Thứ Hai, 26 tháng 4, 2010

Truyện ngắn trẻ: văn chương suồng sã của đời!

Bùi Việt Thắng

Cứ thế bước ào vào văn chương, tôi muốn mượn cách của một nhà báo trẻ viết về hiện tượng Nguyễn Thị Ấm đầu những năm 90 thế kỷ XX để nói về các cây bút trẻ viết truyện ngắn bây giờ. Cuốn sách kể trên gồm 55 truyện chọn lọc của 10 tác giả mà tên tuổi của họ đã trở nên khá quen thuộc với bạn đọc: Hà Kin, Keng, Trần Thu Trang, Dương Bình Nguyên, Dương Thuỵ, Phan Hồn Nhiên, Đặng Thiều Quang, Nguyễn Ngọc Tư, Di Li, Cấn Vân Khánh. Trong số 10 cây bút trẻ có truyện được đưa vào sách tuyển này Nguyễn Ngọc Tư là nổi bật nhất với Cánh đồng bất tận và Gió lẻ và 9 truyện khác. Trần Thu Trang, Di Li, Đặng Thiều Quang gần đây nổi lên như những người trẻ viết khỏe và tác phẩm của họ có người đọc, bán chạy (chẳng hạn năm 2008) Trần Thu Trang cho in 99 tuần buôn chuyện, sách được xếp thứ 6 trong top 10 sách hay của năm do bạn đọc báo Người lao động bình chọn. Đọc truyện ngắn của các cây bút trẻ tôi có cảm giác họ đến với văn chương thật dễ dàng cũng như bất kì một cuộc chơi nào và cũng có thể bỏ cuộc bất cứ lúc nào. Có lẽ thế mới là tuổi trẻ, bởi khi người ta trẻ thường không ưa kiến thức, không ưa thề thốt sống chết với điều gì. Cái tâm thế cầm bút viết văn của người trẻ bây giờ, tôi cứ hình dung, giống cái tâm thế của nhân vật Nhật Quân trong truyện ngắn Em có muốn tắm không? của Cấn Vân Khánh: “Nhật Quân bật nhạc disco, chân nhún nhảy dù lòng trống rỗng. Anh đã ngủ với trên dưới mười cô quen qua mạng. Tất cả đều đơn giản, vui vẻ, không ràng buộc và không tính toán. Hôm nay, rõ là một ngày xui xẻo. Có lẽ cô ta còn trinh. Nhật Quân trùm chăn kín mít gọi điện cho người yêu: “Em có khoẻ không? Anh không được khoẻ lắm, nghe người yêu gắt gỏng một hồi rồi anh tắt máy chìm vào giấc ngủ. Ngày mai, anh sẽ thay nick” (trang 95).

Một hiện tượng “Vô bờ bến”, có lẽ là quan niệm chung của những cây bút trẻ bây giờ mà 10 tác giả được tuyển vào sách là tiêu biểu: họ viết về bất cứ chuyện gì mắt thấy, tai nghe từ Em có còn trinh không? của Keng, Em có muốn tắm không? của Cấn Vân Khánh đến Câu chuyện cà phê của Phan Hồn Nhiên, Tâm trạng khi say của Đặng Thiều Quang… Những câu chuyện được người trẻ viết ra nhiều khi như là vô cớ và vô nghĩa kiểu như: “Emily nhìn tôi ngưỡng mộ. Thế là tôi sắp ngủ với em rồi”. Rồi khi xa nhau thì “thôi không còn da diết nhớ đến nàng mỗi khi chiều buông (…). Có lẽ nàng chỉ còn là một giấc mơ thoáng qua trong cuộc đời tôi; Emily, giờ này em ở đâu? Trời vào thu, Việt Nam buồn lắm em ơi…” (Đặng Thiều Quang – Emily, trang 312-313)… Đọc 10 tác giả được tuyển chọn vào sách, dù là những tên tuổi có thể gây cho ta nhiều hi vọng, tôi vẫn cứ phấp phỏng một điều đúng như nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã nhận xét: “Cái nghề văn muốn đi theo nó thì ngoài niềm say mê còn phải có chí lớn. Dấu hiệu để người viết có thể đi xa được trong nghề chính là trí tưởng tượng phong phú. Trí tưởng tượng giúp người ta bay lên trên thực tế để mà viết. Nhưng xã hội hiện tại có quá nhiều sức ép đè lên vai người viết trẻ (…) thành ra, hình như trí tưởng tượng của họ bị giảm sút. Gần đây tôi có đọc Vũ điệu thân gầy, cả truyện là một hiện thực thô thiển, mà hiện thực thô thiển thì chẳng có gì đáng nói cả. Giới trẻ hiện nay cứ đi sâu vào mô tả hiện thực mà không bay lên được. Thấy buồn” (Văn chương không thể hão huyền – Báo An ninh Thủ đô số 2074 ra ngày 13-7-2007).

Không phải là không nỗ lực để “bay lên được” như Nguyễn Huy Thiệp cầu mong. Vẫn có thể nhìn thấy được cái năng lực tưởng tượng trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, Dương Bình Nguyên và ít nhiều ở Di Li (Hai người trên hoang đảo có thể coi là một truyện ngắn đứng được). nhiều người thích những truyện của Dương Bình Nguyên được đưa vào sách tuyển này (Bóng Kơnia đổ dài là khá hơn cả). Những truyện của Nguyễn Ngọc Tư được đưa vào sách tuyển này đều ngắn gọn, xinh xẻo và ít nhiều có sức bay lên của trí tưởng tượng (cái điệp khúc “nghe đâu,…” trong truyện Cải ơi! Chính là cái lối viết không quá câu nệ vào hiện thực).

Văn là người, trong trường hợp những cây bút trẻ là đúng. Dường như khi viết họ chỉ cốt bằng mọi cách phô diễn cho hết mọi ý tứ, thậm chí viết làm sao cho lạ, cho mùi mẫn mà không nghĩ rằng nghề chữ cũng lắm công phu. Sự cẩu thả trong cách viết của các cây bút trẻ, tôi nghĩ, không phải do học vấn, văn hóa mà là từ một quan niệm “văn chương suồng sã của đời” nên phải viết làm sao cho nó “bụi bặm”. Hoặc giả từ một quan niệm muốn hiện đại hoá tiếng Việt nên vay mượn, lai căng. Tôi dám chắc các cây bút trẻ có mặt trong cuốn sách này và rộng ra là văn trẻ nói chung, mấy ai đã kì công như Nguyễn Tuân trong lao động nghề nghiệp để luyện chữ. Trong bài Về tiếng ta, ông viết: “Có những tiếng những chữ mỗi lần vác từ trong kho dân tộc ra mà dùng, cần phải gieo nó xuống, cần phải gõ nó lên mà đo lại cả những vòng ngân vang hưởng của nó” (Bàn về văn học nghệ thuật, Nxb Hội Nhà văn, 1999, trang 635-636). Xin được trích dẫn vài đoạn văn để thấy cách viết của người trẻ thật là dễ dãi: “Anh Buzz Nick em vào đúng 12h trưa làm em mải mê nhìn màn hình, lách cách với bàn phím và tủm tỉm cười một mình quên cả đi ăn cơm. Anh send cho em bao nhiêu là truyện cười, bảo rằng muốn em được vui vẻ vì thấy dòng status. [chán như con gián]. Nếu anh không invisible thì chắc cũng để cái câu: [Buồn như con chuồn chồn] cho có đôi có cặp với em. Ôi, con gián không biết chán và con chuồn chuồn cũng chẳng biết buồn đâu, chỉ có anh và em là chán với buồn cùng nhau” (Keng: Em đã dọn nhà, trang 58). Đây là văn nói chứ không phải viết, đây là văn lai căng chứ không phải văn Việt. Một ví dụ khác: “Hình như tiếp xúc nhiều với các em chân dài, đâm ra tôi chai sạn hay sao ấy. Hoặc vì với tôi chuyện ấy dễ dàng quá nên tôi chẳng có cảm xúc gì cả. Thật đấy, bây giờ cho dù hoa hậu có tụt váy giữa cái quán này tôi cũng chẳng mấy hứng thú gì, anh có tin không?” (Đặng Thiều Quang: Tâm trạng khi say, trang 347). Sẽ có người không đồng tình với tôi khi nêu vài ví dụ như thế để nói về sự cẩu thả trong cách viết của các cây bút trẻ. Họ sẽ đồng tình với người trẻ bằng sự bao biện “Ôi dào, các bố già rồi phải để bọn tẻ nó tung tẩy một tí chứ!”. Dĩ nhiên cũng có cây bút trẻ có ý thức chăm lo câu chữ như Dương Bình Nguyên chẳng hạn (Bóng Kơnia đổ dài là một truyện ngắn văn viết hay). Tôi nhớ trong một cuộc toạ đàm về tiểu thuyết Giã biệt bóng tối của Tạ Duy Anh (tại Viện Văn học cách đây vài năm) nhà văn Nguyễn Khắc Trường có một nhận xét xác đáng: “Theo tôi, một cuốn sách hay phải có ba cái hay: Vấn đề đặt ra hay, cốt truyện hay và văn hay”. Vậy văn trẻ bây giờ đạt được bao nhiêu cái hay trong một tác phẩm? Theo tôi thì thường là chỉ đạt được một trong ba (hoặc vấn đề hay hoặc cốt truyện hay) đã là lạc quan lắm lắm. Riêng “văn hay” thì may ra đạt được mức rất khiêm tốn.

Hãy đợi đấy! Là tên một bộ phim hoạt hình nổi tiếng của Liên Xô (trước đây). “Hãy đợi đấy!”, cái điệp khúc ấy thật vui vẻ và hứa hẹn nhiều bất ngờ. Rất có thể trong số 10 tác giả được chọn vào sách tuyển trên sẽ có một vài tên tuổi sáng giá của nền văn chương đương đại Việt Nam (biết đâu tác phẩm của họ được quảng bá rộng rãi ở nước ngoài như Nguyễn Huy Thiệp chẳng hạn). Tôi thuộc số người không hay bi quan cũng như không lạc quan tếu trước bất kỳ hiện tượng văn chương nào. Nói như Xuân Diệu “thời gian sẽ vặt lông” tất cả mọi việc chúng ta làm và những gì làm ra. Chờ đợi, như ai đó nói, cũng là một niềm vui sướng, một hạnh phúc.

Nguồn: VNT
______________________________________________________________

Thứ Sáu, 23 tháng 4, 2010

Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp

ĐỖ ĐỨC HIỂU

Trong hành trình "Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp", tôi thấy một giọt vàng rơi vào lòng mình, giọt vàng ròng ngời sáng. Đó là truyện ngắn của anh. Anh tái tạo truyện ngắn ở Việt Nam vào những năm cuối thế kỷ XX này và nâng nó lên một tầm cao mới: thơ ca và triết lý, nó truyền thống và hiện đại, phương Đông và toàn nhân loại.

TỪ CHUYỆN đến TRUYỆN NGẮN

"Từ chuyện (conte) đến "truyện ngắn (nouvelle); Trước hết, tôi đề nghị với bạn đọc một quy ước: tôi gọi là chuyện (conte) những chuyện dân gian, chuyện hoang đường, kể một cách hồn nhiên, chuyện cổ tích, chuyện truyền thuyết, chuyện truyền kỳ, chuyện tiếu lâm vân vân. Và tôi gọi là truyện ngắn (nouvelle) những truyện đã được mã hóa, mang đậm dấu ấn cá tính người kể truyện, cụ thể và hiện thực, mang tính " hiện sinh", tức là con người xuất hiện như một cá tính có ý thức về bản thân mình và về người khác; nó luôn luôn xa lạ với trật tự đã hình thành, với những giá trị đã được thiết lập. Vì vậy, truyện ngắn chỉ ra đời khi con người và xã hội đã trải qua một khủng hoảng ý thức (crise de conscience), biết thế nào là tự do và dân chủ. Truyện ngắn ra đời ở thời kỳ hiện đại như một cá tính có ý thức, có mầm mống, ở phương Tây, từ thời kỳ phục hưng, và đạt tới đỉnh điểm, tức là đã được hoàn chỉnh về phương diện thi pháp, ở thế kỷ XIX, với những tên tuổi lừng lẫy: Mérimée, Daudet, Maupassant, Tchékhov... và ở thế kỷ XX với Woolf, Palerm, Kafka, Duras...

Tất nhiên, có những liên hệ mật thiết giữa chuyện (chuyện dân gian, chuyện hoang đường, hồn nhiên) và truyện ngắn. Chuyện và truyện ngắn đều kể một câu chuyện (histore, fable) và thường đều ngắn. Chuyện là mầm mống của truyện ngắn. Chuyện chứa đựng những yếu tố tiềm tàng của truyện ngắn, truyện ngắn là đỉnh cao của quá trình phát triển của chuyện (có khi qua nhiều thế kỷ), nó luôn luôn gợi nhớ chuyện, đến một thời điểm lịch sử nhất định, chuyện "lột xác" thành truyện ngắn. Thời điểm đó, chính là sự tự ý thức của con người về bản thân nó, về cá nhân và xã hôi. Một nhà nghiên cứu Pháp hình dung chuyện (conte) như những vòng tròn đồng tâm, bao vây lấy nhân vật, những đạo lý, trật tự xã hội, dư luận, pháp luật v. v... Còn nhân vật của truyện ngắn làm "nổ tung" những thiết chế ấy; nó dữ dội, nó đau khổ, nó vùng vẫy, nó phiêu lưu, nó cô đơn. Xét về bình diện thi pháp, cấu trúc chuyện là bất biến, ngưng đọng; không gian chuyện là mơ hồ, thời gian chuyện không xác định, nhân vật chuyện không có cá tính ("Ngày xửa, ngày xưa", ở một khu rừng nọ", "một lão tiều phu"...) Chuyện dù có biến động thế nào, cuối cùng Lọ Lem trở thành vợ của Hoàng tử và hai cô chị lấy hai vị đại thần. Còn Mèo đi ủng (Le Chat botté) với trí tinh khôn, giúp ông chủ nghèo và hiền lành của mình lấy được công chúa, lên ngôi vua.

Chuyện thường kết thúc vui vẻ, có hậu, tức là chuyện không ra ngoài trật tự hiện hành, không ra ngoài tư duy thống trị lúc đương thời. Trái lại, truyện ngắn luôn phá vỡ những vòng vây bao quanh nó. Nó động, nó có thể trải qua bi kịch. Thế giới truyện ngắn là thế giới lộn xộn, xáo động, đỗ vỡ, có thể là thế giới của cái ác, " thế giới hiện thực" - có thể nói vậy. Nó không ổn định, không "hoang đường" (ở đây, mọi điều tốt đẹp). Bởi vậy, truyện ngắn đầy sức sống, chứa đầy khát vọng. Người kể truyện ngắn có cá tính cao độ, có nhiều tiếng nói, những tiếng nói này khám phá thế giới, khám phá con người. Nhân vật chuyện thường đơn giản, một chiều, hay nhất phiến, còn nhân vật truyện ngắn có nhiều tầng lớp tâm lý, kể cả tiềm thức, vô thức.

Qua những nhận định bên trên, có thể nói, ở Việt Nam, truyện ngắn chỉ ra đời và phát triển trong giao lưu văn hóa Đông - Tây, cụ thể hơn, Việt Nam - Pháp, nhất là từ đầu thế kỷ XX, với những nhà văn như Phạm Duy Tốn, Nguyễn Công Hoan, Khái Hưng, Nhất Linh, Nam Cao, Thạch Lam, và trong hơn thập niên cuối cùng của thế kỷ XX này, với Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh, Trần Trung Chánh...

Có thể nói tóm tắt: Truyện ngắn là sự đổi mới của chuyện. Để hiểu rõ thêm truyện ngắn, tôi sẽ phân biệt nó với tiểu thuyết (trước đây, có người gọi là truyện dài).

Thierry Ozwald nhận định một cách xác đáng rằng chuyện, truyện ngắn và tiểu thuyết thuộc chung "một không gian văn chương"- kể chuyện hoặc tự sự. So sánh với tiểu thuyết, truyện ngắn - nhưu tên gọi của nó, có đặc trưng là nó ngắn, vì nó ngắn nên hành động của nó đơn giản, nó kể một sự kiện; nó chỉ là một đoạn, một mẩu của cuộc đời nhân vật, nó ngắn đến mức nào? có nhà nghiên cứu cho rằng nó ngắn khoảng mười trang, hoặc năm mươi trang; nó được đọc một mạch, khoảng nửa giờ hoặc một giờ (không kể truyện cức ngắn hay còn gọi là truyện ngắn mini, khoảng mười dòng). Do đặc điểm ngắn, thường nó rất căng thẳng. Còn tiểu thuyết thường kể chuyện một cuộc đời, một quá trình biến đổi với nhiều sự kiện, nhiều nhân vật, với những thăng trầm, xẩy ra ở nhiều nơi chốn, trong một thời gian dài, nhiều khúc gãy - Nó mở.

Như vậy, có thể thấy một số đặc trưng cơ bản của truyện ngắn: Truyện ngắn kể một sự khủng hoảng trong cuộc đời nhân vật; với độ căng thẳng và cô đọng khác thường (so với tiểu thuyết); nó khởi đầu như một sự đánh đố và kết thúc bằng những sự bất ngờ, gây ngạc nhiên. Có thể nói sự việc xảy ra trong truyện ngắn giống như một " việc vặt" đăng trên báo hàng ngày: một vụ tự tử, một tai nạn, một sự ngộ nhận, một sự lầm lẫn... Từ đó, nhà văn hư cấu một nhân vật sống động, những hoàn cảnh đặc biệt, không gian, thời gian thích hợp v. v... Tài năng của nhà viết truyện ngắn là lựa chọn một tình thế gay gắt, "bước ngoặt", căng thẳng trong cuộc đời nhân vật; sau đó, xây dựng một "không khí" kỳ ảo - cả hư ảo nữa - gây đột biến, bất ngờ, ngạc nhiên. Một số truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp được xây dựng như vậy, chẳng hạn Trái tim hổ, Đất quên (trong Những ngọn gió Hua Tát), Sang sông, Truyện tình kể trong đêm mưa...

Phần bên trên phác họa sự ra đời của truyện ngắn từ chuyện: nó được quy chế hóa, thi pháp hóa, mã hóa do sự xuất hiện của cái Tôi có ý thức, như một thực thể tự do; cái Tôi ấy bất an, không ổn định, nó vùng vẫy, đau khổ, cô đơn, luôn luôn di chuyển (như Chương trong Con gái Thủy thần).

Nó đi tìm bản thân nó. Đó là truyện ngắn "cổ điển", ở phương Tây thế kỷ XIX.

Sang thế kỷ XX, truyện ngắn có những biến đổi cần ghi nhớ. Cũng như văn học, nghệ thuật thế kỷ này nhẹ về sự kiện bên ngoài, và hướng vào "thế giới bên trong" con người, truyện ngắn thường là sự kết hợp những tình cảm tâm tư ở một thời điểm mạnh (temps fort) trong trái tim nhân vật. Thế kỷ XX đánh dấu sự "trừu tượng hóa" văn học, nghệ thuật. Chẳng hạn, hội họa không còn là hội họa tượng hình (peinture figurative), mà hội họa trừu tượng. Tiểu thuyết mới phát hiện những "hướng động" tinh tế, li ti, khó nhận biết trong con người. "Kịch phi lý" của Beckett, Ionesco là những văn bản nhiều khi bí hiểm, nó khai thác những bất cập của ngôn ngữ loài người. Một bộ phận của văn học, nghệ thuật thế kỷ XX rất khó đọc, khó hiểu. Bởi vậy Claude Maurice và Ricardore nói đến Alittérature (tạm dịch phi văn học): Người đọc không còn thụ động thưởng thức tác phẩm văn học, mà trở thành người đọc tích cực: đọc là một cuộc phiêu lưu giữa văn bản ngôn từ. Cho nên, theo các nhà lý luận trên, người đọc phải từ bỏ lối đọc "truyền thống" và phải rèn luyện cách đọc tích cực, tức là phải khám phá, phải cùng nhà văn sáng tạo (tôi nghĩ đến thơ Lê Đạt hiện nay). Song, đây là một vấn đề phức tạp, khó trình bày trong bài viết này.

Nhiều truyện ngắn thế kỷ XX, ở phương Tây có xu hướng "kể" những biến động trong tâm tư nhân vật, nó thiên về những ấn tượng hơn là về những hiện tượng. Nó mang tính thơ ca, cốt truyện đơn giản, văn chương tinh tế, có khi giống như một bản nhạc dìu dặt, nhẹ nhàng; Thường nó đi tới một nhịp mạnh, biểu đạt bằng một câu văn đầy rung động; ở một số nhà văn phương Tây, có thể nói đến "truyện ngắn thuần túy": Woolf, Duras, Le Clézis... Ở Việt Nam, trong nửa đầu thế kỷ này, có thể kể đến Thạch Lam; nhiều truyện của ông là những bản nhạc êm dịu. Ở nửa sau thế kỷ, phải kể đến Nguyễn Huy Thiệp; anh là tác giả những truyện ngắn "cổ điển" hoàn chỉnh; và anh cũng là tác giả nhiều truyện ngắn hiện đại: Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt, Không khóc ở California, Chút thoáng Xuân Hương (truyện thứ ba). Truyện ngắn hiện đại hay sử dụng độc thoại nội tâm, hoặc xây dựng những "robot", hoặc hình bóng mờ ảo của nhân vật, con người xa lạ với thế giới, con người lạc lõng trong những mê cung đầy bí ẩn của thế giới.


Cách đây hơn mười năm, sự xuất hiện của Nguyễn Huy Thiệp gây một chấn động lớn trong giới văn chương và người đọc, và càng ngày anh càng chinh phục trái tim mọi người. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp khuấy động tâm can chúng ta, về nhiều phương diện, đời sống, suy tư, văn học nghệ thuật, triết lý, thân phận con người. Từ một thế giới văn chương ổn định, mang nhiều tính chất hồn nhiên của Conte, lạc quan và lòng tin, chúng ta bước vào một thế giới bất ổn của đời sống thật, hàng ngày, đau khổ, và của những day dứt bất tận của nhân loại, đầy bi kịch: "Tôi đói như một con hắc tinh tinh. Tôi đói như một con lợn rừng. Tôi đói như một con vật ở địa ngục. Tôi đói đã nửa năm nay" (Con gái Thủy thần). Và "Tôi cứ đi... Nàng ở đâu, con gái Thủy thần? Nàng ở đâu, con gái Thủy thần? " Những câu hỏi, những chấm lửng thường để ngỏ truyện của Nguyễn Huy Thiệp: "Đò ơi... Ơi đò..." vang động chất thơ chưa dứt.

Thơ ca và triết lý là những đặc trưng cơ bản của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Đó là "tinh thần dân tộc" hay"tính phương Đông " của phong cách nhà văn. Đồng thời truyện Nguyễn Huy Thiệp rất hiện đại về cấu trúc, ngôn từ, về chính "cái viết" của nó: nó tự viết, tự hình thành, nó vừa đơn giản vừa sâu sắc, vừa trực giác vừa lý trí; nó lôi cuốn người đọc, mọi người đọc, từ " người đọc giải trí" đến " người đọc chuyên nghiệp" (hay siêu độc giả - người phê bình, người giảng dạy văn học). Tôi nghĩ đó là một kiểu mẫu đẹp về sự kết hợp tính truyền thống với tính hiện đại. Con người bất ổn, luôn luôn di động, đi tìm tự do, dân chủ, đi tìm cái đẹp, đi tìm bản thân nó; đó là nhân vật đa chiều, nhiều tầm vóc, không đơn điệu, không nhất phiến. Nhân vật ấy, dù là Chương, là Nhâm, là "Tôi" hay Bạc Kỳ Sinh... chỉ là một, con người cô đơn, đầy lo âu và đầy khát vọng. Nhịp mạnh trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là tình yêu. Tình yêu con người, tình yêu loài người là tinh thần bao trùm các tác phẩm của anh.


Cách đây ít hôm, tôi trò chuyện với một nhà báo trẻ. Nhà báo hỏi tôi: "Tại sao ông "Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp? " Tôi đáp: "Tôi đi tìm cái đẹp... Ngày nhỏ, tôi hay tìm bắt chuồn chuồn kim, ve sầu kim, cả đom đóm nữa, những màu xanh nhạt, ánh lửa lập lòe... và hoa tầm xuân. Gần đây, là Nguyễn Huy Thiệp... rồi Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh, Phan Triều Hải... tức là nhiều vẻ đẹp mà tôi ước mơ". Nhà báo: " Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, ông thấy gì? ". Tôi đáp: "Nói cho cùng, mỗi người có suy nghĩ, đều đi những hành trình, những phiêu lưu, luôn luôn day dứt đi tìm... tìm ai? Đi tìm bản thân mình. Khi đã lớn (và cho đến tận bây giờ) tôi luôn luôn bị ám ảnh bởi câu nói bất hủ của nhà triết học Hy Lạp cổ đại Socrate: "Bạn hãy tự biết bản thân mình" (Connais - toi toi - même). Người ta đi tìm vàng, tôi nghĩ: Vàng là ở trong trái tim mình, trong trái tim mỗi người chúng ta. Chương đi tìm con gái Thủy thần; Mẹ cả mấy lần xuất hiện, rồi biến mất, Gianna Đoàn Thị Phượng và cô Phượng, con gái ông trùm đạo..." con gái Thủy thần, nàng ở đâu? Câu hỏi khuấy động cuộc đời Chương. Chàng đi tìm con gái Thủy thần, tôi hiểu là chàng đi tìm chính bản thân mình. Và, cũng vậy, người đọc truyện Nguyễn Huy Thiệp, đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, là đi tìm bản thân mình.

Nhà báo trẻ - Vâng, tôi hiểu ông... Thế trong hành trình " Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp", ông thấy gì?

Tôi đáp: Tôi xin lỗi, cô cho tôi nói thêm. Người đọc làm những cuộc phiêu lưu trong văn bản ngôn từ, phức hợp, tuyệt vời ấy, và cũng nhiều cạm bẫy. Đồng thời, người đọc khám phá những hạt vàng lấp lánh trong trái tim mình. Hai động thái ấy tác động đến đáy sâu tâm hồn người đọc, nó rung lên, nó tạo nên những lớp sóng lan tỏa xung quanh. Một thế giới mới hình thành trong lòng người đọc. Thưa cô, nhà văn, nghệ sĩ cũng vậy. Nghệ sĩ phiêu lưu trong cái "mạng lưới" xã hội xô bồ, hỗn độn ấy, nó lọc qua tâm hồn nghệ sĩ, tức là cái nhìn, cái nghe, cái cảm nhận, trực giác và ý thức, tiềm thức và vô thức, siêu mẫu cộng đồng và siêu mẫu cá nhân đã hình thành từ ngàn đời, trong con người nghệ sĩ. Và nghệ sĩ thấy những giọt vàng thánh thót rơi vào trái tim mình. Xưa nay vẫn thế. Ở Shakespeare, là những giọt vàng Roméo, Juliette, ở Bernardin de Saint - Pierre, là Paul và Virginie; ở Balzac: Eugénie Grandet, ở V. Hugo: Jean Valjean, Quasimodo..., ở Nhất Linh là Loan và Dũng. Và ở Nguyễn Huy Thiệp, là thầy giáo Triệu, là ông Pành, là anh chàng Khó, là Bạc Kỳ Sinh... Tất cả các "nhân vật vàng ròng" ấy có tên chung là Tình yêu. Hãy nghe Bạc Kỳ Sinh "con hoang của rừng" hát về tình yêu:

Pò mệ ơi... Bố mẹ ơi
Pò mệ sinh con từ hang núi
Nơi ấy nhiều gió lạnh lắm
...
Con mình trần thân trụi
Và sờ soạng trong bóng đêm
Con nhặt được một vật mềm, ướt át
Con sợ hãi không biết vật gì
Nó phập phồng trong tay con
Đau quá, đau nhói ở đây
Con ngửa mặt lên trời và hỏi:
Đâu tình yêu? Đâu tự do? Đâu quê hương?
Pò mệ ơi
Pò mệ sinh con từ hang núi...

Là ca sĩ của Tình yêu, Nguyễn Huy Thiệp viết: "Tôi chưa thấy ai hát như thế bao giờ; người hát không lấy hơi, không ráng sức, khi nhấn lời hoặc ngâm nga thì dịu dàng không sao kể xiết: ngậm ngùi, tê tái mà không mủi lòng, tâm trạng cô đơn lạnh buốt lẫn lộn với những khát khao nồng nàn. Tiếng hát sóng sánh, đặc như những giọt mật ong. Mỗi từ là một giọt mật. Tôi nghe hát mà nước mắt cứ thế chảy ra dàn dụa, tự nhiên, không sao kìm lại được". Và hãy nghe Bạc Kỳ Sinh nói về tình yêu: "Không ai mang nhiều hạnh phúc và nhiều đau khổ cho tôi như Muôn. Ông đã yêu bao giờ chưa? Tình yêu dạy cho ta bước đi của hổ, của báo, dạy cho ta sức mạnh của mãnh thú. Nó dạy cho ta sự giảo quyệt của cáo, của rắn độc. Nó khiến ta nhân đạo hơn, hoặc độc ác hơn. Những kẻ hèn hạ không có tình yêu", và: "Tin tôi đi: Đấy là một hung thần" - một tình yêu dữ dội, "tình yêu to lớn... không trật tự nào dung được nó", như Nguyễn Huy Thiệp viết - Và bên cạnh nó, có những mối tình thoáng qua, nhẹ như hơi thở, như làn gió thoảng. Đó là mối tình cảm bến Tầm xuân, của cô Hương, trên chuyến đò sang sông, với một nhà thơ. "Sông nước sao mà đẹp thế. - Dòng sông êm ả tuyệt vời", - một không khí thơ mộng - Truyện tâm trạng, kiểu Woolf, Paoutovsky. " Cao trào" hay điểm chốt là lúc cô Hương "òa khóc", còn "anh thấy lòng mình đắng ngắt, nỗi buồn tràn ngập". Đò cặp bến, nhà thơ lên bờ, bước lên đê. Anh nghe thấy tiếng gọi vang trên mặt sông, từ rất xa, "Ơi... ". Anh chụm tay lại, hướng xuống dòng sông, nồng nhiệt gọi: "Ơ... ơi". Truyện chỉ có thế, cấu trúc một bài thơ, như nhiều truyện ngắn hiện đại trên thế giới.

Thơ và tình yêu trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp hòa quyện với nhau trong cấu trúc, trong ngôn từ, từ những tiêu đề đến những kết thúc. Còn lại tình yêu là tiêu đề vở kịch của anh về Nguyễn Thái Học. Cái xã hội hỗn loạn, vô đạo, bạo lực - gia đình lão Kiền được nhà văn gọi là Không có vua, tôi hiểu là "không có tình yêu", mà chỉ có hằn thù, điêu ngoa, đôi khi loé lên chút hy vọng của tình yêu: Sinh kể lại giấc mơ thuở nhỏ của mình, cô mơ tình yêu của một hoàng tử; còn Tốn " mơ một cái ước mơ", nó mới mong mạnh làm sao, "mơ một cái ước mơ". Trương Chi ca: Ta là Trương Chi / Ta hát cho tình yêu - Tên cướp (hảo hán) trong Sang sông, sau khi đập vỡ chiếc bình cổ của hai tên lưu manh, bảo: " Làm gì cũng phải nhân đức hàng đầu. Thơ là trùng điệp, là " quay trở lại". Trong Truyện tình kể trong đêm mưa, Bạc Kỳ Sinh và Muôn hát và tỏ tình với nhau một đêm mưa, "mưa nhiệt đới", với lời ca trái tim mềm mại rơi xuống đất lạnh; đêm ấy, mưa thấm vào mái nhà, thấm vào vách, vào đất, vào lòng người. Khi Muôn giận dữ bỏ chạy ra ngoài, mưa mù một trời, có tiếng giằng co, rồi tiếng Bạc Kỳ Sinh hú lên một tiếng khủng khiếp như chó sói tru trong dông bão. Kết thúc truyện, cũng một đêm mưa, mưa ở New York, mưa rất to như ở rừng Tây Bắc Việt Nam, " một cơn mưa nhiệt đới", "tưởng như không dứt, tưởng như không thôi, tưởng như không bao giờ hết được". Cũng hai cơn mưa trong truyện kể ông Pành "chết vỡ tim" vì tình yêu. Trong Những người thợ xẻ, hai lần hoa ban trăng xóa xuất hiện, với những câu hỏi day dứt của nhà văn. " Bạt ngàn là hoa ban trắng, màu trắng đến là khắc khoải, nao lòng. Này hoa ban, một nghìn năm trước thì mày có trắng thế không? " Ít trang sau: " Bạt ngàn là hoa ban trắng bên đường, màu trắng đến là khắc khoải, nao lòng. Nay hoa ban, một nghìn năm sau, thì mày có trắng thế không? ". Những băn khoăn triết lý về thời gian như giục giã con người hãy rũ bỏ cái "vô tâm" ("người vô tâm nhiều như bụi đường"), mà sống, và, cũng hai lần, Nguyễn Huy Thiệp viết trong Con gái Thủy thần: " Chỉ ít năm nữa đến năm 2000". Chương dứt áo ra đi, bỏ lại mẹ và các em nhỏ, chàng "cứ đi", chàng không muốn "sống héo mòn... như thể ông Nhiêu, ông Hai Thìn, như những người dân hiền lành, lam lũ vùng quê. Và " Dòng sông thao thiết chảy, thời gian thao thiết trôi". "Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp", tôi thấy "những giọt vàng" thơ ca và triết lý. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp chứa đựng nhiều bí ẩn. Nó có nhiều bài thơ. Một hôm, tôi hỏi anh: "Có phải những bài thơ trong truyện của anh là tinh túy, là cái thần, tức là "tinh thần" của truyện ngắn ấy? " Anh mỉm một nụ cười hiền lành ("Mẹ tôi là nông dân, còn tôi sinh ở "nông thôn") và cũng bí ẩn. Lúc ấy tôi nghĩ đến những câu thơ:

Chảy đi sông ơi
Băn khoăn làm gì
Rồi sông đãi hết
Anh hùng còn chi

A ha không có vua
Sớm đến chiều say sưa
Tháng với ngày thoi đưa
Tớ với mình dây dưa
Tính với tình hay chưa

Gặp như không gặp
Được như không được
Như trăng dưới biển
Người ở trong mộng

Tôi còn nghĩ: Giá có ai tập hợp tất cả các câu thơ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng ta sẽ có một "tập" thơ Nguyễn Huy Thiệp. Những câu thơ không vần ấy vừa gợi mở vừa đóng kín, nó bí ẩn và tiên tri, người đọc nghĩ đến những chân trời khác. Tiên tri, bí ẩn " như những ngọn gió HuaTát": linh hồn những con người Tây Bắc ngày xưa, nay vẫn thấp thoáng bay trong truyện Nguyễn Huy Thiệp ở cuối thế kỷ này, những truyện ngập tràn tính huyền thoại. Sau này, trong Phụ lục tập truyện (tái bản năm 1999), anh viết: Thi sĩ sáng tạo "tức là mơ mộng và ảo mộng"... "Nhà thơ không nghiên cứu, họ bay lên... Bay bổng... Em có hiểu không? ". "Đời sống con người là cứt chó...". Trong một quán ăn, vị giáo sư ăn mười món ăn "hiện thực". Còn nhà thơ gọi món chim hồng, chim hộc, hay chim hạc, tức "con cò chính thống" (dưới con mắt kẻ trần tục chúng ta). Nhà thơ giống như "con hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt".

Tôi ngừng nói, im lặng nghe tiếng hạc kêu trên trời.

- Ông đã tìm thấy Nguyễn Huy Thiệp? Nhà báo đột ngột hỏi. Tôi đáp: Vâng, người tái tạo truyện ngắn ở Việt Nam này, ở nửa sau thế kỷ XX. Cái Tôi ấy đứng dậy, đau khổ, cô đơn, đầy khát vọng. Cái Tôi ấy gieo bão táp trong văn chương Việt Nam, lúc ấy. Còn nữa:

Lần thứ hai, anh Đỗ Lai Thúy dẫn tôi đến nhà Nguyễn Huy Thiệp, xóm Cò, Khương Hạ. Sau độ hai mươi phút, từ những phố ồn ào, đông đúc, chúng tôi qua những con đường nhỏ lát gạch, lượn quanh nhiều ao, hồ, đây, nhà Nguyễn Huy Thiệp, vườn cây rộng bát ngát, một tượng Phật Bà, trắng xoá, cao vời vợi, giữa khu vườn, nắng chảy chan hòa trên hai vai, hai đầu gối Phật. Anh Thiệp tiếp chúng tôi dưới tượng Phật. Vẫn nụ cười hiền lành. Đôi khi, con mắt anh lóng lánh sáng và sắc hẳn lên, như có một ngọn gió HuaTát thổi qua, hoang vắng và man rợ, và đầy tình người. Tôi nghĩ đến những dòng sông huyền thoại, đến Bến Cốc, bến Tầm Xuân,... thơ ca và bí ẩn.

Đ. Đ. H.
(136/06-00)


-----------------------------------------
Tư liệu:
Grojnovski: Lire la nouvelle (Đọc truyện ngắn)
Thierry Ozwald: La nouvelle (Truyện ngắn)
J. P. Goldeinstein: Pour lire le roman (Để đọc tiểu thuyết)

___________________________________________

Hữu Thỉnh và “tuyển tập điếu văn”

Nhật Chung


(TNTT>) Nhà thơ Hữu Thỉnh-Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam-có lẽ là một vị chủ tịch đặc biệt nhất trong số tất cả các chủ tịch Hội nhà văn từ trước nay. Sự đặc biệt ấy bắt đầu từ một việc làm cụ thể, một nghĩa cử cụ thể: viết điếu văn.

Nhiều người sẽ thắc mắc: có rất nhiều người trong nước này từng và sẽ viết điếu văn, đâu riêng gì Hữu Thỉnh? Vậy có gì “đặc biệt”? Đúng là có nhiều người đã viết điếu văn, nhưng tôi bảo đảm, ở Việt Nam này, chưa và sẽ không có ai viết được hàng trăm điếu văn như Hữu Thỉnh. Mà không một điếu văn nào giống điếu văn nào. Và chỉ viết điếu văn cho một đối tượng: đó là các nhà văn vừa quá cố.
Sự qua đời của nhà văn, nhất là nhà văn lớn, nhà văn nổi tiếng, hay đơn giản chỉ là nhà văn thôi, thì đối với xã hội đã là một thông tin gây sự chú ý. Có thể hơn cả sự chú ý, là nỗi tiếc thương. Được viết điếu văn cho “đối tượng đặc biệt” ấy không phải chuyện dễ. Anh phải là người, hoặc thân thiết với đối tượng, hoặc có thẩm quyền và có trách nhiệm viết và đọc điếu văn trong đám tang của đối tượng.
Hữu Thỉnh vốn có thói quen quan tâm đến tất cả các nhà văn trong hội nghề nghiệp của mình, nhất là các nhà văn cao tuổi hay các nhà văn bị ốm đau, nên có thể nói, trước khi viết điếu văn về một nhà văn nào đó vừa quá cố, Hữu Thỉnh đã có trước đó những quan hệ chân tình và đầy quan tâm với nhà văn ấy, ít nhất là đủ cho anh có thể viết một cách thật lòng về người quá cố. Phải có cái tình trước đã, thì điếu văn mới không phải là “bản báo cáo thành tích” hay những lời ngợi ca đãi bôi sáo rỗng. Nhà văn, dù đã mất, vẫn chúa ghét thứ ngôn ngữ “phi hành mỡ xèo xèo” này. Chưa kể, còn bao nhiêu nhà văn đi đưa tang đồng nghiệp của mình. Họ chính là một tập thể thẩm định đặc biệt mà không có giọng giả dối nào qua được tai của họ và là một “ban giám khảo” khó tính mà không sự qua quýt hay thiếu chuyên nghiệp nào qua được mắt họ.
Tôi đã nghe rất nhiều nhà văn Việt Nam ở các lứa tuổi khác nhau, mỗi khi nói về những điếu văn của Hữu Thỉnh viết cho đồng nghiệp, thảy đều có những lời khen ngợi thật lòng. Rất nhiều điếu văn của Hữu Thỉnh viết cho các nhà văn quá cố là một "quan định luận” về sự nghiệp văn học của nhà văn ấy. Nhiều điếu văn là những bài nghiên cứu thu gọn tuyệt vời. Quả thật, điếu văn nếu viết cho “tới chữ” là một thể loại văn học đặc biệt. Nguyễn Đình Chỉêu chẳng đã từng bất tử với một điếu văn bất hủ “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” đó sao? Đọc những điếu văn của Hữu Thỉnh viết và được đọc trong những đám tang của đồng nghiệp, thấy hiện rõ cái tình thật, cái hiểu thật, cái xúc cảm thật của người viết. Và những nhận xét mang tính tổng kết về tác phẩm cả đời sáng tác của nhà văn cũng được Hữu Thỉnh đưa một cách trân trọng vào điếu văn. Tôi có nói đùa với Hữu Thỉnh là bây giờ anh được các lão nhà văn ủng hộ hết mình, vì lý do gì thì anh đã biết. Dĩ nhiên, các nhà văn trẻ cũng yêu mến Hữu Thỉnh dù không phải vì lý do anh viết…điếu văn hay. Các nhà văn trẻ còn xa với thể loại văn học đặc biệt này lắm.
Hữu Thỉnh có lúc đã tâm sự với tôi là anh muốn xuất bản một “tuyển tập…điếu văn” gồm những điếu văn anh đã viết cho đồng nghiệp để vừa như một kỷ niệm, lại như một lời tri ân về những đóng góp của các nhà văn đã quá cố cho sự nghiệp văn học Việt Nam. Anh cũng muốn, qua những điếu văn chân thành mà mình đã viết, gửi một thông điệp: các nhà văn nói riêng, con người nói chung hãy thương yêu nhau khi đang còn sống, hãy thương yêu nhau trước khi quá muộn. Vì lẽ đó, phần quan trọng nhất của điếu văn, là gửi cho những người còn đang sống, như một thông điệp về tình yêu thương, về lẽ sống ở đời.

______________________________________________

Sau Sợi xích đến Dại tình

TIỂU QUYÊN

Những cuốn sách bị đánh giá có nội dung không lành mạnh như Sợi xích và Dại tình được giải quyết bằng cách tiêu hủy, thu hồi. Tuy nhiên, hệ lụy từ những vụ này không đơn giản như vậy.

Không bao lâu sau ngày cuốn sách Sợi xích của Lê Kiều Như (NXB Hội Nhà văn) bị cấm phát hành, thu hồi tiêu hủy, một “tác phẩm” khác mang tên Dại tình (tác giả Bùi Bình Thi, NXB Phụ nữ) lại bị cơ quan chức năng yêu cầu thu hồi, tiêu hủy vì cho là “sách sex”, khi tác giả chạm đến vấn đề nhạy cảm với cách thể hiện “nóng bỏng” không kém những miêu tả về sex như trong Sợi xích.

Sử dụng yếu tố sex cho thêm hấp dẫn(?)

Dại tình nói về những phụ nữ từng đi qua chiến tranh với những khát khao hạnh phúc giày vò và thành đạt ở thời bình. Họ lần lượt kể về cuộc đời họ, về những mất mát, ước vọng và cả về đời sống tình dục.

Giăng giăng trong tác phẩm là những chuyện kể tự nhiên đến mức quá đà, kiểu như: “làm việc” đều đặn tuần 4 lần, mỗi lần trung bình bốn mươi nhăm phút, mình với lão mồ hôi đầm đìa, cực kỳ thỏa mãn”; “một tuần phải 2 hoặc 3 lần lên giường với một thằng cu nào đấy”, “cậu ta thở mới khiếp... cánh trai tơ họ càng thở dốc bao nhiêu lại càng hăng bấy nhiêu và càng hăng bao nhiêu lại càng dai bấy nhiêu...”.

Nhà văn Bùi Bình Thi (vốn không phải là một cây bút mới, từng có nhiều tác phẩm viết về chiến trường Campuchia ít nhiều được quan tâm trên văn đàn, như: Ký sự Xiêng Khoảng, Đường đến cánh đồng chum, Âm vang của rừng, Kiếp người, Sau những giọt nước mắt...) cho rằng ông có lý do để khai thác những yếu tố liên quan đến vấn đề nhạy cảm.

Ông khẳng định: “Tôi không viết dễ dãi, tôi chỉ muốn sử dụng một phương pháp miêu tả về vấn đề tình dục một cách quyết liệt nhưng tôn trọng và nâng niu những giá trị chân thực. Tình dục là cái cao thượng chứ không hề thô thiển. Tôi muốn nói đến những điều sâu xa hơn là khát vọng hạnh phúc của phụ nữ giữa một xã hội mà đồng tiền có thể làm lung lay mọi giá trị”.

“Tôi không viết dễ dãi, tôi ý thức được mình viết cái gì và hoàn toàn chịu trách nhiệm về nó”. Tuy nhiên, bản thân ông lại không hề phủ nhận việc sử dụng yếu tố sex để tăng tính hấp dẫn cho tác phẩm (!).

Ngưng phát hành, thu hồi nhưng... vẫn bán!

Liên lạc với NXB Phụ nữ - đơn vị phát hành cuốn sách thì đơn vị này từ chối trả lời, chỉ nói rằng cuốn sách đã bị ngưng phát hành và NXB không quan tâm đến vấn đề này nữa. Nhưng rõ ràng cuốn sách được xuất bản thì trách nhiệm hoàn toàn thuộc về NXB. Đâu phải cấp phép xuất bản, không được phát hành thì thu hồi là xong?

Những cuốn sách bị đánh giá có nội dung không lành mạnh, được giải quyết bằng cách tiêu hủy, thu hồi. Nhưng hệ lụy của nó lại không đơn giản như vậy. Cuốn Sợi xích đã bị cấm phát hành ngay khi vừa ra mắt nhưng lác đác trong vài hiệu sách tại Hà Nội và Vũng Tàu, cuốn sách này vẫn được bày bán công khai.

Việc thu hồi những cuốn sách vốn đã được tuồn ra thị trường trước đó thường không hiệu quả, đã không ngăn chặn được sự phát tán của chúng.

Tác giả cuốn sách Dại tình cũng nói sách vẫn đang được bày bán tại một vài hiệu sách ở Hà Nội. Chưa kể số lượng sách bị phát hiện có nội dung vi phạm được tiêu hủy chẳng thấm vào đâu so với hàng loạt đầu sách không lành mạnh khác đã được xuất bản vẫn đang bày bán tràn lan trên thị trường.

Xuất bản sách dễ dãi

Tại các bến xe, chiếu sách vỉa hè và nhiều sạp báo, hàng loạt cuốn sách nội dung không lành mạnh được bày bán phổ biến. Sách bói toán, sách rẻ tiền được dán mác phóng sự xã hội, phóng sự điều tra, góc khuất về đời gái bán hoa, thậm chí là truyện trinh thám... nhưng tất cả đều có chung mục đích là miêu tả chuyện tình dục. Nội dung hời hợt, câu chữ dễ dãi, lắm khi thô tục chỉ xoay quanh những hành vi làm tình, mang tính gợi dục.

Truyện ma – kinh dị cũng là một loại sách trá hình khi nội dung của nó cũng đề cập chuyện tình dục giữa ma và người với cách viết vô cùng thô thiển. Điều đáng nói là loại sách này lại có mặt trong một số nhà sách lớn, được trưng bày trên cả một kệ sách hẳn hoi và đối tượng độc giả tìm đến có cả các em thiếu nhi.

Lách luật để tồn tại là một thực trạng đang xảy ra ở nhiều đơn vị xuất bản và một số đơn vị làm sách tư nhân. Nhiều NXB giải quyết tình hình khó khăn về kinh tế của đơn vị, kiếm tiền trả lương cho nhân viên, cũng không ngần ngại bán giấy phép cho các đơn vị làm sách tư nhân in những đầu sách có nội dung không lành mạnh mà không cần kiểm tra, kiểm soát nội dung trước khi sách phát hành.

Xuất bản sách bây giờ xem ra khá dễ dãi khi các chủ sở hữu ấn phẩm bỏ tiền ra là mua được giấy phép xuất bản. Vai trò của một số NXB bây giờ cũng chỉ như một tấm bình phong.

Lỗ hổng trong quản lý xuất bản phẩm

Điều 18 Luật Xuất bản năm 2004 quy định việc đăng ký kế hoạch xuất bản: “Hằng năm, nhà xuất bản phải đăng ký kế hoạch xuất bản với Bộ Văn hóa - Thông tin trước khi xuất bản”.

Thế nhưng, việc đăng ký hằng năm các đầu sách xuất bản cũng bộc lộ điểm yếu trong công tác quản lý xuất bản, với quá nhiều tựa sách đăng ký mà cơ quan quản lý chỉ thẩm định trên tựa sách và nội dung tóm tắt sơ bộ.

Chưa kể việc “treo đầu dê, bán thịt chó”, đăng ký tựa sách một đằng, thực hiện nội dung một nẻo của một số đơn vị liên kết xuất bản.

Dù Luật Xuất bản có quy định trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan xuất bản nhưng trái bóng trách nhiệm được giám đốc các NXB đá lên cho Cục Xuất bản thông qua công tác đọc lưu chiểu.

Cục Xuất bản khó quản lý nội dung hàng chục ngàn đầu sách mỗi năm vì đội ngũ đọc lưu chiểu quá mỏng. Và trong những sai phạm của các NXB về nội dung ấn phẩm phát hành ra thị trường lại có phần trách nhiệm của Cục Xuất bản.

Vì vậy, Cục Xuất bản không nhanh chóng và mạnh tay xử lý các trường hợp sai phạm vừa qua. Đây là nguyên nhân dẫn đến tình trạng sai phạm trong xuất bản ngày càng nhiều và kéo dài.

______________________________________________

Thứ Hai, 19 tháng 4, 2010

Hai bài thơ đoạt giải nhì cuộc thi thơ ĐBSCL

Sương Hồ

Lá mỏng như sương
Mang cả mùa đông trên áo
Chiếc xuồng nhỏ đầy khoang mộng ảo
Hảo hán, hề… bó gối, khoanh tay

Trời lặng mà lòng lá lay
Ai thả sợi thời gian, câu nửa đời tay trắng?
Nụ cười vỡ toang
Mà búng Bình Thiên vẫn lặng
Vai giang hồ - túi rỗng - mộng đầy trăng…

Sương của ngàn năm
Vẫn lạnh như băng
Bàn tay ấy
Em!
Một lần làm ta viễn vọng
Xua những mùa xưa trĩu nặng
Ta mang hồn đi rong.


Lê Thanh My

Đôi bờ

Anh trách em:
“Ở làm chi bên kia bờ sông Tiền”
Cho nỗi nhớ dài như con sóng
Anh nắng hạ mưa đông nại đò giang cách trở
Em ngày giêng hai ngồi đợi bến sông chiều
Đo thử sóng dài bao nhiêu
Để ước chừng nỗi nhớ
Ước chừng giữa muôn trùng sóng vỗ
Có ngọn sóng nào xô ta vào nhau
Đôi bờ khuất sau một dãy cù lao
Con sóng gãy làm đôi, con sóng dài không hết
Nên anh cứ trách
Nỗi đò giang
Khi những sợi dây văng
ngạo nghễ đưa tay níu trời về với nước
Em bồi hồi không biết
giấu nỗi lòng vào đâu
Tháng bảy mưa ngâu
Em ra ngồi đếm sóng
Đếm những chuyến phà, ước lượng tháng năm
Cầu xây xong, anh, không thấy về thăm
Em mới biết
Đôi bờ cách nhau tám ngàn ba trăm ba mốt mét
Bằng chiều dài con sóng

Xa quá một tầm tay.


Ngô Thị Thu Vân

_____________________________________________________

Bài thơ “Trăng nghẹn” nghẹn giải: Sóng đời sống vỗ vào thơ

Nhà thơ Phạm Sỹ Sáu

TP - Từ câu chuyện bài thơ 'Trăng nghẹn', nhà thơ Phạm Sỹ Sáu - Trưởng ban giám khảo cuộc thi thơ ĐBSCL đã có bài viết gửi Tiền Phong.

Qua 60 bài thơ vào chung khảo cuộc thi thơ ĐBSCL lần thứ 4, tôi cảm nhận sức sống của đồng bằng tràn ngập trong thơ, trong từng bài viết của người tham dự. Lòng yêu nước, tinh thần của người đồng bằng được thể hiện không chỉ bằng những ngôn từ đao to búa lớn, bằng những chữ như có cánh mà bằng những xúc cảm chân thật, cụ thể, bình dị và cả bình dân nữa. Điều đó có làm mất đi chất thơ không?

Hoài Tường Phong viết: Xóm bên sông nhiều cô gái rời quê,/Về thăm nhà xênh xang lụa là hàng hiệu./Vài căn nhà xây, đổi đời nhờ những đồng tiền báo hiếu,/Khởi sắc một vùng quê sao nghe có chút bùi ngùi. - Đồng bằng quê hương tôi nhiều cái nhất ngậm ngùi:/Sản lượng lúa nhiều, vùng cá ba sa lớn nhất,/Đầu tư văn hóa thấp và khó nghèo cũng nhất,/Và cũng dẫn đầu, những cô gái lấy chồng xa.

Nếu xét về toán học thì ta thấy có hai cái nhất dương và ba cái nhất âm. Cái nhất dương thì sẽ vẫn dương và sẽ còn dương (chắc chắn), thậm chí sẽ thêm nhiều cái dương khác nữa. Còn nhất âm là một thực tế đau lòng mà ai cũng muốn nó tiến tới O hoặc trở thành dương trong tương lai gần.

Phải nhắc tới điều này để thấy vì sao Hoài Tường Phong thấy Trăng nghẹn: Chập tối buồn ra nhìn bến nước cô đơn,/Vầng trăng vừa lên đã bị mây mưa vần vũ./Tôi chợt nhớ lần lỗi hẹn đầu đời, trăng cũ,/Vầng trăng nghẹn hoài, chưa tỏa sáng một vùng quê.
Sau mây vần vũ thì trời lại sáng, trăng lại trong, lại thỏa ước mơ một vầng trăng viên mãn. Phải là một người nhiều băn khoăn, trăn trở, suy tư trước vận hội mới của dân tộc, của đồng bằng, của một vùng quê cụ thể mới có thể cảm được cái “nghẹn” của tác giả. Mong rằng đây không chỉ là cái nghẹn của người làm thơ, mà là của nhiều người, của triệu người đồng bằng để cuộc sống của người đồng bằng sẽ bay lên cùng 9 cửa sông ra biển lớn.

Hai giải nhì rơi vào hai bài thơ ngắn của hai tác giả nữ. Hai nàng thơ với hai phong cách khác nhau cho ta cảm giác với một đồng bằng có nhiều điều mới lạ.

Lê Thanh My mang cái không khí đồng bằng truyền thống- đồng bằng của những người mở đất, mở cõi, của khách thương hồ sông nước bạn quen-Một không khí rất Hương Rừng Cà Mau của Sơn Nam.

Trời lặng mà lòng lá lay/Ai thả sợi thời gian, câu nửa đời tay trắng?/Nụ cười vỡ toang/Mà búng Bình Thiên vẫn lặng/Vai giang hồ - túi rỗng - mộng đầy trăng…
Ngô Thị Thu Vân báo động về một thay đổi trong tâm và thế con người và của đất đồng bằng: Khi xa mà gần, khi gần lại xa. Sự cách trở của cách xa nhiều khi làm người ta thật hơn sự thuận tiện của gần gũi.

Cầu xây xong, anh, không thấy về thăm/Em mới biết/Đôi bờ cách nhau tám ngàn ba trăm ba mốt mét/Bằng chiều dài con sóng/Và/Xa quá một tầm tay

Rồi sẽ chẳng còn ai chịu nỗi đau trong tim khi hết Rạch Miễu, đã Mỹ Thuận và sẽ Cần Thơ không còn đôi bờ ngăn cách.

(…) Có thể nói thơ ĐBSCL qua các tác phẩm vào chung khảo cuộc thi lần thứ 4 phần nào thể hiện được sức sống của một vùng đất đang từng ngày thay đổi, trong nỗi ngậm ngùi về những điều chưa trọn vẹn với những mong ước một đồng bằng vươn lên mạnh mẽ, sánh vai cùng các vùng miền khác trong cả nước trong mọi mặt đời sống, trong phát triển và hội nhập.

____________________________________________________

Chủ Nhật, 18 tháng 4, 2010

Mê… thầy

Nguyễn Ngọc Tư

Nhưng tại sao lại mê thầy? Chắc do tâm sinh lý tự nhiên, hễ con gái thì thích thầy, con trai đương nhiên khoái cô?Hay vì ông thầy đầu tiên để lại ấn tượng sâu đậm quá?

Giả thuyết đầu tiên khả năng sai cao, bởi nhiều đứa con gái bạn tôi mê cô giáo đến mức… xin hình cô đem về nhà treo. Giả thuyết thứ hai cũng không chắc, sâu đậm kiểu gì mà tên của người thầy đầu tiên tôi đã quên mất tiêu rồi. Quên gương mặt, dáng đi, giọng nói. Không biết thầy có đẹp trai không, giọng nói có ấm áp không? Thầy có thường cười đùa hay nghiêm nghị mực thước? Thầy từ đâu tới, người tự nguyện đến cái xóm heo hút đó để khai sáng cho đám trẻ quê nghèo, hay bị ép buộc về nông thôn cho đủ thời gian thử thách trước khi quay lại thành phố. Và, năm mười sáu tuổi, "thì" có "dậy" chút đỉnh, tôi đặt câu hỏi sau cùng về ông thầy thơ ấu đó, là "không biết thầy có… vợ chưa?".

Những câu hỏi không một tiếng vọng. Trong miền nhớ mịt mờ, chỉ là những cảm giác lên tiếng, chúng nói, thầy bị "đày". Vì một ngôi trường (nói vậy cho oai) chỉ có một lớp học ngó ra sông nhỏ, mấy cây cột trâm bầu sần sượng, mái lợp lá chằm đóp, bàn ghế ghép lại bằng những thân cau chẻ, gỗ tạp. Người trong xóm có gì quyên góp nấy, nên lớp học trông lởm chởm như… chổi lông gà. Những bữa mưa nhiều tụi học trò phải ngồi chổm hổm trên ghế, co rúc người cho đỡ lạnh.

Trường lớp ọp ẹp, được nhúm học trò, mà tụi nó cũng ọp ẹp. Ọp ẹp theo kiểu tôi thì ốm tong teo, đen rọi đèn pin còn không thấy, theo kiểu đám bạn tôi cũng đa dạng, đứa thì ghẻ chóc đầy đầu, đứa học nửa năm chỉ nhớ được chữ O, may nhờ nhà nó chuyên ấp gà con bán, có đứa đang học bỗng chạy đi mất tiêu, lúc quay lại nó gãi đầu thưa, con đi thăm lờ, cá nhóc. Có đứa một ngày học, bốn ngày nghỉ vì bận mót lúa ngoài đồng, có đứa ghé qua học chừng hai buổi thì đi, ghe nhà nó nhổ sào rồi.

Sau này, nhớ về lớp học đầu tiên, tôi luôn hình dung ông thầy đứng gần tấm bảng gỗ bào vội, sần sùi, gió sông thổi thốc vào, lá mục bay chấp chới, chim non tao tác kêu trong những lùm cây dại bên hè. Hình ảnh thật buồn, cô đơn, hoang hoải. Nhưng là tôi tưởng tượng vậy, bởi đâu còn nhớ thầy đã từng buồn hay vui. Chỉ biết, thầy hay đến trường bằng nhiều hướng khác nhau, lúc đi ngang nhà ngoại tôi, lúc lại từ đằng kia tới, như thể thầy từ trên trời, rơi ngẫu hứng đâu cũng được. Nên có bữa tôi nán lại chờ ngoại luộc trứng chim canh chừng hễ thầy đi qua thì xách tập chạy theo, chờ hoài, ăn hết mớ trứng thì đằng trường thầy cũng dạy hết một bài. Giữa giờ chơi, thầy thả bộ tà tà lại nhà ngoại tôi uống trà, mà sao không uống trà nhà khác, tôi không hiểu. Mười sáu tuổi (lại mười sáu tuổi), tôi có một giả thuyết, ông thầy thương dì tôi, nên giả bộ lại uống trà với ngoại, để được ngó dì.

Nhưng có giả thuyết khác ít ngang trái lãng mạn hơn, là thầy cần phải gặp ngoại để tìm ra phương cách "chiến đấu" với cái tật… xé tập của tôi. Hồi đó, mỗi cuốn tập của tôi khi viết tới trang cuối thì nó còn chừng… mười sáu trang, cả thảy. Ngoài vụ đó, tôi còn nhiều vấn đề khiến "nhà trường phải phối hợp với phụ huynh". Có lần quậy tưng trong lớp, thầy dọa, chút nữa lại méc ngoại. Báo hại lúc ra chơi phải chạy về nhà để rình, nếu thầy méc thiệt thì thủ tiêu mấy cây roi ngoại hay giắt trên vách. Bi kịch, đứng ngoài hè trò bị kiến vàng cắn tả tơi, trong nhà thầy thủng thỉnh ngồi uống với ngoại, hỏi những câu kiểu như, lúa vụ này khá hôn, chú Hai. Vào học, thầy bảo, méc rồi, về nhà bị đòn nứt đít. Tôi gãi chân, cười thầm, ông thầy nói dóc dễ sợ.

Hồi đó, chắc chắn tôi không sợ thầy, từ đó suy ra là thầy dễ chịu lắm. Thương lắm. Đến nỗi khi trở ra thị xã học tiếp, tôi nhớ mình đã viết một lá thơ gởi thầy (tất nhiên, giấy xé ra từ tập học). Rồi mấy cây cột cặm trong lớp một ngày kia được bà con trong xóm nhổ về làm củi chụm, thầy biến mất, lặng lẽ như hồi thầy tới.

Tôi lại có ông thầy khác, ông này có họ hàng bên má, vai cậu tôi. Vô lớp tôi gọi thầy, trống trường đánh cái thùng, tôi kêu cậu ơi cậu à, mà kêu lớn lắm. Cho tụi bạn nó… nể, thấy tui xấu vậy mà cũng có cậu làm thầy giáo à nghen. Hồi đó sao mà thầy cô giáo có giá dữ vậy không biết, bị tôi đem ra lòe thiên hạ, cũng thu được chút lợi, cái lợi đáng kể nhất khi có ông cậu họ làm thầy giáo là không bị bạn ăn hiếp. Hai mươi sáu tuổi, nghĩ lại thấy mình khờ, giờ thì gặp ai đáng chú, đáng bác cũng muốn gọi bằng thầy, để được xưng… em.

Hơn mươi năm ngồi chai đít khỉ ở trường, học qua nhiều thầy cô giáo, nhưng năm nào có thầy thì năm đó học được, nói chung sáng ngủ dậy có muốn… tới trường. Thầy đẹp trai thì, chậc, còn gì bằng. Có dạo, đi học vi tính, hai ông thầy đều đẹp, độc thân, trẻ trung, khóa ấy, tôi đậu… thủ khoa (ha ha ha).

Thật tình, tôi không biết những ông thầy mà tôi mê có phải là giáo viên giỏi (cấp huyện, cấp tỉnh) không, có phương pháp sư phạm không, hiệu quả tới đâu, giảng bài có cuốn hút không, dạy có dễ hiểu không, và tôi đã nhận được những kiến thức gì, tôi nhớ chỉ vì ông thầy đó dễ thương.

Những ông thầy không làm tôi sợ bằng cách buộc tôi cúi đầu vâng dạ, những ông thầy không bắt tôi phải lễ phép khép nép trước mặt mình, gò học trò vào một sự kính trọng gượng gạo. Có thể có thầy nghiêm khắc, lúc nào đó, quãng nào đó, nhưng tôi không nhớ, chỉ nhớ thầy đó y chang bạn tôi. Trong không gian trường học chật chội, tẻ nhạt với những thứ kỷ luật bó buộc, những bài học khô rốc, cứng ngắc, những ông thầy để lại trong ký ức tôi sự khoáng đạt, mạnh mẽ, dắt tôi lướt đi trên khuôn khổ, tiểu tiết. Tôi quên mình đã học được gì nhưng nhớ mình đã được đối xử như thế nào, từ những người thầy.

Đó là những người đàn ông dịu dàng và bao dung, giống như ông ngoại tôi, ba tôi, đến nỗi, khi tìm kiếm tình yêu, hay bắt đầu quan hệ bạn bè, tôi luôn nghĩ tới những ông thầy của mình. Giữa thầy và trò, giữa bề trên và kẻ dưới, giữa người cho và kẻ nhận, tôi đã nhận được sự thân ái, yêu thương, đồng đẳng giữa người và người.

Nên nhớ thầy, trước nhất, tôi nhớ người.

(Nguồn: Mẹ Yêu Bé)

_________________________________________________

VỀ CẤU TRÚC – TỔNG THỂ CỦA LỊCH SỬ VĂN HỌC VIÊT NAM

Nguyễn Đình Chú

1. Đây là vấn đề cơ bản và có ý nghĩa phương pháp luận, bởi nhận thức bất cứ sự vật, hiện tượng nào, trước hết vẫn phải bắt đầu từ nhận thưc cấu trúc-tổng thể để từ đó đi dần vào việc nhận thức các bộ phân của nó. Tựa như khi đến một thành phố mới lạ thì điều cần thiết nhất là phải có một bản đồ để biết những đại lộ trước khi đi vào các khu phố. Công tác văn học sử cũng vậy, dù là phải tiến hành song song hai yêu cầu nhận thức, khám phá vừa về bộ phận vừa về cấu trúc – tổng thể, nhưng vẫn phải lấy nhận thức cấu trúc tổng thể để chỉ đạo việc nhận thức bộ phận. Riêng với người tiếp nhận thì lại cần bắt đầu từ việc nhận thức câú trúc- tổng thể mà đi đến nhận thức bộ phận. Việc các công trình văn học sử đều bắt đầu bằng bài Đại cương hoặc khái quát về lịch sử văn học chính là nhằm đáp ứng yêu cầu đó của người tiếp nhận. Chỉ có điều là cách viết đại cương trong đó có việc nhìn nhận cấu trúc tổng thể nhìn chung còn quá đơn giản, chưa đủ hình dung được độ phong phú bề thế của kho tàng văn học dân tộc.

2. Cần có một cách nhìn mới về cấu trúc tổng thể của lịch sử văn học Việt Nam. Cách nhìn cũ bị hạn chế là bởi nó chỉ nhìn trên một bình diện là phương thức tồn tại của văn học bao gồm hai bộ phận: văn học dân gian truyền miệng và văn học viết mà với hầu hết các công trình văn học sử ra đời trong một thời gian khá dài lại đã chỉ nói về văn học người Kinh. Cách nhìn mới là cách nhìn, ngoài phương thức tồn tại (truyền miệng và thành văn) còn là như sau:

2.1. Lịch sử văn học Việt Nam là sản phẩm của một quốc gia gồm 54 dân tộc cùng chung sống trong đó dân tộc Kinh chiếm đại đa số nhưng còn 53 dân tộc anh em khác. Do đó, trong cấu trúc - tổng thể của lịch sử văn học Việt Nam, ngoài văn học của ngươì Kinh đáng được coi là chủ thể, còn có văn học của các dân tộc ít người.
Văn học dân tộc ít người được nói ở đây chủ yếu là thuộc văn học truyền miệng truyền thống. Không phải dân tộc ít người nào cũng có thành tưụ văn học lớn. Nhưng có một số dân tộc đã có những thành tựu rất qui mô và độc đáo. Ví như: các dân tộc Tây nguyên có thể loại trường ca sử thi, theo con số được công bố gần đây trên vô tuyến truyền hình Việt Nam là tới 500 bản, ngoài các tác phẩm đã được dịch phổ biến trước đây như Đăm săn, Xinh nhã... sắp tới sẽ dịch in 27 tác phẩm nữa. Đó là một hiện tượng hiếm có trong khu vực đã đành mà còn là trên thế giới. Dân tộc Mường ở Thanh Hoá và Hoà Bình có thể loại mo trước đây do quan niệm ấu trĩ chỉ coi đó là văn nghi lễ, không phải là văn học, nay với quan niệm đúng đắn thì chính đó là một thể loại phôncờlorờ ra đời trên cơ sở hợp lưu giữa tín ngưỡng dân gian với văn học dân gian. Tiêu biểu là mo Đẻ đất đẻ nước, bản đươc ghi nhiều nhất gồm 8503 câu. Các dân tộc ít người ở Tây Bắc và Việt Bắc có thể loại truyện thơ, tiểu biểu như: Xóng chụ xôn xao (Tiễn dặn người yêu), Ăm ệt luông, Vượt biển, Tiếng hát làm dâu, Nam kim- Thi đan....

Sức hấp dẫn của những tác phẩm vừa kể trên đây thuộc văn học dân tộc ít người là xuất phát từ một kiểu tư duy có phẩm chất nghệ thuật cao siêu trong đó bao gồm môt khả năng tưởng tượng và môt khả năng liên tưởng phi thường, từ đó mà có những hình tượng nghệ thuật mang tính chất huyền thoại và hoành tráng hơn văn học người Kinh. Cứ so sánh hình tượng mặt trời trong văn học ngườì Kinh với hình tượng mặt trời trong trường ca Đăm săn đã thành nữ thần để Đăm săn đi bắt làm vợ, với hình tượng mặt trời trong Tiễn dặn người yêu; cứ so sánh hình tượng cơn mưa trong thơ Lưu Trọng Lư, thơ Tố Hữu... với hình tượng cơn mưa trong mo Đẻ đất đẻ nước; chúng ta thấy rõ sự khác nhau về hình tượng cũng là sự khác nhau về tư duy nghệ thuật.
Để hiểu rõ hơn giá trị nghệ thuật độc đáo của văn học dân tộc ít người, cần nhận thức hai qui luật quan trọng sau đây:

a) Qui luật phát triển không đồng đều giữa kinh tế xã hội văn hoá văn minh với văn học nghệ thuật. Các dân tộc ít người xét về đời sống kinh tế xã hội văn hoá văn minh là thấp hơn nhiều lần so với người dân ở các đô thị miền xuôi nhưng họ có những sản phẩm văn học độc đáo, có dân ca hấp dẫn mà ở các đô thị miền xuôi không dễ gì có. Tất nhiên không thể tuyệt đối hoá qui luật này.

b) Qui luật về cơ sở kết tinh của nghệ thuật: có nhiều cơ sở cho sự kết tinh nghệ thuật ví như lý tưởng xã hội cao đẹp, lòng nhân ái bao la, quan điểm nghệ thuật chân chính, tài năng trác lạc....nhưng không thể quên sự hồn nhiên của người nghệ sĩ, điều mà Karl Marx đã nói đến trong khi bàn về nguồn gốc giá trị của thần thoại Hy lạp: sự hồn nhiên trong tuổi thơ một đi không trở lại của nhân loai. Rõ ràng các dân tộc thiểu số, xét trên nhiều phương diện của cuộc sống đều thấp hơn nhiều so với dân tộc Kinh, nhưng riêng về độ hồn nhiên của tâm hồn nhờ có cuộc sống gần gũi với đất trời sông núi, với cây cỏ, chim muông, thì chắc chắn là dân tộc Kinh khó bằng. Nói văn học dân tộc ít người kết tinh từ sự hồn nhiên để có kiểu tư duy nghệ thuật độc đáo dẫn đến thành tựu văn học hấp dẫn chính là căn cứ vào qui luật đó.

2.2. Trên bình diện chữ viết (văn tự): theo các công trình văn học sử hiện có thì lịch sử văn học Việt Nam cho đến nay đã được viết bằng ba hình thức văn tự: chữ Hán, chữ Nôm, chữ quốc ngữ. Nhưng còn phải nói thêm một số vấn đề như sau:
a) Ở Việt Nam, trứơc khi có chữ Hán đã có hình thức chữ viết nào khác chưa? Nếu đã thì có một thứ văn học nào gắn với hình thức chữ viết đó không? Quả là trong cuốn Thanh Hoá quan phong của Vương Duy Trinh in năm 1905, tác giả có công bố một văn bản chữ viết sưu tầm được ở thượng du tỉnh Thanh và cho đó là chữ viết của người Việt cổ. Năm 1942, trong sách Việt Nam cổ văn học sử, Nguyễn Đổng Chi cũng cho đó là chữ viết cổ nhất của dân tộc. Tiếp nữa,vào khoảng đầu những năm 70 của thế kỷ XX, hai ông Bùi Văn Nguyên, Lê Trọng Khánh cũng nói đến chữ viết thời Hùng Vương. Có thể nói những tìm tòi trên đây chưa đủ cho một kết luận rằng dân tộc đã có chữ viết thực sự trước khi sử dụng chữ Hán của Trung hoa để sáng tác văn học. Hoặc giả cứ cho đó là chữ viết của dân tộc đi thì vẫn chưa có văn học nào của thứ chữ viết đó.

b) Vấn đề đáng nói là ngoài văn học được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm và chữ quốc ngữ, còn có văn học viết bằng chữ Pháp, chữ Anh của người Việt Nam hoặc ở trong nước hoặc ở ngoài nước. Ví như về tiếng Pháp,đã có những tên tuổi như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phạm Duy Khiêm, Nguyễn Tiến Lãng, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Đức Bính, Trần Đức Thảo, Nguyễn Khắc Viện, Phạm Văn Ký... đặc biệt Nguyễn Aí Quốc với với những tác phẩm sáng giá đã được khoa văn học sử đón nhận nồng nhiệt. Nhưng vấn đề đặt ra là với những trường hợp khác thì sao? Cần thấy rằng đây là hiện tượng văn học của thời hiện đại một khi qui luật giao lưu văn hoá mang tính chất toàn cầu đã là hiện thực. Cứ xem tình hình văn học của nhiều nước trong khu vực sẽ thấy đa ngữ là hiện tượng mang tính qui luật phổ biến. Đã đến lúc khoa văn học sử Việt Nam không thể để ra ngoài loại văn học của người Việt viết bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Anh dù ở trong nước hay ở ngoài nước miễn là thể hiện phẩm chất,tâm hồn Việt Nam và có giá trị nghệ thuật. Cần nói thêm: qui luật của văn hoá trong đó có văn học liên quan đến qui luật của địa lý chính trị nhưng không đồng nhất với nhau. Cách chúng ta đã đối xử với văn học chữ Hán cũng là vậy chứ khác gì.

2.3. Những bộ phận văn học chưa được khám phá đầy đủ hoặc còn bị bỏ ngoài đối tượng nghiên cứu. Đó là:

a) Những mần mống văn học viết ở thời Bắc thuộc: Nguyễn Đổng Chi trong Việt Nam cổ văn học sử đã nói đến văn học từ thời Sĩ Nhiếp (?-226). Nghiêm Toản trong Việt Nam văn học sử trích yếu cũng cho rằng văn học Việt Nam có từ thế kỷ II. Nhưng cả hai ông chưa có tư liệu gì đáng kể về văn học thời Bắc thuộc đó. Có lẽ vì thế mà các công trình văn học sử về sau đều cho rằng văn học viết Việt Nam chỉ ra đời từ thế kỷ XIII,hoặc XI, hoăc X. Trong khi đó thì một số nhà nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam đã nói đến Phật giáo Việt Nam ở thời Bắc thuộc từ thế kỷ thứ II trở đi trên cơ sở nhiều tư liệu văn học Phật giáo mà họ phát hiện được. Đọc một số công trình của nhà nghiên cứu Phât học Lê Mạnh Thát như: Sơ thảo lịch sử Phật giáo Việt Nam tập I (in ronéo, tu thư Phật học Vạn hạnh, thành phố HCM, 1976), Nghiên cứu về Mâu tử (tâp I, II, tu thư Phật học Vạn hạnh, 1982), Khương Tăng Hội toàn tập (I và II, tu thư Phật học Vạn hạnh, 1994), chúng ta sẽ thấy một lượng thư tịch so vơí trước phong phú hơn rõ rệt. Mà ở đây nói văn học Phật giáo cũng là nói văn học Việt Nam. Trong công cuộc tìm kiếm lại những mần mống văn học thời Bắc thuộc, cần ghi thêm công của nhà nghiên cứu Trần Nghĩa qua hai bài viết “Một số tác phẩm mới phát hiện có liên quan tới giòng văn học viết bằng chữ Hán của người Việt thời Bắc thuộc”(Tạp chí Văn học số 4-1975), “Sáu bức thư hay cuộc tranh luận sôi nổi giữa Đạo Cao Pháp Minh với Lý Miễu về việc không thấy chân hình của Phật” (Tạp chí Hán nôm số 2- 1995). Nguyễn Công Lý trong công trình Văn học Phật giao thời Lý Trần: diện mạo và đăc điểm (Nhà xuất bản ĐHQG thành phố HCM, 2003) qua tiểu mục “Vài nét về diễn trình và đặc điểm của văn học Phật giáo ở Giao Châu trước thời đại Lý Trần” cũng đã cho người đọc thấy khá đầy đủ hệ thống thư tịch thuộc văn học Phật giáo và như đã nói cũng là văn học Việt Nam thời Bắc thuộc. Hy vọng trong công trình văn học sử mà viện Văn học đang trên đường tổ chức biên soạn sẽ quan tâm tới bộ phận mầm mống này để người đọc thâý rõ thêm diện mạo cấu trúc - tổng thể của lịch sử văn học dân tộc.

b) Nền văn học chữ Hán của chúng ta quả thật là rất phong phú.Từ đầu thể kỷ XX, đặc biệt từ hạ bán thế kỷ XX đến nay, công tác sưu tầm dịch thuật văn học chữ Hán đã có những thành tựu rất đáng kể.Tuy nhiên so với những gì nó có thì vẫn là một khoảng cách không nhỏ. Còn rất nhiều tác gia tác phẩm chữ Hán vẫn nằm yên trong thư viện Hán nôm, đặc biệt là với các tác gia triều Nguyễn. Nhìn lại những gì đã được dịch đối với văn thơ Cao Bá Quát, Miên Thẩm Tùng Thiện vương, Tuy Lý Vương, Nguyễn Văn Siêu, Mai Am nữ sĩ, Huệ Phố nữ sĩ... mấy vị vua Minh Mạng, Thiệu Trị,Tự Đức và nhiều tác giả khác nữa,hẳn là chúng ta không khỏi sốt ruột. Đúng là công tác nghiên cứu văn học nói chung, khoa văn học sử nói riêng đang còn nợ nhiều với bộ phận văn học chữ Hán mà xem ra khả năng thanh toán còn quá chậm chạp.

c) Với văn học ở miền Nam sau 1954 trước 1975: không ai có thể chối cãi được rằng ở miền Nam, đặc biệt ở một số thành phố, nhất là Sài gòn trong thời gian này đã tồn tại môt nền văn học. Chưa nói về chất lương của nó là gì. Riêng về số lượng,chắc gì nó đã thua nền văn học miền Bắc. Vậy mà công việc nghiên cứu đã có với nó như thế nào? Qủa là trong thơì chống Mỹ, xuất phát từ yêu cầu chống lại nền văn hoá thực dân mới,chúng ta đã tổ chức việc nghiên cứu văn học đô thị miền Nam. Đó là việc làm cần thiết nhưng về cơ bản chưa phải là việc làm của nhà văn học sử.

Thiết tưởng đã đến lúc phải đặt vấn đề nghiên cứu bộ phận văn học này một cách công phu,thấu đáo,khách quan,công bằng để với những gì là rác rưởi thì quét sạch nó đi nhưng những gì là nhân bản, là văn học đích thực thì phải sớm thu gom về cho kho tàng văn học dân tộc. Chúng ta tin rằng trong thế giới văn chương ở miền Nam sau 1954 trước 1975, không phải cái gì cũng thuộc văn hoá thực dân mới. Quá trình và cũng là kinh nghiệm đánh giá văn học công khai hợp pháp thời kỳ trước 1945 hẳn sẽ giúp các nhà nghiên cứu nhiều điều bổ ích. Đất nước đang thiết tha củng cố khối đoàn kết toàn dân phất cao ngọn cờ hoà hợp dân tộc. Khẩn trương nghiên cứu đánh giá chính xác công bằng đối với nền văn học miền Nam thời kỳ 1954-I975 sẽ góp phần tích cực thực hiện mục tiêu chính trị xã hội đó. Cần ghi thêm một sự thật: trên thị trường sách báo gần đây, không ít sách của miền Nam thời kỳ 1954-1975 đã được tái bản và có độc giả. Chả nhẽ các nhà văn học sử lại thờ ơ trước sự thật đó sao?

d) Với văn học hải ngoại: cũng có một sự thật là từ giữa thế kỷ XX, đặc biệt từ sau 1975, vì hoàn cảnh này nọ, có nhiều người Việt phải ra sinh sống ở nước ngoài và trong số đó, không ít người vẫn không rời bỏ nghiẹp văn chương thơ phú. Do đó mà có thứ văn học từng được đặt tên là văn học hải ngoại. Vậy mà chúng ta đã đối xử với nó như thế nào? Xin được nói thật là chưa thoả đáng. Hình như đâu đó đã có khuynh hướng cho rằng cái gọi là văn học hải ngoại chỉ là thứ quái thai mượn văn chương để chống phá tổ quốc của những thế lực phản động sau 1975 trốn ra nước ngoài mà không chịu từ bỏ hận thù với cách mạng. Quả có thứ quái thai đó qua chủ trương chuyển lửa về quê hương mà những người chân chính không ai không công phẫn. Mà cái thứ đó không đáng gọi là văn chương. Nhưng vấn đề là trong cái gọi là văn chương hải ngoại, đâu chỉ có thứ quái thai. Không chừng phần lớn lại thuôc về những tiếng nói đáng quí đáng thương, đáng trân trọng, đáng thu gom về cho kho tàng văn học dân tộc. Đó là những trang văn trang thơ cất lên từ nỗi nhớ nước nhớ nhà nhớ quê cha đất tổ, nhớ tình xưa nghĩa cũ nơi chôn rau cắt rốn, nơi mồ mả tổ tiên ông bà mình còn đó...gọi chung là nỗi đau xa xứ, nỗi đau ly hương. Và bên cạnh cái chủ đề gần như là chính đó còn có bao nhiều điều thuộc về đời sống tinh thần, tình cảm của những ngứòi xa xứ. Chúng ta những người được hưởng hạnh phúc sống trên đất nước quê hương nỡ lòng nào quên những người xa nước. Cũng cần thấy rằng cái gọi là văn học hải ngoại đâu chỉ là chuyện của đời nay. Mấy chút văn phẩm của Lý Tiến, Lý Cầm, Khương Công Phụ từ thời Bắc thuộc không phải là văn học hải ngoại sao một khi các vị đó cũng rời đất nước sang học hành làm quan bên nước Tàu và làm thơ mà ngày nay nhiều công trình văn học sử vẫn nhắc đến. Rồi cả văn thơ của Phan Bội Châu và của các chí sĩ Đông du đầu thế kỷ XX viết trên đất Nhật bản, Trung hoa, Thái Lan cũng như của Nguyễn Ái Quốc viết trên đất Pháp thực tế cũng là văn học hải ngoại mà chúng ta đã đón nhận nồng nhiệt thì không lý do gì lại để ra ngoaì những trường hợp khác. Vấn đề là có giá trị hay không thôi. Chính sách Việt kiều của nhà nước ta đang được ngày một hoàn thiện. Đặc biệt chỉ thị của Bộ chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam gần đây về công tác Việt kiều đã thể hiện một tinh thần rất cởi mở hẳn sẽ tạo thuận lợi cho việc nghiên cứu văn học hải ngoại. Nếu làm tốt được việc này sẽ có nhiều điều lợi trong đó có sự làm giàu thêm kho tàng văn học Việt Nam.

♦ ♦ ♦

Dân tộc Việt Nam có một kho tàng văn học nghệ thuật lâu đời bao gồm âm nhạc, hội hoạ, kiến trúc, điêu khắc...và văn học. Nhưng phải nói rằng trước thời đại cách mạng, văn học vẫn là hình thức nghệ thuật có thành tựu nổi trội hơn hẳn so với các ngành nghệ thuật khác. Điều này hoàn toàn có thể giải thích được. Nhiệm vụ của chúng ta là phải làm sao để tái hiện, làm sống lại đầy đủ kho báu văn học đó. Vấn đề cấu trúc- tổng thể được nêu lên như trên chính là góp phần tạo thêm cơ sở cho việc nhận thức đầy đủ hơn về kho báu đó./.

_________________________________________________

Thứ Bảy, 17 tháng 4, 2010

Thi phái “Áo bào gốc liễu” trong Thơ Mới

Hoài Nam

Thơ Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân khiến người ta phải chú ý vì cái dư vị cổ kính tạo được qua thể “ca”, “hành” mượn từ cổ thi. Chú ý vì giọng điệu ngang tàng và phẫn hận trong lời thơ, một giọng điệu quả thực không mấy phổ biến trong Thơ Mới.


Theo hồi ức của một vài văn thi sỹ tiền chiến, Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính và Thâm Tâm là ba người bạn rất thân, họ thường nhóm nhau ở vùng Cống Trắng, Khâm Thiên, hoặc sau ga Hà Nội hồi những năm 1940. Không những thế, bằng một mảng tác phẩm rất riêng của mình, họ còn tự biệt ra thành một phái trong Thơ Mới: phái “Áo bào gốc liễu”. Có thể, về ý nghĩa văn học sử, phái “Áo bào gốc liễu” còn xa mới có được tầm vóc như “Trường thơ Loạn” của các nhà thơ miền Trung Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, nhưng dù sao thì nó cũng không lặp lại ở các nhóm phái thơ ca khác. Bởi thế, nó cũng đã góp phần tạo nên sự đa diện trong và cho Thơ Mới. Thật lạ, vì trong Thơ Mới lãng mạn, khi đại đa số nhà thơ cởi mở cõi lòng để đắm say với ái tình chàng chàng thiếp thiếp, để tận hưởng cảnh thiên nhiên đẹp và những giấc mơ viễn xứ, hoặc ít ra, để trốn vào làng quê Việt với dăm ba nét xưa cũ còn sót lại trong cuộc thay da đổi thịt lớn lao, thì con người “Áo bào gốc liễu” lại xuất hiện, như một nghịch phách, qua thơ Nguyễn Bính - đặc biệt là qua thơ của Thâm Tâm, Trần Huyền Trân - và khiến người ta phải chú ý. Chú ý vì cái dư vị cổ kính mà các tác giả đó đã tạo được qua thể “ca”, “hành” mượn từ cổ thi. Chú ý vì giọng điệu ngang tàng và phẫn hận trong lời thơ, một giọng điệu quả thực không mấy phổ biến trong Thơ Mới.
Trước hết, hãy nói đến Nguyễn Bính, tác giả vốn được mặc định như là “thi sỹ chân quê”, như là người được sinh ra để cất lên những khúc hát thương cho làng quê Việt đang có nguy cơ bị xâm thực và biến mất trước ngọn triều thành thị hóa. Giọng thơ Nguyễn Bính là giọng thơ thương cảm, “mùi mẫn”, hợp với chủ nghĩa mủi lòng của đại đa số độc giả Việt Nam (điều này giải thích tại sao thơ Nguyễn Bính lại có sức phổ biến rộng và lâu bền đến thế). Thế nhưng, ở bài thơ có tên Bài hành phương Nam, viết năm 1943, Nguyễn Bính cho thấy một giọng thơ đã khác đi rất nhiều. “Ngày mai, có nghĩa gì đâu nhỉ?/ Cốt nhất vui cười trọn tối nay/ Rẫy ruồng châu ngọc thù son phấn/ Mắt đỏ lên rồi, cứ chết ngay!” Đó là hình ảnh của một anh hùng giữa đám quần thoa, một anh hùng đang phóng túng hình hài trong cơn bế tắc tinh thần. Thậm chí có thể nói, đó là hình ảnh “lộn trái” của người anh hùng trong cổ thi: “Hỡi ơi, Nhiếp Chính mà băm mặt/ Giữa chợ ai người khóc nhận thây?/ Kinh Kha quán lạnh sầu nghiêng chén/ Ai kẻ dâng vàng, ai biếu tay?/ Mơ gì Áp Tiết thiêu văn tự/ Giày cỏ, gươm cùn, ta đi đây!” Phá sản trong nỗ lực tìm kiếm sự đồng hội đồng thuyền từ những nhân vật anh hùng của nước Trung Hoa thuở trước, người “anh hùng” Việt Nam thời tư sản hóa rốt cuộc phải cay đắng đối mặt với tình thế của mình: “Ta đi nhưng biết về đâu chứ?/ Đã dấy phong yên khắp bốn trời/ Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ/ Uống say mà gọi thế nhân ơi/ Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ/ Ta với nhà ngươi cả tiếng cười/ Dằn chén hất cao đầu cỏ dại/ Hát rằng phương Nam ta với ngươi/ Ngươi ơi! Ngươi ơi, hề ngươi ơi/ Ngươi sang bên ấy sao mà lạnh/ Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi”. Đáng tiếc, những bài như Bài hành phương Nam là cực hiếm trong toàn bộ thi nghiệp của Nguyễn Bính.
Với Trần Huyền Trân, có lẽ nên nói rằng đó là tác giả có cái bút danh “đượm mùi váy áo” nhưng lại sở hữu một giọng thơ khá rắn rỏi, gân guốc. Hoài Thanh, khi làm Thi nhân Việt Nam vào năm 1941, mới chỉ ghi nhận Trần Huyền Trân như là tác giả của “những vần thơ hiền lành và ít nói yêu đương”. Thật lạ, chỉ cần đọc một bài như Độc hành ca (1940) là sẽ thấy Trần Huyền Trân không “hiền lành” chút nào: “Giao tình tợp chén chiêm bao/ Ngựa Hồ thôi gió bấc nào đạp chân/ Đây người áo đỏ tầm xuân/ Đấy đi tang trắng mấy lần trùng quan/ Không dưng rét cả dây đàn/ Này cung dâng áo ngự hàn là đây/ Nhớ xưa cùng dỗ bụi giày/ Vỗ đùi ha hả thơ mày rượu tao/ Say đời nhắm lẫn chiêm bao/ Thơ ra miệng dại, rượu vào mắt điên”. Đây đích thị là khẩu khí của một hào khách ngang tàng, lấy giang hồ làm nhà, lấy bằng hữu làm vui, coi tiếng “khà” thích khẩu còn hơn cả trùng trùng danh lợi. Nhưng, cũng rất dễ nhận thấy ở Độc hành ca cái cảm thức về sự bế tắc, tù túng, ngột ngạt, không lối thoát: “Nẻo về chật chội áo cơm/ Dặm đi động lại từng cơn lá rừng/ Lòng ta không sóng không dừng/ Thơ vang lại vướng mấy tầng cửa quan”. Bởi thế, rất logic, tác giả đã kết bài thơ của mình bằng những câu chất chứa tâm trạng phẫn hận, những câu thơ như nhỏ máu: “Chiều nay nhấc chén lên môi/ Không dưng tưởng nhắp máu người tanh tanh/ Khóc nhau ném chén tan tành/ Nghe vang vỡ cái bất bình thành thơ/ Cố nhân, ới hỡi người xưa/ Dọn đi tâm sự, đây mưa về rừng”. Tới năm 1943, trong bài Say ca, Trần Huyền Trân đã chuyển hóa sự phẫn hận ấy thành tiếng cười gằn, cay đắng, kiêu bạc: “Mắt trong ví chọc cho mù/ Thì đen bạc đấy cũng ừ vàng son/ Cười xòa giờ vẫy nước non/ Tay chừng cũng ngượng chẳng còn gió bay/ Này thôi đấy! Này thôi đây/ Này thôi kia nữa, hớp này thì thôi/ Men lên ví chuyển lại thời/ Lũ ta đội ướt đêm dài với nhau”. Nguyễn Sĩ Đại, trong bài viết Từ những mưa đêm lều vó đến vô tận nguồn hương có nhận xét khá tinh tế: “Cái lạ là ông dùng nhiều khẩu ngữ, khẩu ngữ của một anh chàng phẫn chí mà vẫn toát lên được cái tao nhã khí khái của một thái độ sống tích cực” (Thơ Trần Huyền Trân. NXB Văn học, 2001. Tr253). Quả có vậy, trong tiếng cười cay đắng kiêu bạc của Say ca, hình như đã ẩn chứa một tâm thế sẵn sàng hành động (không nên quên rằng chính vào năm 1943, nhà thơ Trần Huyền Trân đã tham gia Việt Minh và Hội Văn hóa Cứu quốc).
Thâm Tâm, nhân vật cuối cùng trong phái “Áo bào gốc liễu”, là tác giả đã quá nổi tiếng với bài Tống biệt hành, nổi tiếng đến mức đôi khi làm người ta quên mất rằng ông còn là tác giả của những bài thơ rất đặc sắc khác, như Tráng ca, Vọng nhân hành, Can trường hành (đều viết trong năm 1944). Đọc thơ Thâm Tâm, ở những đoạn như “Phiếm du mấy chốc đời như mộng/ Ném chén cười cho đã mắt ta/ Thà với mãng phu ngoài bến nước/ Uống dăm chén rượu quăng tay thước/ Cái sống ngang tàng quen bốc men” hay: “Thi với người nằm say bóng liễu/ Thi với người chờ mong kẻ rượu/ Lòng thênh thênh nhẹ gió thu sơ/ Nghĩa khí ngàn năm gió chẳng mờ” (Can trường hành), tôi không khỏi liên tưởng tới thi tiên Lý Bạch với những Tương tiến tửu, Hiệp khách hành lưu danh thiên cổ: cũng thái độ khinh thế ngạo vật ấy, cũng hào khí bừng bừng ấy, không khác! Từ một phía khác, khác với Nguyễn Bính và Trần Huyền Trân, có thể thấy khá rõ ở thơ Thâm Tâm nổi lên chủ yếu không phải là sự cay đắng, phẫn chí, mà là một tinh thần sục sôi hành động, một cảm hứng xóa cũ tạo mới không gì ngăn được. Bình bài Tống biệt hành (chắc chắn là được viết trước năm 1941), Hoài Thanh nói rằng nó “đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại”, nhưng ở các bài thơ sau này của Thâm Tâm thì chẳng có gì bâng khuâng khó hiểu cả. Hãy đọc: “Nện cho vang tiếng chuông chiều/ Thù đem sức sớm đánh kêu trống đình/ Thở phù hơi rượu đua tranh/ Quăng tay chén khói tan thành trời mưa/ Dặm dài bến đón bờ đưa/ Thuyền ai buồm lái giúp vùa vào nhau/ Kìa kìa lũ trước dòng sau/ Trăm sông rồi cũng chung đầu đại dương” (Tráng ca); và đọc: “Sông Hồng chẳng phải xưa sông Dịch/ Ta ghét hoài câu nhất khứ hề/ Ngoài phố mưa bay xuân bốc rượu/ Tấc lòng mong mỏi cháy tê tê/ Ơi ơi bạn tác ngoài trôi giạt/ Chẳng đọc thơ ta tất cũng về” (Vọng nhân hành). Những câu thơ ấy, ở bên trong cái vẻ mang dáng dấp cổ thi của nó, nếu không rơi vào suy diễn quá mức, tôi cho rằng đó chính là những câu thơ cách mạng, theo nghĩa: thơ về và vì một sự thay đổi thật lớn lao (hãy lưu ý đến thời điểm ra đời những bài thơ này của Thâm Tâm Nguyễn Tuấn Trình: năm 1944, đêm trước của Cách mạng tháng Tám 1945).
Xin nhắc lại một lần nữa: trên phương diện văn học sử, thơ của phái “Áo bào gốc liễu” có thể không phải bộ phận tác phẩm thực sự quan trọng. Thế nhưng, nó độc đáo, nó góp phần làm thành sự đa dạng cho diện mạo thơ Việt Nam trước năm 1945, và tất nhiên chúng ta sẽ không thể có nhận thức đầy đủ về một giai đoạn trong thơ hiện đại nếu gạt nó ra khỏi sự quan tâm. Ai đó nói rằng công của thi sỹ Vũ Hoàng Chương là nâng cái chán chường lên thành thơ, tôi cũng xin được “nối điêu” bằng một ý: công của phái thơ “Áo bào gốc liễu” là đã nâng cái bất bình lên thành thơ, mang đến cho cái bất bình một chiều kích mỹ học nào đó. Đúng như một câu của Trần Huyền Trân trong bài Độc hành ca: “Nghe vang vỡ cái bất bình thành thơ”.

____________________________________________________________

Thứ Sáu, 16 tháng 4, 2010

Đêm cuối cùng ở Ngọa Vân (Phần cuối)

Truyện ngắn của Uông Triều

(tiếp theo và hết)

Bồn chồn.
Tiếng gà gáy sớm…
Pháp Không khơi thêm bấc đèn, phòng lửa tàn. Điều Ngự nét mặt bình yên, phẳng lặng sau cơn giông bão. Ánh mắt ngài đang thấu vào cõi xa xôi, xuyên qua màn đêm, nhập vào cõi hư vô tận cùng, ánh lửa từ nghìn xa trập trùng tràn về. Cảnh tượng lạ kỳ. Luồng khí sáng từ trong thảo am Ngọa Vân bỗng cựa quậy, thoát ra khỏi tường vách chật hẹp, tỏa ra bốn phương trời, mười phương đất, rực sáng như muốn thiêu đốt lần cuối. Ánh sáng ngụt mạnh, bốc như hỏa lò, căng đượm, nóng rực, rát bỏng mặt người. Một sức nặng ngàn cân từ thảo am Ngọa Vân đang rời khỏi mặt đất, chầm chậm, yên bình, hướng thẳng lên trời.
Pháp Không xiết mạnh hai bàn tay vào nhau, hỏi khẽ.
- Bảo Sái đang đi xem những chỗ để kinh sách dưới Thông Đàn, đề phòng mưa gió làm ướt hỏng, một chốc sẽ quay lại. Tôn đức có nỗi lòng, có muốn sai bảo điều gì chăng?
Tiếng Người đáp lại nghe như gió thoảng.
- Bữa trước hai vị tì kheo Tử Danh và Hoàn Trung dìu ta lên đây, họ muốn ở lại nhưng ta không giữ. Ta bảo họ việc sinh tử không thể xem thường, cũng không cần ồn ã. Ta đang chờ thôi.
Điều Ngự nghiêng mình. Trời đất chuyển vận, những đợt gió day dứt, quất siết bắt đầu giạt dụa, dềnh dang, im lịm rồi tắt hẳn. Trời quang đãng, sáng rực lên. Giữa đêm, không khí thoáng rộng lạ thường.
Pháp chủ mở rộng đôi bàn tay cho khí mát tràn vào. Ta chắc không phải đợi lâu, cũng chẳng vội gì. Ngày của ta đã định, càn khôn đang chuyển mình. Rừng Ngọa Vân yên lặng như ngày ta mới lên đây, thảm trúc vẫn tươi tốt rì rào. Tiếng nước chảy dưới khe, nghe rõ và trong quá, tiếng của đất trời, của rừng xanh, của muông thú quây quần, tiếng của lòng ta. Một vệt sáng, chói rực trên trời…
Bảo Sái quay lại thấy Pháp Không đang túc phục bên thượng hoàng. Nhìn nhau, bồn chồn.
- Trời yên gió phải không?
- Dạ, trời lặng, sáng bừng lên.
- Giờ này là giờ gì?
- Thưa, giờ Hợi.
- Chưa đến giờ của ta.
Phía trời Bắc một vì tinh tú sáng rực trụt xuống. Tiếng vượn kêu khóc ngừng bặt, lá cây thôi trút. Vũ trụ yên lặng, sức nặng đang tút sâu xuống đỉnh Ngọa Vân như dòng thác ánh sáng. Đức Nhân Tông gật đầu, vẻ mặt thanh thản.
Chùa kế bên, môn nhân bỗng vung búa đánh một tiếng chuông ngàn. Âm thanh rền, trầm, tỏa xung bốn bề. Tiếng chuông đập vào vách thảo am, phả ra khoảng lặng mênh mang, đổ tràn xuống thung lũng, tràn ngập khắp cây cối, muông thú, hoa lá, chạy rung trên mặt đất, lọt vào khe sâu, suối nước, vọng tưởng trong lòng pháp chủ Trúc Lâm.
Rề……nn.
Kẻ tu hành thì sướng sao được. Khi ta rời bỏ vương quyền vào chốn thâm sơn cùng cốc đã có người bảo sau lưng rằng. Lão ấy vốn ham hư danh thôi, muốn được ngang hàng với thái tử Tất Đạt Đa ở nước Ấn xa xôi. Làm gì phải nhọc công đến nơi cùng cốc. Khó nhọc ai nấy thấy từ đầu. Ta vốn là bậc quân vương, những ngày đầu tu tập chay tịnh, khổ luyện không phải là không có lúc nhọc người. Tương một hũ, cà một lọ, rừng rú âm u, rau rừng thay cho mỹ vị, tiếng muông thú thay cho đàn địch. Ta đâu than phiền, hối tiếc. Ta viết Sơn phòng mạn hứng để tỏ nỗi niềm.
Ai buộc mà đi giải thoát tìm?
Không phàm sao phải kiếm thần tiên
Vượn mòn, ngựa mỏi ta già phải
Như cũ am mây một sập thiền
Phải trái tâm theo hoa sớm rơi
Lợi danh dòng lạnh mưa đêm rồi
Hoa tàn, mưa tạnh non im ắng
Một tiếng chim kêu xuân hết thôi

Tôn Đức ngồi thế thiền, giữ cho lưng thẳng thắn, thấy mình nhẹ bỗng như lông vũ chim thiên tước. Hai đệ tử túc phục. Pháp Không tay đan siết vào nhau, suy tư cực độ. Bảo Sái bình lặng như nước hồ thu, sóng cồn chuyển dội từ đáy. Con muỗi rừng bấu vào mu bàn tay, Bảo Sái phẩy tay, muỗi bay vọt lên, tiếng vo ve giận dữ. Pháp Không giật mình. Bảo Sái bấm nhẹ vào tay: “Đừng để ý đến những chuyện ấy.’’
Trời bỗng sáng rực lên.
Chừng ấy người thôi. Những người theo ta, họ có thực lòng hay chỉ theo danh một ông hoàng mà mưu danh phật pháp. Lòng người khó lường, biết ai là chân thật. Ta có nghi ngờ chăng? Đức tin của ta đặt đúng chỗ chăng? Hai bàn tay úp rồi lại mở ra, đời người cũng như hai bàn tay thôi. Đệ tử cũng như hai bàn tay ta, ngón ngắn, ngón dài.
Một ngôi sao sáng rực trôi vào đêm tối mịt mùng, Tôn đức quay sang:
- Có thấy gì không?
- Thưa, một ngôi sao đáp hạ về Nam.
- Có điềm lạ chăng?
- Khi đệ tử lên Ngọa Vân, qua suối Doanh thấy nước dâng cao đến mấy trượng.
Đức Nhân Tông bỗng nói to lên:
- Ta biết được ta, ngươi hãy nghỉ đi một chốc, đừng lo lắng nhiều nữa. Điều tất đến sẽ đến.
Nhân Tông yên lặng, mường tượng những việc xung quanh. Trước mặt ngài nổi lên một đài sen giống như thiếu thời nằm mộng trong chùa Tư Phúc. Giấc mộng khi xưa đã rất gần, đài sen vươn dần lên khỏi mặt nước. Cánh sen hồng đậm, hoa sen xếp dày từng lớp. Hoa sen của ngày khai mãn. Đài sen đang mở ra, đợi một người lên ngồi ở trên ấy. Ngày của ta đã đến, chiếc lá rừng giật mình rơi tạt ngay dưới chân thượng hoàng.
Người ta nhẹ đi, đến giờ định rồi chăng? Phật pháp có ngày hưng thịnh, có ngày suy vi. Ta truyền lại y bát cho Pháp Loa, tất nhiên trong lòng có điều khó nói. Phật pháp cao cả, trí người có hạn, làm sao để việc hoằng pháp còn mãi về sau không bao giờ dứt. Chim hồng hộc bay cao mãi cũng phải dừng cánh nghỉ ngơi.
Thái Tổ đã từng dứt hoàng bào về Yên Tử học làm Phật, quốc sư Trúc Lâm thưa rằng. “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm. Tâm lặng lẽ và sáng suốt, đó chính là Phật.” Nhưng bắt đầu thế nào? Ta xác lập được chí hướng của mình, nếu không sẽ thành công cốc. Ta từng dạy đệ tử rằng. “Pháp tức là tính, Phật tức là tâm. Tính nào chẳng phải là pháp? Tính nào chẳng phải là Phật. Tức tâm tức Phật, tức tâm tức pháp, pháp vốn chẳng pháp. Tức pháp, tức tâm, tâm vốn chẳng tâm, tức tâm tức Phật…”
Ta độ cho mấy nghìn người, như thế đã gọi là mãn nguyện chưa. Đệ tử thông hiểu Phật pháp hay còn mải mê hư vị hão huyền, đến khi tìm ra huyền diệu thì không còn gì là sức lực nữa. Đường đi chông gai, biết đâu là chỗ trú chân yên lành được.
- Hãy thắp một nén hương thơm cung kính.
Niêm hương.
Hương làm bằng rễ bài mọc dưới chân Yên Tử đốt đượm và thơm quá, mùi hương cho trí não thanh tịnh, hương thơm bay khắp chốn cùng.“Một nén hương này, khói lành thơm phức, khí tốt bay lên, ngưng đọng năm phần pháp thân, biến mười phương lễ diệu… Một nén hương này, nướng cũng không chín, đốt cũng không cháy, gõ vào không mở, kéo lại không đến, ngó trộm thì con ngươi khô kiệt, ngửi thì cửa não tách đôi…”
Có ai dõi theo ta không? Chẳng ai cả. Ta xuất gia tu hành nhưng vẫn là bậc quân vương, người đời e dè, kiêng nể. Ta tự mình nghiêm cẩn với mình thôi. Cũng có lúc không khỏi trông thấy miếng thịt gà, bát canh cá chép. Nếu ta lén ăn thì ai dám nói điều gì? Nhưng ta giữ mình cho chính ta. Mâm cao cỗ đầy nhưng lòng người đâu thèm muốn. Những bài học kinh pháp đầu tiên là của Tuệ Trung thượng sỹ. Nhưng thấy thượng sỹ sống rất thế tục, ta sinh ra ngờ vực, bèn giả bộ ngây thơ lén hỏi. “Chúng sinh quen nghiệp uống rượu, ăn thịt thì làm sao tránh được tội báo?” Thượng sĩ giải rõ. “Giá như có người đứng quay lưng lại, bỗng nhà vua đi qua sau lưng, người kia bất ngờ ném một vật gì đó trúng nhà vua. Người ấy có sợ chăng? Vua có giận chăng? Như vậy phải biết hai việc không liên quan gì tới nhau.” Ta có làm được như ngài? Ta đã là vị chân chủ. Làm thế e phiền lòng, các đệ tử không yên trí mà tu hành được. Nhưng chuyện đó qua lâu rồi, ta đâu phải bận tâm nữa.
Nửa đêm.
Mây gió ngừng bặt. Không gian khoáng đạt, mát lộng. Tiếng vượn hú não dứt hẳn, trời đã qua cơn vận mình ghê gớm. Đằng đông, một ngôi sao sáng rực đang đốt cháy lần cuối. Đức Phật hoàng cố ngồi dậy nhưng không nổi, Bảo Sái muốn giúp nhưng ngài bảo.
- Đã không được thì thôi, đừng níu giữ. Bây giờ là giờ gì?
- Thưa, giờ Tí.
Điều Ngự hé môi, tiếng nhỏ, mỏng như gió, đôi mắt bình thản yên bình.
- Đây là giờ ta đi.
Lặng ngắt. Nghe thấy cả tiếng thở của rừng già nén lại. Sột soạt. Rì rầm. Râm ri. Người đệ tử trung thành không một giây chớp mắt.
- Thưa Tôn đức đi đâu?
Không có tiếng trả lời. Pháp chủ đang nhập dần vào cõi hư không.
- Ngươi nghe bài kệ của ta đây.
- Dạ, đã sẵn nghiên bút.
Pháp chủ đọc chậm rãi:
Mọi pháp đều không sinh
Mọi pháp đều không diệt
Nếu hiểu được như vậy
Phật hiện ra trước mặt
Không đến cũng không đi
Bảo Sái hỏi khẽ:
- Nếu không sinh, không diệt thì thế nào?
- Tai ngươi điếc rồi chăng?
Nói xong ngài nằm như thế sư tử, lặng lẽ ra đi.
Trên đỉnh Ngọa Vân mưa bắt đầu tuôn rạt, gió rừng gào thét tiễn đưa Tôn đức về cõi Niết bàn.
Đó là đêm mùng một, tháng mười một, năm Mậu Thân (1308), cách đây vừa tròn bảy thế kỷ.

___________________________________________________

Đêm cuối cùng ở Ngọa Vân (Phần 1)

Truyện ngắn của Uông Triều

1. Am Ngọa Vân nằm trên núi Vây Rồng thuộc cánh cung Đông Triều, địa phận xã Bình Khê, huyện Đông Triều. Theo các ghi chép Phật giáo thì Ngọa Vân là nơi vua Trần Nhân Tông, tổ sư thứ nhất của dòng thiền Trúc Lâm viên tịch. Nằm ở độ cao hơn 500 mét so với mực nước biển, Ngọa Vân có thảm thực vật phong phú bao phủ, nhiều nhất là các loại trúc rừng, trên núi có mây trắng che quanh năm…
2. Những kiến trúc hiện thời ở khu vực Ngọa Vân chỉ còn là phế tích: một am thờ sơn thần dựng lại trên nền cũ có tên Thiên Sơn từ; một tịnh am ghi Ngọa Vân am; tháp đá có đặt bài vị vua Trần; một bia lớn khắc hai mặt đã bị kẻ gian đập vỡ vì nghi có vàng bên trong… Một kiến trúc vòm bị mất phần mái, một số hàng đá xây bó vỉa, ngói mũi hài, ngói mũi lá, gạch vồ, đá kê chân cột, voi đá, ngựa đá…
3. Không xa địa điểm Ngọa Vân là chùa Quỳnh Lâm, nơi có pho tượng Di Lặc bằng đồng, đứng đầu trong An Nam tứ đại khí xưa kia của Đại Việt; đền An Sinh thờ bát vị hoàng đế; quần thể lăng mộ các vua Trần, trong đó có một lăng mộ đang nằm giữa hồ nước thủy lợi…
4. Đường đến Ngọa Vân còn chưa có đường chính, phải đi qua rừng trúc và các địa điểm có tên như đập Trại Lốc, suối phủ Am Trà, Tàn Lọng, Đô Kiệu, Thông Đàn, Đá Chồng, có chỗ phải lội qua suối rừng…
Vào dịp bảy trăm năm ngày mất của Người, Uông cùng một đoàn văn nghệ sĩ trong vùng đắc ý hành hương lên thăm Ngọa Vân. Uông đã ngồi thiền dưới chân tháp tổ, ăn rau rừng, uống nước suối, bẻ trúc làm gậy, một đêm miên man không ngủ được…
***
Cờ thiên địa phất thì tiến, cờ tứ định thì đi thong thả, cờ ngũ hành thì đi nhanh, cờ lục hợp thì thổi cơm… Chiến trận.
Đêm mịt mùng trên đỉnh Ngọa Vân.
Đã bốn ngày mưa gió gầm gào rên xiết. Đức Phật hoàng trở dậy, gió quất vào mạng sườn thảo am từng đợt. Cột cái, cột quân, rui mè, lốc ngói vặn mình co rút, chống đỡ. Gió mạnh nhưng chưa quật nát, nghiến xéo tất được. Vách gỗ vặn kêu răng rắc, gió muốn nhổ bật thảo am, cuốn thốc lên trời nhưng bốn thân cột cái làm bằng gỗ lim, chôn sâu dưới đất, mút chặt thin thít không chịu nhúc nhích. Thảo am lừng lững chống lại từng đợt gió xoáy…
Người hướng mặt về Đông.
Giọt sáng leo lét của đèn hạnh muốn tắt hút vì gió mạnh. Trời đặc như hũ nút, gió gào sầu oán, khóc lóc. Tiếng vượn kêu nghe thảm quá, như người hát khúc ai não đưa cố nhân về đất cũ. Thiên địa đang chơi khúc nhạc bi hùng đưa những chiến binh tử trận về cố quốc. Ta muốn ra ngoài trông thấy những cảnh trí dữ dội này.
Thị giả Pháp Không dựa vào góc thảo am, thưa rằng:
- Mấy hôm liền trời đất tối om vần vũ. Không biết định liệu thế nào. Xin Tôn đức đừng ra ngoài kẻo gió máy không ngờ được hết. Ngày này, trời thường gió buốt, đêm nay bỗng gió lốc, mưa táp. Trời đất thất thường khó đoán trước.
Nhân Tông nhìn lặng vào khoảng không chốc lát.
- Ngươi có nghe thấy tiếng gió hú không? Ta nhiều năm ở chốn yên thâm chưa từng nghe thấy tiếng gió như thế. Cây đào núi gầy gò, đứng co ro, sần sùi mấu trơ trọi, gió đã tuốt hết lá rồi phải không? Tiếng hú như tiếng giặc Thát bị đâm ộc máu trên dòng Bạch Đằng. Tiếng kêu dữ lắm, thảm thiết. Tiếng người kêu than trước khi chết không khi nào dễ chịu cả.
Tôn đức dướn người, bàn tay tì trên sàn gỗ, huyết mạch chạy giật giật nơi thái dương, những ngón tay khô dài, xòe rộng, tì miết trên mặt gỗ. Ánh lửa bập bùng…
Pháp Không định đỡ thượng hoàng, ngài gạt ra.
- Nói cảnh trí bên ngoài đi, ngươi có nhìn thấy những đám mây không? Từ ban chiều mây đã cuộn một mối ngờ ghê rợn, chúng muốn lút xuống cả mặt đất, trùm lên rừng già, cây cỏ, bò vào trong các ngóc ngách, trườn nhoài, luồn lách khắp thảo am. Mây đen vẽ ra những đầu rồng, đầu hổ, binh tướng nhà trời. Tất cả như muốn chúi đầu xuống thảo am. Ta thấy mây mờ lắm, chiến trận năm xưa…
Sông Tam Trĩ.
Quân ta rút lui về xứ Thanh. Thủy chiến. Giặc Thát hai mặt Nam Bắc giáp công vũ bão, khóa chặt, hòng bắt sống vua Trần. Bao nhiêu tướng sĩ đã vì ta và thượng hoàng mà tổn mạng. Lòng người chút nao núng, biết có thoát hiểm trong gang tấc? Tiên tổ có độ trì? Ta cũng có lúc mềm lòng, lưỡng lự nên hòa hay đánh? Để cho giặc trói, giữ cho xã tắc khỏi bị giầy xéo? Giặc đã đuổi rút phía sau, sát khí ngùn ngụt. Quyết chiến. Người cầm lái vẫn bình tĩnh quạt những mái chèo chắc nịch, phăm tới. Thuyền lút vào chỗ lau sậy kín đáo, chỉ cần lỏng tay một chút thuyền sẽ không thể nào lọt vào được chỗ quặt gấp ấy hoặc mũi thuyền loay hoay chổng ra, làm mồi cho quân thù. Những khi giáp ranh sống chết, mới biết mạng người là thế nào.
Trận Bạch Đằng.
Đằng đông nổi lên những quầng đỏ dữ dội chói sáng. Màu đỏ bi hùng, màu đỏ thảm khốc. Nước sông cuộn dâng, cuốn lốc, hút nước xoáy kéo rút, kêu ồng ộc như tiếng trâu rừng bị chọc tiết. Ta cùng thượng hoàng ra gươm đốc chiến, dồn binh giặc về sông Bạch Đằng cho đại quân ta tiêu diệt. Nguyễn Khoái nhận nhiệm vụ đánh tiên phong dụ địch. Đại quân của Hưng Đạo vương đang xuôi dòng Hóa Giang quặt vào Bạch Đằng chặn đường tiến ra biển.
Tiếng kêu của giặc Thát bị đâm ộc máu. Máu tanh sủi bọt, đàn cá dữ không dám bơi lên nuốt máu. Huyết người không phải là thứ dễ uống được.
Trống trận từng hồi riết róng, quân sĩ hô vang như sấm. Tên bay như muỗi rừng hung dữ. Kiếm sắc vung như múa, giáo nhọn tua tủa, sấm sét nổi rền.
Sát! Sát!
Tinh kỳ gió giật như quất. Quân chạy hàng ngang, quân chạy hàng dọc, quân quay tròn, quân xé nhỏ, quân từ dưới đất chui lên, quân từ trên trời rơi xuống, tiếng thét xé họng. Lũ giặc hoang mang không biết quân binh đổ ra từ đâu.
Hỗn chiến.
Máu giặc Thát, máu quân Trần tưới đẫm cờ chiến.
Thuyền lớn xô vào nhau đắm gẫy, mũi gỗ lim nhọn hoắt bọc sắt giàn trận giăng bẫy quân thù. Quân giặc Thát cao lớn, mặt bạnh hổ mang, lông mày xếch ngược, dữ tợn, la ối, giãy dụa.
Chém giết vung tay không tiếc. Quân hai bên bờ giáp công, trồi lên, trụt xuống. Tên bắn như mưa. Giặc liều chết mở đường máu, giáo nhọn quây chặt, đánh bật xuống. Bè lửa thả xuống đốt cháy những chiến thuyền đang vùng vẫy.
Lệnh ban xuống: những kẻ đầu hàng được tha mạng để giữ hòa khí sau này.
Từng đống giặc trói giật cánh khỉ, trùng trục hàng ngàn tên.
Thăng Long đã mấy lần thất thủ, quân thần phải rời bỏ kinh thành, tông miếu tổ tiên bị đào bới. Uất ức, dồn nén, căm thù tột độ. Trận chiến cuối cùng như bát nước tràn, binh sĩ bị mất hết gia quyến xông lên chém giết khôn cùng, một người địch chục người, chục người địch trăm người, trăm người địch vạn người, nỗi đau không kìm được nữa. Bắt sống được tướng giặc ta sẽ đem về Chiêu Lăng làm lễ hiến tiệp.
Thắng trận vang lừng. Bọn giặc cướp kinh hãi không dám đưa quân sang lần nữa.
Nhưng bao chiến binh tử trận? Máu quân thù, quân ta chảy thành sông. Qua vùng chiến địa vẫn ngửi thấy mùi xác người chết thối. Chiến công nào chẳng có bùn và máu.
Trận chiến nào chẳng vấy máu binh sĩ, quân giặc cùng đường đâm chém man rợ. Chiến binh không đầu vẫn vung kiếm trước khi ngã gục. Dòng máu nóng phun lên từ cổ họng sùng sục như nước sôi mùa lũ. Tiếng người khóc thét, sợ hãi, giận dữ, rên xiết, đau đớn, uất ức, câm lặng.
Như tiếng gió thét mấy ngày qua.
Sa trường đẫm máu, nỗi đau tràn mãi không sao xóa khỏi.
Tiếng vượn hú nghe như tiếng quân thù lúc hấp hối. Bao chiến binh vì xã tắc mà tử trận? Sợ rằng nhiều quá mà không chăm lo cho hết? Có người còn trách móc vì quên lãng? Ta đã ở gần họ lắm rồi. Những chiến binh kiêu dũng của Đại Việt. Những cánh tay vẫy gọi, nhưng cánh tay nhỏ quá, tiếng kêu cứ yếu dần, ta có đến kịp chăng?
Tiếng nước suối sôi sùng sục, hay tiếng ngựa chiến giậm chân giận dữ dưới dòng thác chảy tràn dưới chân Ngọa Vân mùa lũ.
Gió thổi đau đớn, quay cuồng như đêm nay.
Đêm nay là đêm cuối cùng?
Ta muốn nhìn xem quang cảnh bên ngoài. Tối quá, chẳng thấy gì cả.
Đêm nay, giông bão ngập tràn, mưa trời trút cả lòng mình xuống đất.
***
Thao thức…
Gió.
Gió từ phương Nam thổi đến. Quay quật, xoay vòng, van vỉ, dằn vặt, xé nát từng thảm rừng trúc.
Phương Nam.
Ta đã thân hành đến đó, khất thực cả tháng trời trong thành Chà Bàn của nước Chiêm Thành. Người Chiêm Thành khác chăng dân Đại Việt, trải qua binh đao chống giặc Thát, đau đớn, vui mừng. Dân cày đâu cũng giống nhau. Ta đã hứa gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân cũng vì cảm động ân cần tiếp đón, cũng là muốn xây mối bang giao bền chặt với láng giềng. Lời của bậc quân vương nặng như núi, không làm không được, ta có lầm chăng?
Công chúa phải ưng lòng vâng sứ mệnh của vương huynh và phụ hoàng. Huyền Trân là công chúa duy nhất của ta, triều thần trách móc. Có người còn ví việc ta gả Huyền Trân cho Chế Mân khác chi việc nàng Chiêu Quân đi cống Hồ. Có ai hiểu được nỗi lòng của ta, lòng người cha trăn trở, lo âu vì mệnh nước, vì gia quyến. Phong tục mỗi phương mỗi khác, công chúa có yên lòng làm dâu nước người, trí não hướng về đất Bắc. Ngẫm cho cùng, phận nữ nhi hy sinh vì xã tắc đã từng. Công chúa An Tư phải gả cho Thoát Hoan để hòa hoãn với giặc, nhẫn nhịn biết mấy? Nữ vương Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Thái tổ, đức hy sinh, thiệt thòi còn gì lớn hơn nữa? Các cung nữ đã vì ta mà trẫm mình dưới suối Yên Tử, còn gì cảm động hơn? Con gái ta không một lời oán thán, chữ hiếu nào sánh bằng? Nữ nhi cũng có khi là bực anh hùng.
Người nhíu hàng chân mày bạc trắng, bàn tay buông trên mặt sàn, tì mạnh xuống mặt gỗ, cánh tay gồng lên, khí huyết dồn lên trí não. Những nếp nhăn co vào, giãn ra như sóng táp. Vũ trụ đang bị hút trụt vào thảo am, giữa núi rừng đen đặc. Pháp Không khiếp sợ nhìn thượng hoàng. Những cơn sóng đang trải qua trong lòng ngài. Sóng chạy giật từ đỉnh thái dương, lan sang huyệt ấn đường, lõm sâu ở chân mày, tỏa xuống lưỡng quyền, tụ dưới nhân trung, nuốt mạnh trong yết hầu, nín thở một khắc, rung chuyển toàn thân, rồi lại tuần hoàn ngược lại. Giông bão đang nổ ra trong khoảnh khắc nhỏ của đời người. Trên mặt đức Phật, bể khổ, hoan lạc đang cuộn lại, quấn quýt, quay vòng, tì nén, đan xiết vào nhau, bung ra dữ dội. Chưa bao giờ người đệ tử trung thành thấy những chuyển vận ghê gớm trong lòng pháp chủ. Ngài vận khí huyết, hai tay rung lên, dòng máu đỏ chảy vần vũ trong đó.
Trời cồn cào, vặn vã. Không phải cuồng phong nhưng đau nhức xé ruột. Công chúa Huyền Trân theo chồng về Chiêm Thành, sính lễ là châu Ô, châu Rí. Vùng đất yết hầu phương Nam đã thuộc về Đại Việt. Bờ cõi được mở rộng nhưng công chúa sống một đời xa lạ, sự hy sinh có đáng?
Huyền Trân là con gái duy nhất của ta, đem gả cho Chế Mân cũng vì gây dựng ích lợi cho Đại Việt. Ý ta có chống được thiên định? Vua nước Chiêm Thành mất, theo phong tục Huyền Trân phải lên giàn thiêu cùng chồng? Lòng ta như lửa đốt. Ngày con gái ta bị thiêu cháy cũng là lúc thể xác ta tan rã từng mảnh. Người cha nào nỡ nhìn con gái mình lên giàn thiêu như thế. Khi An Tư phải gả cho Thoát Hoan làm kế hoãn binh, bao người thương xót, khóc than, lòng đau như cắt. Nhưng có cách nào để cứu quân dân Đại Việt trì hoãn thêm được vài ngày khỏi bị truy đuổi, thảm diệt? Có cơ hồi hoàn lực lượng? Người đời trách ta không thấy tấm gương tày liếp, có bao người hiểu được lòng ta?
Huyền Trân trở về.
Mừng vui nhưng lòng ta quặn thắt, tóc trên đầu đã bạc thêm mấy phần. Chuyện giữa Khắc Chung và Huyền Trân ta không tra xét, công chúa đã yên bình trở về, thế là thỏa lòng rồi. Cha con gặp nhau buồn vui khôn xiết, ta còn mong gì hơn nữa?
Gió thốc.
Gió bớt dồn dập quay quắt nhưng thổi cuồng, quất vào chỗ sâu xa nhất của lòng người. Cây rừng phần nhiều đã buông tuồng sau những đợt gió dữ, run rẩy chờ hơi ấm quay về; chỉ những loài cây vững chãi nhất, cứng cáp nhất còn kiêu hãnh, can trường đứng thẳng dậy, vươn thẳng lên trời, cho dù cuồng phong đã tuốt tướp lá, thân cây rớm máu, cơ thể chi chít những vệt nhựa tứa dãi khô thẫm lại, lớp vỏ già căng rộp mình, vặn cong, rơi xuống mặt đất, nước vội cuốn đi.
Chị gái ta ốm nặng, đòi gặp lần cuối. Phút sắp lâm chung nào chẳng cảm động. Thiên Thụy đã vì Trần Khánh Dư mà tổn danh. Ai hiểu được lòng nữ nhi cũng thường tình? Ta đã dặn dò. “Chị nếu thời tới thì tự đi, gặp cõi âm có hỏi việc gì thì cứ trả lời: Xin đợi một chút, em tôi là Trúc Lâm đại sĩ sẽ đến.”
Gió nhạt dần.
Đức Nhân Tông lỏng người, thả tay xuống chỏm gối. Ngài nhìn về hướng Bắc, trùng đồng sáng rõ, ánh lửa giữa đêm như thiêu đốt.
Những cảnh dữ dội ngoài kia, đám vượn khỉ kêu khóc vì sợ gió bão, ai hiểu được lòng ta? Những người thân thích của ta, môn nhân Trúc Lâm, ta đi rồi họ có thương xót thực lòng. Ta đâu dám nghi ngờ…

(còn nữa)
__________________________________________________

Thứ Tư, 14 tháng 4, 2010

Thi sĩ Hữu Loan, trung chuyển tính cách Thanh với kẻ sĩ Bắc Hà?

Xuân Ba

Không hiểu sao mỗi bận ăn theo đám bạn rẽ qua Nga Sơn được ngồi với cụ Hữu Loan, lại váng vất chất thơ Huy Trụ nhà thơ xứ Thanh: Đến đất này phải chấp nhận cùng nhau/ Một câu nói cũng nửa rừng nửa biển/ Đến con sông cũng là sông ngựa/ Chảy ngang tàng giữa bãi mía nương dâu. Tính cách dân xứ Thanh, mà nhất là kẻ sĩ, đa phần ngang thẳng. Giai thoại thì chả biên ra đây làm chi. Nhưng có lẽ điển hình nổi trội là cụ Lộc Khê hầu Đào Duy Từ.
Tuổi mới 21 cha mẹ mất sớm bản tính thông minh Tứ Thư, Ngũ Kinh, Bách Gia Chư Tử… không sách nào không đọc. Hiểu rộng tam giáo cửu lưu mà về thơ văn từ phú lại càng tinh xảo. Triều đình mở khoa thi kén kẻ sĩ bèn thu xếp hành trang về kinh đô dự thí. Nhưng khảo quan ở trường thi theo quy định nói rằng hễ là con nhà ca xướng thì không được dự! Lộc Khê hầu Đào Duy Từ nổi giận chửi vỗ mặt ngay tại trường thi rồi đùng đùng trở về đất Văn Trai, Tĩnh Gia. Về sau, ông vào Nam phò các chúa Nguyễn được trọng dụng nhiều lĩnh vực. Mà Lũy Thầy là công trình lưu danh hậu thế của Lộc Khê hầu Đào Duy Từ!
Chỗ rẽ vào Vân Hoàn gặp chúng tôi hỏi thăm nhiều người mau mắn "Các bác vào nhà cụ Tú ạ chỗ tê, chỗ tê". Ai cũng một hai cụ Tú cụ Tú... Chao ôi cái bằng tú tài năm 1941 của nhà thơ Hữu Loan mới danh giá làm sao. Những tiến sĩ rồi trên cả tiến sĩ thời buổi này sao thiên hạ hững hờ quá vậy? Người Pháp chiểu danh sách những cậu tú điểm nhất nhì ba cho vời Hữu Loan can dự ngay vào cơ chế, nhưng Hữu Loan không ưng không ưa.
Không ưng không ưa là tính cách Hữu Loan hay là sức hút của cái thuở ban đầu tham gia Việt Minh đã khiến Hữu Loan vừa có sự chùng chình lẫn dứt khoát? Tôi gạ thêm: thời điểm ấy ở thị xã Thanh Hóa cuộc gặp với cụ Trần Trọng Kim với mục đích gì? Thi sĩ nói ngay là ông ấy giao cho mình chức Tổng đoàn trưởng thanh niên. Trần Trọng Kim phong cách cẩn trọng cởi mở dễ gần, kiến thức lúc đằm lúc lồ lộ uyên bác khiến Hữu Loan nể phục. Nể mà nhận chứ chưa có hoạt động gì vang danh lẫn ấn tượng.
Rồi phong trào của Mặt trận Việt minh vuột ông hẳn về một phía mà trọng trách cao nhất là Phó Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn. Những ngày đầu tham gia chính quyền lâm thời của tỉnh Thanh Hóa, một lúc ông phụ trách 4 Ty (bây giờ là Sở) Giáo dục; Thông tin; Thương chính; Công chính. Ông cười bảo rằng, có lẽ ông không có khiếu lãnh đạo! Khiếu? Hóa ra ông không biết bợ đỡ cả nể kể cả cúi luồn nữa. Không ít những người thân thuộc họ hàng sau này chửi ông là ngu, khổ là phải, vì khi ấy ông cho cả làng vào làm nhân viên, làm công chức cũng được nữa là vài người. Nhưng ông đã thẳng thừng từ chối rằng bay hãy cứ đợi đã!
Chả có ai kiên gan để đợi được ông. Bởi ông đã tham gia Vệ Quốc đoàn phới thẳng vào theo đợt Nam tiến đầu tiên dừng chân bên Đèo Cả núi cao ngất/ Mây trời Ai Lao/ Sầu đại dương hái cam quýt dại lưng đèo/ chua đến ăn nheo cả mắt. Có lẽ tính khí Hữu Loan phải có một thứ tráng ca như Đèo Cả thì mới dung chứa được? Chứ cái tạng phóng sự hay lục bát hoặc ngũ ngôn thất ngôn hay tứ tuyệt sẽ dễ mà vỡ òa? Một người ông gặp tuy không làm thay đổi số phận nhưng khiến ông gần như tri âm là một ông tướng. Tướng Nguyễn Sơn. Người ta vẫn nắc nỏm đôi khi thở dài về tính cách của những danh sĩ Bắc Hà ngang kiêu nhưng đằm chứ không phát lộ một cách ồn ào như xứ Thanh?
Chả biết tính ngang thẳng bạo liệt của họ Vũ làng Kiêu Kỵ, Gia Lâm có dây mơ rễ má chi với mạch đất Vân Hoàn, Nga Sơn, nơi sinh thi sĩ Hữu Loan không nhưng được ông tướng Nguyễn Sơn coi như bạn tâm giao. Nâng chén rượu trắng Nga Sơn lên nhưng thi sĩ lại đặt xuống. Ông nheo mắt nói mãi về một Nguyễn Sơn tài danh ngang tàng phóng túng trên đất Thanh những năm cuối 40 mà ông thi thoảng lại cặp kè. Đâu đó lác đác có những đêm tâm giao bên chén rượu. Nhưng không túy lúy bét nhè mà như ông từng giảng cho tôi nghe câu "Tri kỳ vị, tri kỳ hương, tri kỳ ảo, tri kỳ linh" (uống phải biết vị, biết hương, biết cái huyền ảo và linh hồn của rượu. Nghe mà chợt cám cảnh cho thi sĩ.
Hằng bao năm ông vẫn dùng bữa đực bữa cái cái thứ rượu ngang cất bằng sắn bằng ngô trắng ởn cay nống đặc xịt vị độc anđêhyt). Người vợ mới của tướng quân, bà Hằng Huân em vợ nhà văn Vũ Ngọc Phan cũng một tay ông mai mối. Ông thở dài khi kể cái đoạn ông từng đùng đùng bỏ cuộc cà phê mà tướng Nguyễn Sơn mời bạn bè về nhà riêng cũng chỉ tại cái riđô hoa cà chăng ngang gian khách với buồng ngủ mà ông thấy chướng mắt anh là đồ tiểu tư sản. Chủ nhiệm tờ báo Vệ quốc Hữu Loan của Sư 304 đã độp thẳng vào mặt ông tướng như vậy! Kèm theo một cái thở dài nữa khi ông bộc bạch tiếc rằng mình hơi kém duyên không được ở lâu với con người ấy và người ấy cũng không được bén duyên bằng hữu với anh em. Cái thở dài sau cùng là nhớ tiếc một tài danh, một tính cách nhưng mệnh yểu. Tưởng bao thứ vất vưởng buồn khổ lẫn nhố nhăng khiến mạch nhớ của ông đứt đoạn nhưng vẫn ào ào tuôn chảy hào sảng khi ông mồn một những câu trong một tráng ca khóc tướng Nguyễn Sơn năm 1956: … "đám tang đi/ không bao giờ đến huyệt/ Nguyễn Sơn như một con tàu khổng lồ/ mang giông tố đại dương/ đi đến đâu không cho sóng ngủ...".

(còn nữa)
____________________________________________

Thi sĩ Hữu Loan, trung chuyển tính cách Thanh với kẻ sĩ Bắc Hà?

Xuân Ba
(tiếp)

Lâu rồi, tôi nghe câu được câu chăng cái đoạn đêm trước khi ông bỏ tờ Văn Nghệ rời Hà thành về núi Vân Hoàn ở hẳn. Chưa tiện biên trích ra đây những gì ông và nhạc sĩ Văn Cao đã trao đổi với nhau gần như suốt đêm cứ loanh quanh bên hồ Thiền Quang. Hồi ấy ông chưa biết có một Nguyên Hồng đột ngột cứng cỏi ngang ngạnh rằng tao đ. chơi với chúng mày nữa khi chất nồi niêu thúng mủng từ biệt Thủ đô mà về ấp Cầu Đen ở Bắc Giang. Nếu có biết ông cũng chả học theo kiểu Nguyên Hồng nhưng hai người có lẽ gặp nhau ở cái sự tiết tháo không chịu được nhục? Tôi không mấy tin duyên do chính là cái cớ người ta dè bỉu "Màu tím hoa sim" là tạch tạch sè tiểu tư sản mềm yếu ủy mị xúc phạm đến tình yêu của ông với người vợ cũ Đỗ Thị Ninh khiến ông nổi xung lên. Mà phải là cái gì kia, không ghê gớm lắm như ông nói chỉ là cái thói gian dối trong đám quan chức lẫn văn bút mà ông rất chi là dị ứng!
Câu chuyện một chiều muộn ngả sang cái đoạn ông đi đánh đá ven chân núi Vân Hoàn bán gạo để nuôi một đàn con lít nhít mà đâu có yên để hành cái nghề thổ mộc nặng nhọc khốn khổ ấy. Vẫn có người theo dõi cật vấn ông. Cả những lý do nhố nhăng thi thoảng lại hạch hỏi giấy tờ. Như người ta nhịn đi cho yên nhưng có mấy lần ông cự lại. Mà không cự bằng lời bằng miệng mới rách việc. Với nắm đấm gân guốc của người quen tay với việc thổ mộc, ông tương thẳng vào mặt bọn hàm hồ. Kết cục ông bị chúng đánh cho tơi tả, đêm về nằm ổ rơm cho bà vợ nước mắt lã chã bóp lá cúc tần.
Có một ông chức quan cũng kha khá ở Hà Nội là chỗ quen biết chúng với mấy anh em không hề can dự vào việc viết lách nhưng một lần cứ đòi theo đám chúng tôi ghé ông. Hỏi lý do thì ông cười, các ông xem cụ Hữu Loan có để lại nhiều tác phẩm lắm đâu. Tất nhiên có những văn nhân người đời nắc nỏm danh lưu hậu thế chỉ một bài, một cuốn sách... Nhưng cụ Hữu Loan tôi phục nhất là cái tiết tháo. Mà thứ ấy bây giờ kiếm được, lùng được khó lắm. Tôi biết cụ dị ứng với các loại quan chức. Có vào các ông cũng đừng giới thiệu kẻo cụ đuổi ra. Bữa ấy, nhân chén rượu trắng, hăng lên tôi cứ giới thiệu bừa nhưng thi sĩ chả đuổi mà còn mời rượu nữa...
Bặt đi một thời gian dài, tôi không được hầu chuyện ông cũng là có duyên do cả. Cùng quê Nga Sơn với thi sĩ là nhóm thơ nhóm viết những anh Đỗ Xuân Thanh, Lã Hoan, Trịnh Thanh Sơn mà thi sĩ rất quý. Riêng nhà thơ Trịnh Thanh Sơn có khí chất cũng tờ tợ như nhà thơ Hữu Loan. Tôi thi thoảng được hầu cũng là đi ké với các anh như thế. Oái oăm cái nỗi cả ba anh, mỗi người lần lượt theo nhau mà đi vì bạo bệnh. Được hầu chuyện ông là cái vui, là cái may nhưng nhõn một mình như thế thấy chống chếnh thế nào. Năm ngoái có hai cuộc chống chếnh như thế... Trong đó có cuộc đưa anh bạn làm phim ở phía Nam ra... Khi ấy sức khỏe thi sĩ còn khá nhúc nhắc đi lại được.
Điều ưng ý với cả nhóm có lẽ là chứng kiến cảnh cô cháu nội học lớp 9 của nhà thơ cùng thi sĩ song đọc với nhau bài thơ Hoa Lúa mà ông nói hồi ấy viết tặng bà vợ bây giờ. Bà vợ mà những năm khốn khó quang gánh tất tả làm trộm bánh cuốn bánh đa bán dấm dúi ở các chợ, phụ giúp với việc đánh đá của chồng nuôi 10 đứa con nay tất thảy đều phương trưởng những dâu rể và hơn 40 đứa cháu nội ngoại.
Người ta nói tính cách vùng miền họp nên thứ quốc tính của dân tộc. Chả biết nữa, nhưng có lẽ tính cách xứ Thanh, dẫu thế này thế khác cũng đã can dự vào việc neo giữ sự ấm êm của mái nhà này qua bao phen tao loạn tưởng như tan tác?
Bửng tưng sáng nay, nghe đài thông báo cái tin "Màu tím hoa sim" đã về trời bỗng giật thột tưởng như sắc cước mái tóc bồng bềnh của thi sĩ Hữu Loan đang rung rung bên mái đầu xanh cháu nội khi hai ông cháu hòa giọng cùng Hoa Lúa: Ta đi/ đầu sát bên đầu/ Mắt em/ thăm thẳm/ đựng/ mầu trời quê. Chao ôi, thiếu chi những loài hoa, giống hoa mà là hoa lúa? Chỉ có giống thi sĩ lẫn... tính cách Thanh mới có lúc mềm đi như thế!

__________________________________________