn bằng trăm bằng vạn” những chuyện mà ông đã kể. Hơn nữa ông còn khẳng định chắc chắn rằng văn chương của ông không thể khiêu dâm bởi:
“Cái gì đã bẩn thỉu đến làm cho ta nôn oẹ như thế thì nó không có tính chất khiêu dâm... Khiêu dâm là những danh từ bóng bẩy văn hoa, là sự nói đến cái dâm bằng những danh từ điêu trá của văn chương.”
“Cái nhơ bẩn không khiêu dâm, khiêu dâm là sự nửa kín, nửa hở, là cuốn phim trưởng giả về music Hall, những ám ảnh của báo Beauté Magazine, báo sex appeal, cô gái nhảy mặc áo tân thời bằng voan mỏng, những chuyện tình cao thượng...” (Chung quanh thiên phóng sự Lục sì- Bức thư ngỏ cho một độc giả - Tương Lai số 11, Mars 1937).
Vậy thực chất việc mô tả điều được gọi là "cái dâm" ở quan niệm sáng tác của Vũ Trọng Phụng là gì? Có thể nói, để bóc trần bản chất xã hội, phơi bày những cái xấu xa của con người trong xã hội kim tiền, Vũ Trọng Phụng nghiêng về chiếm lĩnh mảng hiện thực xã hội thị dân với những mặt trái của nó. Tiểu thuyết của ông không phải là "chất thơ của đời thực" mà là vị đắng chát của cuộc sống. Thế giới nghệ thuật của nhà văn họ Vũ một phần được nhìn qua lăng kính của bản năng sinh lý. Cái dâm là một phương tiện để Vũ Trọng Phụng trình bày hiện thực. Với ông tội ác, quyền lực, đói nghèo, nạn cờ bạc, nạn hoang thai, tự tử... đều có liên quan ít nhiều đến dục vọng của con người. Cái dâm là khởi nguồn của bất hạnh, trụy lạc và cũng là phương tiện để mưu sinh... Như thế, khi phản ánh một mảng hiện thực khá "nguy hiểm" và nhạy cảm, tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đã tạo ra một sự phá cách trong tư duy nghệ thuật đương đại. Song điều đáng nói là hiện thực đó đã được tái hiện theo một quan niệm mới về nghệ thuật. Nghĩa là nó được xây dựng theo một hình thức mới, một mô hình mới về thế giới trên cơ sở thái độ của chính tác giả với cuộc sống.
Khi bị chỉ trích và lên án là đã tạo ra một khuynh hướng văn chương dâm uế, thứ văn chương đánh trúng vào trí tò mò của con người làm băng hoại truyền thống và đạo đức, một mặt Vũ Trọng Phụng bác bỏ thẳng thừng sự kết án và công kích ấy, mặt khác ông chủ động chỉ ra sự khác biệt về tư tưởng, về quan niệm nghệ thuật và những nguyên tắc xây dựng hình tượng nghệ thuật. Trong cuộc tranh luận, không dưới hai lần ông công khai bộc lộ quan niệm về tiểu thuyết và văn chương nghệ thuật
“Tôi muốn tiểu thuyết xã hội không nên chỉ là tiểu thuyết, nghĩa là không nên quá sai sự thực, tôi muốn rằng tiểu thuyết của tôi là phản ảnh của cái xã hội hiện thời” ( Chúng tôi phỏng vấn ông Vũ Trọng Phụng về những tiểu thuyết Giông tố, Làm đĩ - Lê Thanh).
“Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời” (Để đáp lời báo Ngày nay: Dâm hay là không dâm- Tương Lai số 9, ngày 25.3.1937).
Những quan niệm này được đưa ra nhằm đối sánh với những quan điểm của khuynh hướng văn chương lãng mạn khi trong tâm thức ông "muốn đi ngược lại cái phong trào Âu hóa bằng hình thức mà các ông T.L.V.Đ chủ trương mấy năm nay". Có thể nói, sự đối đầu giữa hai bên thực ra là sự khác biệt về quan niệm nghệ thuật, trong đó bao hàm khả năng nhận thức và mức độ chiếm lĩnh thế giới. Ở đây cả hai phía cùng đề cập đến vấn đề phản ánh và các nhà văn đều nhận ra sự đối lập gay gắt về "cái nhìn" đối với hiện thực và thái độ đối với cuộc sống. Như Phong cho rằng những văn sĩ tả chân đang vẽ lại bộ mặt thực của cuộc đời bằng một thứ bút mực riêng, "họ bôi lem những cái đã xấu xa, làm đen tối thêm những trạng thái của cuộc đời mà họ miêu tả trong sách". Những tác phẩm ấy gieo rắc một thứ triết lý chán chường, dạy cho người ta sự hoài nghi và yếm thế, làm rã rời ý chí và phá hủy lòng tin. Theo ông đó là sự thực của những tâm hồn đang "muốn hưởng cái thú vị chua chát của sự tuyệt vọng"(Những văn sĩ tả chân tư sản - báo Mới, số 9, ngày 25.8 đến 1.9.1939). Trong khi đó Vũ Trọng Phụng khẳng định mục đích mà ông đang làm như sau: "xã hội này có vết thương, tôi phô nó ra để ngài biết mà chạy chữa. Lục sì là nạn mại dâm, là nạn hoa liễu nó đang đục khoét 9/10 cái xã hội của ngài" (Chung quanh thiên phóng sự Lục sì bức thư ngỏ cho một độc giả - Tương lai số số 11, mars 1937).

"Các ông quen nhìn một cô gái nhảy là một phụ nữ tân thời, vui vẻ trẻ trung, hy sinh cho ái tình hoặc cách mạng lại gia đình. Riêng tôi, tôi chỉ thấy đó là một người đàn bà vô học, lại chẳng có thi vị, lại hư hỏng, lại bất hiếu bất mục nữa, lại có nhiều vi trùng trong người nữa. Tôi không biết gọi gái đĩ là nàng, chữ ấy nó thi vị lắm - hoặc tô điểm cho gái đĩ những cái thi vị mà gái đĩ ấy không có, đến nỗi đọc xong truyện người ta chỉ thấy một gái đĩ làm gương cho thế gian noi theo... Các ông có thể coi phong trào khiêu vũ là dấu hiệu tiến hóa mà các ông chủ trương. Riêng tôi, tôi chỉ thấy đó là một cách dâm bôn làm cho tăng số gái giang hồ, một tai họa cho nước nhà..." (Để đáp lời báo Ngày nay: Dâm hay là không dâm- Tương lai 25.07.1937)
Chính cái nhìn thế giới khác nhau là cơ sở để tạo ra một hệ thống những nguyên tắc xây dựng hình tượng nghệ thuật khác nhau. Vũ Trọng Phụng cho rằng khuynh hướng văn chương lãng mạn là tô vẽ hiện thực, còn phe đả kích Vũ Trọng Phụng thì cho rằng ông đang bôi đen hiện thực. Thực ra, vấn đề không phải ở chỗ phản ánh đúng hiện thực cuộc sống hay tô vẽ cho hiện thực mà cái gốc là quan niệm nghệ thuật. Viết về cái dâm, phản ánh xã hội, khám phá bản chất xã hội qua cái dâm của loài người vừa là mỹ quan của Vũ Trọng Phụng, vừa thể hiện cách hiểu thế giới và con người ở mức độ "tới hạn" của nhà văn. Cũng như viết về truyện tình mơ mộng cổ động cho phong trào giải phóng phụ nữ... là mô hình nghệ thuật về thế giới có tính chất công cụ của trào lưu văn học lãng mạn, thể hiện một khả năng soi chiếu, khám phá chiều sâu cuộc sống từ một góc nhìn khác.
Khuynh hướng tả chân đòi hỏi người nghệ sĩ khi sáng tạo ra cuộc sống thứ hai phải tuân theo nguyên tắc tái hiện cuộc sống bằng hình tượng tương ứng với bản chất của chính nó. Vấn đề là mỗi nhà văn chỉ có thể nắm bắt được một khía cạnh, một mảng hiện thực nào đó của cuộc sống. Ở đây hiện thực cuộc sống mà Vũ Trọng Phụng nhìn thấy và nắm bắt được là mảng hiện thực đen tối, ảm đạm và trần trụi của những quan hệ giới tính mang tính tà dâm. Cái mà Vũ Trọng Phụng có thể tái tạo sống động là đời sống vật chất - thân xác - khu vực chung giữa loài người và thế giới động vật. Trên cái biên giới mong manh ấy ông lý giải, bóc trần những mặt nạ người. Ông thấu rõ bản chất xã hội qua sự bùng phát của những tệ nạn xã hội trong cơn lốc du nhập những cái mới (của phương Tây). Những lệch lạc và méo mó trở thành ấn tượng cuộc sống mang phong cách Vũ Trọng Phụng. Xã hội thị dân trong văn chương Vũ Trọng Phụng là cái ung nhọt đang tấy lên cần phải được vạch rõ, đem ra ánh sáng. Vì thế ông chủ trương miêu tả trong tiểu thuyết phải là cái sự thực đau đớn, là "chụp ảnh” cái bộ mặt xám xịt ấy. Mục đích phơi bày cái hiện thực xấu xa nhơ bẩn để mọi người ghê tởm mà tránh đi đã khiến cho ngòi bút của Vũ Trọng Phụng trở nên sắc sảo và chân thực một cách nghiệt ngã. Riêng đối với những cảnh miêu tả hành vi tình dục thì việc vận dụng phương pháp sáng tác này của Vũ Trọng Phụng rõ ràng là một bước đột phá về tư duy nghệ thuật cũng như quan niệm thẩm mỹ.
Trong cuộc tranh luận, Vũ Trọng Phụng đã đưa ra những quan điểm hoàn toàn khác so với những quan điểm nghệ thuật của trào lưu lãng mạn rất thịnh hành thời gian trước đó(3). Thực tế, đọc tác phẩm của ông ta nhận ra một khuôn mặt mới của xã hội. Những chuyển động, những mầm mống manh nha, những ung nhọt và cả những đồi bại nhố nhăng là một trong những biểu hiện của xã hội hiện đại. Và Vũ Trọng Phụng là người đầu tiên đã tái hiện và chuyển tải được nó một cách chân thực, gai góc và độc đáo nhất. Hiện thực cuộc sống dồn nén, chất chứa ngột ngạt trong các trang tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng hiển lộ như những "hiện thực ma quỷ" được chưng cất lên từ chính cuộc sống thực tế. Ở đây sự cách tân triệt để về mặt ngôn ngữ và thể loại cùng với sự chân thực tới mức nghiệt ngã trong các sự kiện đã đem lại giá trị trường tồn cho tác phẩm của ông, đồng thời cũng tạo ra những luồng dư luận, những bước thăng trầm không thể tránh khỏi qua mỗi thời kỳ lịch sử.
Tóm lại, Vũ Trọng Phụng không coi việc mô tả những cái "nhơ bẩn" của xã hội là khêu gợi nhục dục, phô trương "cái dâm" mà mục đích ông viết ra là để cho mọi người thấy sợ, biết sợ mà tránh xa; viết để lột trần cái "tiến bộ điêu trá" của xã hội nhằm cải tạo nó; viết “để chống đỡ con nhà lương gia đệ tử khỏi sa ngã xuống trầm luân và tội ác” (Trương Tửu). Với Vũ Trọng Phụng nỗi ám ảnh về những "rác rưởi ở sân sau của cuộc sống" thôi thúc buộc ông phải lựa chọn "một con đường nghệ thuật không bằng phẳng". Không ít lần ông cảm thấy cô đơn trên hành trình tìm kiếm vẻ mặt và mục đích tinh thần của mình. Trong bài phỏng vấn Vũ Trọng Phụng do Lê Thanh thực hiện đăng trên Bắc Hà (năm thứ ba, tập mới, số 1 ngày Avril 1937) Vũ Trọng Phụng đã không dấu nổi sự cay đắng khi bị công kích, ông nói: "Tôi là nhà văn phải hy sinh thứ nhất trong những nhà văn. Ông tính lăn lóc sáu bảy năm giời trong làng văn há tôi lại không thể tìm được một nghệ thuật dễ hơn, một nghệ thuật mà nếu tôi không đi đến được thì dẫu người ta không khen tôi, người ta cũng không công kích? Tội gì tôi lại đi vào con đường nguy hiểm mà tôi đang đi để người ta cho là thế nọ, thế kia, tha hồ cho bọn người tầm thường vu cáo bằng những phương pháp cũng tầm thường".

Từ tâm lý - thị hiếu thẩm mỹ của người đương thời

Trong quá trình tiếp nhận văn học tâm lý - thị hiếu thẩm mỹ của người đọc chi phối rất lớn đến cách hiểu (giải mã) văn bản nghệ thuật. Khi những tiểu thuyết Giông Tố, Số đỏ, Làm đĩ, Phóng sự Lục sì, Kỹ nghệ lấy Tây… của Vũ Trọng Phụng ra đời cũng là lúc vấn đề “văn chương dâm uế”được đưa lên diễn đàn thảo luận. Ở đây các tác phẩm văn chương có dung chứa những hành vi tình dục được miêu tả một cách táo bạo trở thành nguyên nhân của mọi sự chỉ trích, tranh luận. Trong bài viết Văn chương dâm uế (Tin văn số 5, H, 1936), Thái Phỉ đã lên tiếng cảnh báo một khuynh hướng văn chương “bẩn thỉu”, phạm đến mỹ tục, tả những cái dâm uế một cách loã lồ, sống sượng đến mức ghê tởm. Ông khẳng định: “Họ thấy thiên hạ ưa thích cái dâm uế thì hoặc là cố nhồi nhét cái cảnh dâm uế vào bất cứ truyện gì mình viết, hoặc là viện cái chủ nghĩa tả chân dụng tâm tả cái dâm uế một cách quá táo bạo và vì thế thành ra sống sượng khó coi”. Ông cho rằng đó là những tác phẩm nghệ thuật vụng về và dễ khiêu động cái thú dục trong con người, đẩy họ vào con đường xấu xa tội lỗi nếu đứng từ phương diện luân lý. Theo Thái Phỉ sự thịnh hành của những tác phẩm văn chương đó trong xã hội chính là do sự vận động của tâm lý: "Người ta đang ở chỗ bó buộc, thốt nhiên được cởi trói để sống một cách tự do, thể nào cũng làm những việc quá độ. Người mình đang bị giam hãm trong cái luân lý chật hẹp cũ, nay bỗng bừng mắt ra trước những tư tưởng rộng rãi của Âu châu, tất nhiên là thành ra phóng túng. Cho nên trong cái thời kỳ giao thừa, hễ cái gì rông rỡ là được người ta hoan nghênh". Theo ông, rất nhiều mặt trong xã hội đã thay đổi, và từ cách phục sức hở hang khiêu động, từ những y phục lõa lồ của người đàn bà đến chỗ tả sự thực trần truồng con đường không xa, nhất lại khi có cái lợi kéo đi.
Trước hết phải thấy rằng cuộc tranh luận “dâm hay không dâm” lúc này là cuộc đấu tranh về tâm lý, quan niệm, thói quen. Ở nước ta sự ràng buộc của cộng đồng với những tập tục, đạo đức, lễ nghĩa coi tình dục như một điều cấm kỵ và đã nhấn chìm nó. Tư tưởng nho giáo với chủ trương “tồn thiên lý, diệt nhân dục” ít nhiều mang màu sắc của chủ nghĩa cấm dục đã biến thành một thứ tâm lý xã hội trói buộc nhu cầu tự nhiên của con người. Trong cuộc sống như vậy nên trong văn học chuyện ái tình chỉ được khắc hoạ ở khía cạnh tinh thần. Vấn đề tình dục trong văn nghệ bị coi như một điều cấm kỵ. Người ta ngại nói đến vấn đề này, vô hình chung tình dục trở thành một cái gì đó hoặc thiêng liêng tới mức thần thánh hoặc thô lậu, bẩn thỉu đối lập với sự thanh cao, trang nhã thường thấy trong những áng văn chương.
Tuy nhiên, đến thập niên thứ ba của thế kỷ XX đã có những biến chuyển trên nhiều mặt của xã hội và lịch sử; vinh và nhục, có cuộc đời cực kỳ xa hoa, dâm đãng và những cảnh bần cùng, lưu manh; có cảnh cho vay nặng lãi cắt cổ và các cuộc ăn chơi đàng điếm; có kẻ bị bóc lột đến tận xương tuỷ và các cuộc thi sắc đẹp, chợ phiên, thi basket, thi khúc côn cầu, thi bơi…; hoa hậu và gái đĩ; tiệm nhảy, sòng bạc và nhà thổ… Bộ mặt xã hội lộ ra toàn bộ diện mạo và hình hài của nó với tất cả những góc khuất trên nhiều bình diện và cấp độ. Và đây chính là cơ sở đồng thời cũng là điều kiện xuất hiện tài năng Vũ Trọng Phụng.
Có thể nói lúc này, những biến chuyển về mặt tâm lý thị hiếu luôn diễn ra trong từng khoảnh khắc ở mỗi cá thể. Trong một giai đoạn có nhiều biến đổi như đầu thế kỷ XX ở Việt Nam thì sự hình thành và thay đổi những thị hiếu nghệ thuật lại càng rõ nét. Sự thay đổi này trước hết được ghi dấu trên các báo chí công khai lúc bấy giờ ở việc xuất hiện một loạt những chuyên mục mới nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu và thị hiếu của độc giả. Thực tế, trên báo chí lúc bấy giờ, rất nhiều tờ dành hẳn một phần chuyên nói về vấn đề Vệ sinh bạn gái hay Tâm lý bạn gái có đề cập một cách cụ thể đến những chuyện mà trước nay người ta vẫn cho là chuyện kín(4) (Có thể thấy những hiểu biết về tình dục mà Vũ Trọng Phụng đặt ra trong những tác phẩm của mình hoàn toàn không phải là một chuyện quá đặc biệt, một vấn đề chưa bao giờ được nói đến). Đó là chưa kể đến những chương mục, những trang tin đặc biệt cung cấp những thông tin về nạn hoang thai, nạn mãi dâm, các vụ án tự tử vì tình; những trang quảng cáo nói một cách trực tiếp về những cơ sở chữa bệnh hoa liễu, giang mai và các bệnh xã hội khác... Những thông tin này không chỉ cho thấy bộ mặt xã hội lúc bấy giờ mà còn có khả năng tạo ra một "cuộc cách mạng về tinh thần". Điểm khác nhau chính là ở chỗ Vũ Trọng Phụng đã sử dụng một công cụ cực kỳ lợi hại để tuyên truyền: đó là báo chí và nghệ thuật. Ông dùng nghệ thuật tả chân chứ không sử dụng phương pháp giảng dạy luân lý suông như những nhà đạo đức.
Nhưng những thông tin trên báo chí là một chuyện, còn việc mô tả tình dục trong nghệ thuật lại là chuyện khác. Tâm lý của người tiếp nhận không khỏi cảm thấy ngỡ ngàng trước những sự thực "trần trụi" mà Vũ Trọng Phụng đưa vào trong tác phẩm. Nó trái ngược với truyền thống nghệ thuật vốn đã in sâu trong tâm lý thẩm mỹ của độc giả, tức là đã bền vững ở tầng sâu nhất. Có thể người ta vẫn thấy cần phải đọc song tâm lý e ngại và thái độ đầy định kiến đã đẩy vấn đề đi đến chỗ nghiêm trọng. Tả những cảnh "dâm uế" Vũ Trọng Phụng đã bị liệt vào hạng những nhà văn cố tình “khiêu dâm độc giả”, làm đồi bại thuần phong mỹ tục, “cố làm rung động giác quan của người đọc hơn là nghĩ đến nghệ thuật”… Nhất Chi Mai trong bài viết Ý kiến một người đọc: Dâm hay không dâm (Ngày nay, số 51, ngày 14.03.1937) đã lên án đích danh Vũ Trọng Phụng bằng những lời lẽ phẫn uất và nặng nề: "Tôi phải chỉ trích những cái khốn nạn, lầy lụa của những đoạn văn mà một bọn văn sĩ nửa mùa về hùa nhau cho là kiệt tác, là đúng sự thật, là can đảm...". Cái thứ văn bẩn thỉu, nhơ nhớp, dơ dáy của Vũ Trọng Phụng chứa đựng một tư tưởng hắc ám, căm hờn, nhỏ nhen. Theo Nhất Chi Mai cái "thế giới khốn nạn" mà Vũ Trọng Phụng đã nhìn thấy và đang phơi bày ra chỉ là cái thế giới riêng của Vũ Trọng Phụng. Thế giới ấy được tạo dựng nên bởi một nhà văn "nhìn thế gian qua cặp kính đen, có một bộ óc cũng đen và một nguồn văn càng đen nữa".
Ở đây cần đặt ra vấn đề mức độ miêu tả thế nào thì bị coi là văn chương dâm uế. Có thể nói, đó là một tiêu chí mà những biến động của nó gắn liền với những thay đổi của hoàn cảnh lịch sử, phụ thuộc vào quan niệm và thuần phong mỹ tục của mỗi dân tộc. Mỗi giai đoạn lịch sử tiêu chí này lại có những thay đổi nhất định và chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi quan niệm và thị hiếu thẩm mỹ ở mỗi thời. Chỉ cần quay lại nhìn lịch sử trang phục của người phụ nữ, chúng ta sẽ thấy quan niệm về cái đẹp đã có những dịch chuyển tưởng chừng chóng mặt. Đó là còn chưa kể đến trang phục ở một số ngành có tính chất trình diễn như ca nhạc, thời trang, vũ đạo…Từ chỗ trang phục là vật che thân đến quan niệm trang phục phải tôn vinh vẻ đẹp hình thể của người phụ nữ, xã hội dần chấp nhận những cách ăn mặc mà trước đây có thể bị đánh giá là lẳng lơ hay khiêu dâm. Như thế, nhìn từ một trong những biểu hiện của xã hội là cách phục sức của con người chúng ta có thể nhận ra những bước dịch chuyển trong tư tưởng của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Trở lại những vấn đề trong cuộc tranh luận Dâm hay không dâm, sự mâu thuẫn không thể dung hòa giữa hai phái xuất phát từ độ chênh trước sự tiếp nhận cái mới (hoặc cũng có thể một bộ phận của cộng đồng cố tình không chấp nhận sự thay đổi trước những quan niệm đã tồn tại ngàn đời trong xã hội và tất yếu sẽ xảy ra tranh đấu). Và chính những độ chênh ở nhiều cấp độ sẽ tạo ra những va chạm, biến đổi và nhiều hơn nữa là sự đa dạng của hiện thực cuộc sống.
Như thế, ở trong một xã hội mà khi nói đến vấn đề tình dục người ta thực sự cảm thấy ngại, thậm chí bị coi là không đạo đức, là truỵ lạc hay sa đoạ thì quả thực những trang tả chân của Vũ Trọng Phụng trong các tác phẩm sẽ bị coi là dâm hay chí ít cũng tạo ra những "xô xát" trong sự tiếp nhận của người đọc. Tác phẩm của Vũ Trọng Phụng là sản phẩm nghệ thuật có khả năng tác động mạnh đến thị hiếu của độc giả; nghệ thuật kể chuyện tuyệt vời và "cái được kể", tức cái thế giới và con người mà ông dựng lên đã thu hút bạn đọc đến và tranh cãi về nó.
Từ điểm nhìn văn hóa hôm nay: tác phẩm nghệ thuật viết về tình dục và một vài suy nghĩ xung quanh vấn đề này
Tính dục ở nhiều góc độ là "cảm quan” thẩm mỹ của Vũ Trọng Phụng, tuy nhiên nhà văn họ Vũ khẳng định rằng ông không hề “khiêu dâm độc giả” mà chỉ muốn phản ánh cái hiện thực dâm loạn, ô uế, bẩn thỉu trong xã hội đương thời mà thôi. Ở đây, một con người chừng mực, nghiêm túc và nhân ái ở ngoài đời không hề đối lập với những trang văn sắc sảo, chất chứa căm hờn, uất hận với cái xã hội bất công. Miêu tả những quan hệ tình dục song Vũ Trọng Phụng không có ý thức hưởng thụ, không bị kéo theo cái trạng thái hưởng lạc trong tác phẩm. Ông viết trong tâm trạng căm giận, xót xa, viết trong sự thương cảm, viết để tố cáo. Vũ Trọng Phụng muốn trong tiểu thuyết của ông những ung nhọt nhức nhối kia phải được mổ xẻ ra mà xem xét và chữa trị. Thực ra những sự thực trần trụi ấy chỉ là một trong những bộ mặt "sặc sụa những mùi mục nát" của xã hội mà thôi. Theo Vũ Trọng Phụng không thể có sự khiêu dâm trong những đứa con tinh thần của ông bởi: "Khi người ta xem tiểu thuyết của tôi người ta thấy ghê tởm, ghê tởm vì trông thấy cái sự thật nó xấu xa, người ta ghê tởm đến nỗi phải tức tối lên, những sự ghê tởm, những cái tức tối ấy thì tôi tưởng cũng đủ làm cho người ta quên mất cái dâm dục rồi" (Chúng tôi phỏng vấn ông Vũ Trọng Phụng về những tiểu thuyết Giông tố, Làm đĩ- Lê Thanh)
Gác tất cả mọi quan điểm, xu hướng chúng tôi muốn nhìn vào thực chất của vấn đề: Văn Vũ Trọng Phụng không khiêu dâm nhưng viết về tình dục (một vấn đề vốn được coi là cấm kỵ). Dù là mục đích như thế nào thì rõ ràng với phạm vi đề tài như thế đã tạo ra “cú sốc” đối với xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Tác phẩm của Vũ Trọng Phụng gây được sự chú ý và tạo ra một thị trường thương mại khá sôi động bởi ông đã dùng tài năng và tâm huyết của mình để nói đến một vấn đề mà ít người dám động tới. Hơn nữa, chính Vũ Trọng Phụng chủ trương tác phẩm của ông phải là một luận đề có tính chất khoa học (khoa học về tình dục). Qua nhiều trang viết nhất là với các phóng sự, Vũ Trọng Phụng đã tiến hành khảo sát, một sự khảo sát có tính xã hội học về vấn đề tình dục. Thiên phóng sự Lục sì thực chất là một cuốn sách có tính khảo cứu về tình dục. Điều này chi phối rất lớn đến cách nhà văn xây dựng hình tượng nhân vật, kiểu nhân vật, và thái độ trước các sự kiện và hiện tượng của cuộc sống. Như vậy, nói một cách công bằng thì viết về cái dâm (tình dục) tác phẩm của Vũ Trọng Phụng không đối lập với thị hiếu thẩm mỹ của số đông độc giả, vấn đề khá nhạy cảm này đã được công chúng chấp nhận ở một mức độ nhất định
Nhìn lại một chút lịch sử ta sẽ thấy vấn đề tình dục trong văn học nghệ thuật không còn là mới. Văn học nước ta từ thời chữ Hán đã có những đoạn miêu tả hành vi tình dục gắn liền với tâm lý tính cách nhân vật. Cấu trúc, tình tiết, chữ dùng tả cảnh mây mưa trong văn học chữ Hán nước ta ảnh hưởng rất nhiều của văn học Trung Quốc và trở thành một hiện tượng mang tính văn hoá. Điều này cho thấy nhà văn và bạn đọc thời xưa đã bắt đầu không thoả mãn với tác phẩm thuần nhã mà có nhu cầu nhã tục cùng thưởng thức (các nhà nho nước ta đã bộc lộ những suy nghĩ riêng trong việc giải toả cái libido)(5). Như thế, phải khẳng định rằng chất "sex" trong các tác phẩm văn học đã có, vẫn tồn tại và phát triển. Sự phát triển của dòng văn học này (đôi khi không được chấp nhận) được đánh dấu trong việc miêu tả những cảnh lạc thú mây mưa. Từ những miêu tả mang tính ước lệ, bóng gió đến cách dùng những chữ bóng bảy nhưng chân xác, táo bạo; nghệ thuật miêu tả cảnh "sex" đã đi đến chỗ chi tiết, sắc sảo hơn, đưa "sex" từ tình tiết lan sang cốt truyện. Nhìn nhận như vậy chúng ta sẽ thấy chất "sex" trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đi theo một chiều hướng khác. Tính dục là một trong những phương tiện để Vũ Trọng Phụng đi sâu khám phá tâm lý, tính cách con người và bản chất xã hội. Sở dĩ những tác phẩm của ông trở thành một hiện tượng "có vấn đề" và bị công kích bởi chất "sex" trong những tác phẩm của Vũ Trọng Phụng là chất "sex" của phần lớn những quan hệ tình dục mà ông coi là dâm uế. Những đoạn văn tả "cảnh dâm đãng" ấy tác động mạnh đến người đọc bởi sự chân xác, táo bạo và dữ dội. Tuy nhiên đây lại là sự chân xác của một sự thực mà tác giả muốn phơi bày ra để lên án và tố cáo. Mục đích khác nhau sẽ dẫn đến việc dùng từ ngữ miêu tả những hành vi tình dục cũng khác nhau. Vì thế, đọc tác phẩm của Vũ Trọng Phụng người ta chỉ thấy một sự thực trần trụi và nghiệt ngã. Vũ Trọng Phụng đã tạo ra một góc nhìn khác trước quan hệ tình dục của loài người. Nhìn nhận như vậy chúng ta sẽ thấy sự đóng góp của Vũ Trọng Phụng cho nền văn học ở khía cạnh này. Trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng không tránh khỏi có những chi tiết miêu tả tình dục mang tính tự nhiên song rõ ràng tình dục và bản năng sinh lý của con người là một phương tiện hữu hiệu để Vũ Trọng Phụng khám phá và vạch trần bản chất xã hội ở một giai đoạn đầy phức tạp ở Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX.
Một chủ trương khác của Vũ Trọng Phụng khi viết về cái dâm còn là nhằm giáo hóa thanh niên. Giáo dục cái sự dâm (tình dục) của con người, theo ông đó là điều gần xác thịt hơn là gần linh hồn, "cái điều cao thượng, đẹp đẽ và linh thiêng vô cùng, vì nhờ nó mà loài người không tiêu diệt". Ông muốn các nhà đạo đức và các bậc làm cha mẹ chăm lo đến hạnh phúc của con cái thì “phải để ý đến cái sự mà những thành kiến hủ bại vẫn coi là điều bẩn thỉu, tức là cái sự dâm”. Tình dục dưới con mắt của Vũ Trọng Phụng như vậy được nhìn nhận là một vấn đề hoàn toàn nghiêm túc. Theo ông đây là vấn đề cần phải được nghiên cứu, học hỏi để nâng nó lên một trình độ tận thiện, tận mỹ. Ở nước ta chính những kẻ đạo đức giả cùng những thành kiến hủ bại đã biến tình dục của loài ngươì thành một điều xấu xa. Ông kêu gọi: “Tìm một nền luân lý cho sự dâm, giáo hoá cho thiếu niên (6) biết rõ dục tình là những gì, đó là việc phải làm ngay vậy.”
Có thể nói, sở dĩ Vũ Trọng Phụng đề cập nhiều đến vấn đề giáo dục giới tính bởi ở phía bên kia chiến tuyến trong khi công kích văn chương của ông là văn chương dâm uế người ta đã cho rằng những tác phẩm như Lục sì, Làm đĩ... sẽ rất có hại cho thanh thiếu niên bởi nó công khai vấn đề giới tính của con người, đề cập đến cái dâm một cách lộ liễu. Nội dung này cũng được Vũ Trọng Phụng đề cập khá cụ thể ở các bài: Chung quanh thiên phóng sự Lục sì- bức thư ngỏ cho một độc giả; Để đáp lời báo Ngày nay: Dâm hay không dâm… Có thể nói, ông giữ vững lập trường và quan điểm về việc giáo dục giới tính cho con trẻ và chủ trương phải từ bỏ nạn mại dâm bằng cách phô nó ra như một vết thương sâu quảng cần được chữa trị. Những quan điểm ấu trĩ trong giáo dục con trẻ chỉ có hại cho chúng và nguy cơ băng hoại đạo đức là không thể tránh khỏi .

Còn một điểm nữa đáng chú ý là trong cuộc tranh luận Vũ Trọng Phụng tỏ ra là người bảo thủ trước những đổi thay của con người và xã hội. Ông nhìn thấy đằng sau những danh từ đẹp đẽ của sự tiến hóa chứa đầy tội ác và trụy lạc. Văn chương Vũ Trọng Phụng chưa bao giờ và cũng không thể xây bằng ảo tưởng và mơ mộng. Ông thấu rõ "mọt sâu nương núp giữa lâu đài", nhận ra cái điêu trá trong những danh từ bóng bảy mỹ miều của phong trào Âu hóa đương diễn ra rầm rộ ở nước nhà. Nói về sự "bảo thủ" ấy Vũ Trọng Phụng khẳng định: "Tôi muốn đi ngược lại cái phong trào Âu hóa bằng hình thức mà các ông T.L.V.Đ chủ trương từ mấy năm nay."
"Giải phóng cho phụ nữ đi, cái đó đã đành. Nhưng điều cốt yếu là đồng thời cũng phải làm thế nào cho phụ nữ đừng quên những nghĩa vụ của kẻ làm con, làm vợ, làm mẹ. Tôi không khinh bỉ một thiếu nữ mặc y phục tân thời, ) đi khiêu vũ, chợ phiên, và dự mọi cuộc ăn chơi khác nữa, nếu thiếu nữ vẫn biết thổi nồi cơm, biết cái gì là chung tình, biết cái gì là không hại cho nên kinh tế gia đình..." (Bắc Hà số 1, ngày 1.4.1937).
Có lẽ chính tư tưởng bảo thủ ấy đã giữ cho "ấn tượng tính dục" trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng không bị trượt ra khỏi nền tảng của những tư tưởng truyền thống.
Trở lại thực tế ngày hôm nay chúng ta cần tìm ra lối thoát cho vấn đề tình dục trong văn nghệ. Để tránh có những nhận định thiên kiến, cứng nhắc xin được hiểu đúng vấn đề này từ thực tế cuộc sống và văn học nghệ thuật. Đứng trước mỗi tác phẩm nghệ thuật điều quan trọng không phải là cái nội dung thuần túy mà tác phẩm đang kể cho chúng ta mà là cái ý nghĩa lớn lao đằng sau nội dung có tính chất như khơi gợi ấy. Thiết nghĩ, một tác phẩm nghệ thuật đích thực có lẽ việc "khóc thương" hay ngợi ca những số phận con người chỉ là sự trình diễn trên cái bề mặt dễ thấy, giá trị đích thực của nó trú ngụ nơi những tầng sâu bí ẩn của tâm linh con người, buộc con người phải đối diện với chính mình, suy ngẫm và trăn trở. Vấn đề đặt ra là cần phải phân biệt một tác phẩm nghệ thuật có viết về tình dục hoặc là một tác phẩm nghệ thuật có dung chứa những tình tiết sex với một tác phẩm lợi dụng chuyện này thành vấn đề sinh vật tính, con người chỉ còn cái tự ngã trơ trụi và cảm quan nhục thể của bản thân. Dĩ nhiên không có sự cấm kỵ những xu hướng tình dục lành mạnh, song nếu cổ xúy con người đổ xô vào việc hưởng thụ cho hết nấc thang của sự khoái lạc thân xác mà bất chấp tất cả các khía cạnh xã hội khác, e rằng khi đó con người sẽ trở lại thế giới mông muội trước kia. Đối với vấn đề này, giằng thoát khỏi mọi đòi hỏi về phẩm chất, hình tượng con người sẽ trở thành đồng đẳng với sinh vật. Có thể nói, việc cấm kỵ bộc lộ tính dục cũng như vẻ đẹp thân xác là một việc làm trái quy luật, trái tự nhiên song nếu cực đoan nó con người sẽ rơi xuống hố sâu và tự giết chết chính mình. Bởi tính dục là một nhu cầu tự nhiên song nội dung, tính chất và phương thức thỏa mãn lại bộc lộ một trình độ văn minh nhất định.
Trên thế giới hiện nay đã xuất hiện những xu hướng văn học viết trần trụi về tính dục và thú hưởng lạc. Các tác phẩm văn học này được xây dựng nên bởi những cốt truyện giàu tính hành động, chi tiết miêu tả tinh tế, ngôn ngữ có tiết tấu mạnh... vì thế trở thành một thực tiễn thương mại cực kỳ thành công. Song việc đề cao cái tự ngã và đánh mất toàn bộ liêm sỉ trong trò chơi tình dục, kích thích quá hạn những lạc thú thuần bản năng của con người, những tác phẩm văn học này đang được cảnh báo là đi vào con đương nguy hiểm, mạt lộ của văn học (7).
Khi tiếp nhận văn học được coi là một tiêu chí quan trọng để định giá một tác phẩm văn học nghệ thuật, thì có thể nói những cách hiểu khác nhau về tác phẩm của Vũ Trọng Phụng tuy tạo ra những xung đột (đôi khi kéo theo những định kiến thật sai lầm), song nó lại là cánh cửa để ngỏ cho những cơ hội phát hiện những giá trị mới từ những mã ngôn ngữ, mã nghệ thuật và văn hoá kết tinh ở trong đó.

________________________________________
(*) Văn học và ngữ cảnh văn hóa: Từ một ví dụ: Vấn đề Dâm hay không dâm trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng
(1) Xin xem thêm: Từ văn bản đến tác phẩm (Trương Đăng Dung, Nxb Khoa học xã hội, H.,1999); Nghệ thuật như là thủ pháp (Lý thuyết chủ nghĩa hình thức Nga), Đỗ Lai Thúy biên soạn, giới thiệu. H., 2001; Chủ nghĩa cấu trúc và văn học Trịnh Bá Đĩnh, Nxb Văn học, H., 2003).
(2) Về vấn đề này xin có thể xem: Vấn đề Vũ Trọng Phụng (Việt Trung, Nghiên cứu văn học (Hà Nội), số 5-1960); Bàn về những cuộc đấu tranh tư tưởng trong lịch sử văn học Việt Nam (Vũ Đức Phúc. Nxb Khoa học Xã hội . H. 1971); Vũ Trọng Phụng, nhà văn dơ dáy hay trong sạch ? (Vũ Bằng, Giai phẩm văn học, Sài gòn, 5-8-1973); Vấn đề Vũ Trọng Phụng qua những bước thăng trầm (Nguyễn Hoành Khung, báo Giáo viên nhân dân số 27, 28, 29, 30, 31 tháng 7-1989); Vấn đề đánh giá văn học Việt Nam 1932-1940 và đấnh giá Vũ Trọng Phụng (Lê Đình Kỵ, Tạp chí Văn học số 6-1992, tr 4-5); Nhìn vào việc đánh giá Vũ Trọng Phụng, suy nghĩ về vấn đề đổi mới tư duy trong nghiên cứu văn học (Lê Thị Đức Hạnh, Tạp chí Văn học số 1-1989); ảnh hưởng của phân tâm học Freud trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng (Nguyễn Thành, Tạp chí văn học số 4-1997); Làm đĩ, cuốn sách có trách nhiệm và đầy nhân đạo (Hoàng Thiếu Sơn, Lời giới thiệu tiểu thuyết Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng, Nxb Văn học, h. 1996); Vũ Trọng Phụng - hôm qua và hôm nay (nhiều tác giả, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1992)....
(3) Trên diễn đàn văn nghệ rất sôi động vào thời gian này, vấn đề văn chương phải phản ánh cuộc sống cơ cực, lầm than của người lao động đã được nhắc đến trong cuộc tranh luận Nghệ thuật vị nghệ thuật hay Nghệ thuật vị nhân sinh, tuy nhiên để trở thành một nhãn quan nhìn cuộc sống và trở thành một quan niệm nghệ thuật mang tính định hướng cho cả một trào lưu văn học nghệ thuật thì những phát ngôn của Vũ Trọng Phụng vẫn được coi là mở đầu.
(4) Có thể kể ra các báo Phụ Nữ Tân Văn, Nam Phong...
(5) Theo Phạm Tú Châu (Vài suy nghĩ về tiểu thuyết tình dục chữ Hán của Việt nam - Tạp chí Hán Nôm số 3/1999)
(6) Chỉ thanh niên ngày nay.
(7) Xin xem thêm: Vệ Tuệ, Miên Miên với những lệch lạc về văn hóa - Trương Cảnh Siêu, Văn nghệ số 30 (2114) thứ bảy 22.7.2000.

_______________________________________________