Thứ Sáu, 25 tháng 2, 2011

Dấu ấn hậu hiện đại

Lê Biên Thùy - Bùi Thanh Truyền

Châm biếm, mỉa mai, trào lộng, hài hước là những nhân tố tạo nên sắc thái giễu nhại trong truyện ngắn của Hồ Anh Thái. Hầu như toàn bộ kinh nghiệm cọ xát của nhà văn với ngôn ngữ đời sống thực tế đều được huy động: lối nói nhại, nói lái, tiếng lóng… thường xuyên hiện diện với tất cả nồng độ bụi bặm phố phường. Sức phê phán của chúng vừa có tính phủ định, công phá mạnh mẽ đối với cái xấu xa, lỗi thời vừa có ý nghĩa khẳng định, xây mới.
Cho đến nay, sau rất nhiều tranh cãi, thậm chí ngờ vực, hậu hiện đại và những ảnh hưởng của nó đã bước đầu được nhìn nhận trong đời sống xã hội Việt Nam nói chung, văn học nói riêng. Với nỗ lực hoàn thiện và phát triển, văn học đương đại, đặc biệt giai đoạn từ 1986 đến nay, đã chuyển mình mạnh mẽ để tham gia vào diễn trình hiện đại và hậu hiện đại của văn học thế giới với những gương mặt tiêu biểu, trong đó có Hồ Anh Thái. Từ khi là một cây bút trẻ, rất nhạy cảm với môi trường công nghiệp hiện đại, tác giả này đã lựa chọn cho mình một phương thức thể hiện rất riêng. Chính sự kết hợp hài hòa giữa cái phương Tây mới lạ và nét phương Đông thuần hậu đã ươm mầm cho cách cảm, cách nghĩ, cách chiêm nghiệm về “cõi người”, “cõi đời” với tất cả sự vô nghĩa và phi lý trong những trang viết sắc sảo của ông. Đứng trước vòng xoáy ghê gớm của đồng tiền, của những bi hài thời kinh tế thị trường, bằng trực cảm và trí tuệ sắc sảo, nhà văn nhận ra con người không còn là chính mình, họ hoài nghi người khác và cả bản thân cùng những thang giá trị truyền thống. Điểm qua gia tài văn học của Hồ Anh Thái, có thể thấy ông là một trong không nhiều cây bút tạo được thành công trong cuộc chạy tiếp sức qua hai thế kỷ. Với lương tâm nghề nghiệp, trách nhiệm công dân và sự bén nhạy, mới mẻ trong lối viết, tác giả đã mang vào tác phẩm của mình cái nhìn toàn diện cùng những đánh giá sâu sắc về những vấn đề nổi cộm trong xã hội cũng như những vỉa sâu tâm hồn đang dậy sóng của con người. Đọc hai tập truyện ngắn Tự sự 265 ngày(1), Sắp đặt và diễn(2), chúng ta như bước vào một thế giới với muôn ngàn mảnh ghép chằng chịt của cuộc sống mang đậm dấu ấn hậu hiện đại - những dị dạng, méo mó, những quái trạng, lệch lạc, sự nghi ngờ và cả những hoang mang trước cuộc sống. Trong bài viết này, chúng tôi chú trọng tìm hiểu những biểu hiện của văn học hậu hiện đại trong truyện ngắn của nhà văn trên một số phương diện chính: hệ thống đề tài, nhân vật và ngôn từ nghệ thuật.

1. Đề tài - sự âu lo và dự cảm

Trên con đường kiếm tìm và phản ánh hiện thực, đề tài trong các tác phẩm đương đại thường ghi đậm dấu ấn về sự khủng hoảng niềm tin của con người trong bối cảnh đổ vỡ các thang bậc giá trị, sự hỗn loạn của trật tự thường hằng. Những tình huống bi hài, nghịch dị trở nên phổ biến. Cái đẹp, cái thiện dần vắng bóng, thay vào đó là cái xấu, cái ác, cái thô kệch… Cán cân thăng bằng giữa các cực xấu - tốt, hài hòa - kệch cỡm, thiên thần - ác quỷ… bị phá vỡ trong xã hội hậu công nghiệp, dẫn đến sự bời rối không chỉ trong đời sống vật chất mà còn kéo theo cả niềm tin, lẽ sống, lý tưởng. Không phải là sự phó mặc, nhưng có lẽ Hồ Anh Thái cũng như không ít nhà văn đương đại khác đều tin rằng cuộc sống vốn không thể khác một khi đồng tiền, địa vị, sự xấu xa, độc ác vẫn đang hiện hữu và bành trướng, làm tha hóa con người, đưa họ xa rời những giá trị đạo đức tốt đẹp, khiến cuộc sống bị cuốn vào vòng xoáy của quy luật mạnh được yếu thua.
31 truyện ngắn trong hai tập truyện Sắp đặt và diễn, Tự sự 265 ngày là 31 mảnh vỡ chắp nối thành cuộc sống với nhiều đường vân dị hình, nhếch nhác, thể hiện tinh vi nỗi hoang mang, ngắc ngoải, đánh mất phương hướng, bản ngã của con người khi đứng trước xã hội lộn xộn, bất an. Thật khó có thể tin được trong bộ máy công quyền lại tồn tại một hệ thống công chức sai lệch giữa học vị và việc làm đến thế: giáo sư văn lại là chuyên gia phân tích xác ướp người, giáo sư sử làm nghề “nghiên cứu viết sách giảng dạy lịch sử nước Mỹ và lịch sử Ai Cập là những nơi ông chưa bao giờ đặt chân tới. Thứ ngôn ngữ tệ hại của vùng đất ấy ông cũng không sử dụng được”. Với điểm đến là Phòng khách, Hồ Anh Thái đã miêu tả sự nhếch nhác, lộn xộn, nhố nhăng của những vị mũ cao áo dài. Họ tìm mọi thủ đoạn để tồn tại, thăng tiến, giẫm đạp lên nhau hòng đạt mục đích. Hiện thực hỗn loạn, trớ trêu, bê tha, con người đánh mất niềm tin vào cuộc sống và vào tất cả được bày ra trần trụi: “Cái nôi văn minh của loài người đã gửi sang châu âu rặt những kẻ mắt một mí đưa đẩy, gian xảo, ngứa ngáy tắt mắt giữa choáng váng đèn màu châu Âu”.
Không dừng lại ở đó, truyện ngắn Hồ Anh Thái còn miêu tả lối sống nhỏ nhen, ích kỷ, tàn nhẫn, thói vô lương tâm của con người hiện đại mà đa số họ thuộc đẳng cấp danh giá trong xã hội. Đố kỵ cả từ sở thích riêng tư, vặt vãnh như “sưu tập chim trong lồng” (Chim anh chim em). Hậu quả là, khi Diệu sở hữu con yểng hót được bài My heart will go on thì ông Thiển, vì quá uất hận, đã biến thành một “con chim” lớn rơi từ cửa sổ tầng năm xuống. Trong Sân bay, Tờ khai visa, những soi mói, ghen tị của những người gọi nhau đồng nghiệp, chung một công sở được tái hiện sống động, đầy tính chất u-mua đen (black humour). Ở đó, người ta nghĩ ra trăm phương nghìn kế, dùng mọi thủ đoạn, âm mưu để đạt được mục đích tiến thân: thằng phụ hồ, do được nâng đỡ, bỗng chốc trở thành nghiên cứu viên một viện danh giá, nhưng trí lực hắn vẫn mãi dừng lại ở thời điểm của một tên ma cà bông mười bảy tuổi; một gã bảo vệ, vì đặt trộm máy quay trong phòng ông viện phó, mà vừa được xem phim con heo miễn phí, vừa có “vũ khí” để tiến thân; thằng nhân tình của cô viện sĩ trẻ vô học, đi lên nhờ thói côn đồ… Con người đã phải trả giá cho những thói tật nhỏ nhen, thảm hại của mình. Cái chết của Mai trong Bóng ma trên hành lang, của ông Thiển trong Chim anh chim em là những minh chứng. Không thảng thốt cũng chẳng giật mình trước những quái trạng của hiện tồn, Hồ Anh Thái chỉ thấy nhói đau như vừa đánh mất cái gì quan trọng. Phải chăng đó là sự âu lo trong dự cảm những giá trị chân – thiện – mỹ truyền thống đã và sẽ tiếp tục bị bóp méo, thậm chí hủy diệt?

2. Nhân vật – rất nhiều điều “không”

Truyện ngắn của Hồ Anh Thái, như đã khái lược ở phần đề tài, thường tập trung xoáy sâu vào câu chuyện về một thế giới vô nghĩa, vô hồn, phi lý tương ứng với nó là hệ thống những nhân vật nghịch dị, quái đản. Nhà văn có biệt tài trong việc sử dụng các chất liệu dân gian để xây dựng nhân vật với tất cả sự dung tục, thanh cao, hoang tưởng, những bộ mặt phàm tục tầm thường, thậm chí ti tiện, những trạng thái nhân thế đảo điên, thiếu vắng chuẩn mực giá trị, điểm tựa tinh thần và từ đó cảm thấy vô nghĩa trước cuộc sống.
Thủ pháp dân gian hóa nhân vật được cụ thể hóa ở phương thức đặt tên, lai lịch và diện mạo. Người viết thường dựng chân dung con người bằng kỹ xảo làm mờ, làm nhòe, tẩy trắng tính cách hệt như trong truyện cổ. Nhân vật được tái hiện khá giản đơn, mang tính chất phiếm chỉ rất rõ. Qua khảo sát 31 truyện ngắn của tác giả, chúng tôi thấy, 21 truyện nhân vật không có tên, chiếm 68%. Trong 10 truyện còn lại, bên cạnh số ít nhân vật được nhận mặt đặt tên vẫn hiện hữu một số lượng lớn nhân vật chức năng, được nhà văn đưa vào như những thanh công cụ, có tác dụng trợ giúp đắc lực nhằm hiển thị tính đa diện của vấn đề như nhân vật đám đông, nhân vật phân thân. Họ hiện lên như một khối hỗn tạp, xen lẫn thực ảo. Đó là điểm chung của những sáng tác ít nhiều chịu ảnh hưởng từ chủ nghĩa hậu hiện đại: xu hướng nhạt hóa, mờ hóa nhân vật, con người từ sự nỗ lực khẳng định mình như một “nhân vị” đúng nghĩa ở giai đoạn trước giờ trở nên mờ mờ nhân ảnh. Điều này là một tất yếu, bởi nó tạo ra sự hòa kết giữa nhân vật với “hiện thực trương nở” (hyper reality) đương đại: “Cuộc sống hoàn toàn không diễn ra theo kiểu đậm đặc, các sự kiện của một đời người hiếm khi chồng chất, và nói chung, cuộc đời trôi đi vu vơ, bình thản, tẻ nhạt hơn nhiều. Làm gì có số phận nào được mở đầu, phát triển và kết thúc chu đáo như trong văn chương, làm gì có tình thế điển hình, đẩy người ta đến các quyết định vượt tầm nhân thế, làm gì có các trạng thái tâm lý mấp mé bờ vực hay chót vót đỉnh cao, và nhất là làm gì có sự hội tụ đầy run rủi của các nhân vật, nhân vật nào cũng đại diện cho một cái gì như vậy. Độc giả chân thành của chúng ta cứ thế mà chờ đợi” (Phạm Thị Hoài - Một truyện cổ điển).
Cố ý xóa bỏ dấu hiệu nhận biết trong tái tạo hình tượng nhân vật cũng là đặc điểm nổi bật trong thi pháp truyện ngắn của nhà văn này. Tác phẩm của ông thường gây ấn tượng bởi những cái tên không ra tên. Nhan nhản trong truyện ngắn Hồ Anh Thái là hàng trăm nhân vật không tên, không tuổi, không nguồn cội. Tác giả làm “giấy khai sinh” cho họ bằng nhiều hình thức: gắn với nghề nghiệp, địa vị, chức tước: ông giám đốc, võ sư, ông sử, bà viện phó, gã chuyên viên, ông viện trưởng, chị nhà văn, ông Việt kiều, chàng thư ký tòa soạn, ông tổng biên tập, họa sĩ… Vật chất hóa tên gọi con người: “Người yêu được trả chín triệu. Hai cô bạn, một cô ba triệu, một cô hai triệu. Cả ba cô sẽ trở thành những diễn viên nổi tiếng. Ta chẳng nên gọi tên thật của họ làm gì. Cứ đơn giản gọi họ là Chín Triệu, Ba Triệu, Hai Triệu, mặc dù dùng tiền nong để đặt tên nhân vật đâu có gì hay” (Chín Triệu, Ba Triệu, Hai Triệu và Bóng Rổ). Nhân vật đôi lúc chỉ được xác định bằng hành động, dáng dấp, thói quen, dung mạo: thằng Rú, thằng Phập, thằng Bạo, Cá Sấu 1, Cá Sấu 2… Cách số hóa, ký hiệu hóa nhân vật cũng thường xuyên xuất hiện: ông Số Một, bà Số Hai, cô Số Ba, Số Bốn (Tờ khai Visa), cô Nhất, cô Nhị, cô Tam, cô Tứ (Bến Ôsin), ông A, bà B, chú C (Lọt sàng xuống nia), Trạng 1, Trạng 2, Trạng 3, Trạng 4, Trạng 5 (Tin thật lòng)… Bằng những cách ấy, các nhân vật bị xóa nhòe lai lịch. Họ xuất hiện đột ngột, không xuất xứ, hệt như bị vô tình ném ra giữa cuộc đời - những thân phận vô danh trong vòng quay bất tận của cuộc sống. Cách định danh như thế làm cho con người có nguy cơ bị hủy hoại, thủ tiêu bản sắc cá nhân, đánh mất quan hệ với đồng loại – nhân tố cốt lõi làm nên chân giá trị của mỗi cá thể như quan niệm về thế giới và con người của văn chương truyền thống. Với thủ pháp này, người viết buộc người đọc tiếp xúc với hình tượng bằng điểm nhìn từ phía bên ngoài. Nhân vật dường như chỉ là cái bóng của hiện thực, là những khuôn mặt tượng trưng cho một loại người trong xã hội: vô lương tâm, vô tình, bàng quan, vật dục, lố bịch, hợm hĩnh… Ở họ luôn tiềm tàng nỗi cô đơn, lạc loài, tâm trạng hoài nghi trước cuộc sống, mất khả năng giao tiếp, khó hòa hợp với thế giới xung quanh.
Vô nghĩa và trống rỗng - những trạng thái tâm hồn thường thấy ở văn học hậu hiện đại – cũng được thể hiện khá rõ qua các nhân vật mang đậm tính nghịch dị (grotesque) trong truyện ngắn Hồ Anh Thái. Nhân vật không có chiều dài vật chất, thực thể mà chỉ giống như những giọng nói, những hình dung, những biểu tượng, là những đối tượng siêu thực, ít có khả năng hiện hữu và hành động không thể nắm bắt, không thể giải thích bằng lý trí thông thường. Ông Thiển trong Chim anh chim em có những hành vi lập dị, thậm chí quái đản với ham muốn thủ dâm tư tưởng: “Trong tưởng tượng, ông lưỡi vờn răng ước ao vờn vã sấp ngửa với đám đàn bà, con gái trong phòng. Ông mơ ông ngủ với suốt lượt, từ bà phó tiến sĩ mua bằng trong nước sắp về hưu đến cô sinh viên Tổng hợp năm cuối đang thực tập. Từ cô đánh máy bàn tay búp măng đến cô tạp vụ thay giấy vệ sinh trong toilet cũng tay búp măng. Cơm nguội cơm sốt, hạt mảy hạt tấm ông xơi hết”. Tác giả đã chú ý bơm phồng một vài nét hiện thực, biến nó thành một tồn tại bất bình thường, một sự lộ liễu quá mức hình dung sẵn có về đối tượng. Chính từ những nhân vật nghịch dị này, nhà văn đưa chúng ta vào những phạm vi hoạt động xã hội cũng đầy những quái trạng. Các tình huống đó tạo ra những ấn tượng mạnh mẽ về một đời sống lệch chuẩn, thậm chí mất chuẩn: những chân giá trị và ngụy giá trị xâm thực, chồng chéo, che phủ lẫn nhau, người ta không có cách nào phân biệt rạch ròi. Thường kết thúc bằng những sự thật trớ trêu, ê chề, truyện ngắn của Hồ Anh Thái, do vậy, thấm đẫm tâm trạng hoài nghi tồn tại. Điều này đã đưa sáng tác của tác giả xích lại gần với quan niệm hiện sinh - hậu hiện đại.
Từ phương thức khắc chạm hệ thống hình tượng nhân vật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái, có thể nói, trên hành trình tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống, sự vong thân, vong bản của con người thời kim tiền, kỹ trị là nỗi ám ảnh lớn nhất đối với nghệ sĩ này. Những yếu tố hoang đường, phi lý giúp cho trí tưởng tượng của nhà văn và của người đọc chắp cánh bay xa. Đây là liều vắc xin hữu hiệu để đặc trị bệnh chai sạn của tâm hồn con người trong sự phát triển, đổi thay chóng mặt của đời sống đương đại đồng thời cũng đặt ra những câu hỏi lớn về ý nghĩa thật sự của tồn tại, của thang bậc giá trị xã hội, nhân sinh.

3. Ngôn từ nghệ thuật – hoàn cảnh hóa và giễu nhại

Ý thức nổi loạn, tung phá, không chịu đóng gông vào một chuẩn mực nào của ngôn ngữ đã trở thành lực đẩy giúp Hồ Anh Thái tái tạo những hình tượng nghệ thuật mà không phải mọi công chúng đều có thể đọc, hiểu và đồng cảm, nhất là đối với “những ai quen đóng chặt cửa, những ai chưa quen gió máy, hoặc ít được thấy những vùng không gian thoáng đãng”(3) thì càng dễ dị ứng. Ở tác giả này, văn bản nghệ thuật trở thành một mê trận ngôn từ với những đường gấp khúc, dích dắc không thể dễ dàng tìm ra mắt xích khởi nguyên.
Thường gặp nhất trong kỹ thuật dụng ngôn của nhà văn là cách thức hoàn cảnh hóa ngôn ngữ văn học. Những sinh ngữ được tác giả khai thác theo chiều kích mới không còn tuân theo chuẩn từ điển mà gắn chặt với bối cảnh sinh ra chúng; một khi tách khỏi ngữ cảnh, chúng trở nên vô nghĩa và không thể giải thích. Đứng trước thực trạng xã hội bị khoa học hóa, công nghệ hóa, vi tính hóa, nhu cầu đối thoại trực tiếp dường như giảm sút đến mức tối thiểu, con người giao tiếp với nhau thông qua những máy móc trung gian. Đó là cơ sở hình thành một “hố thẳm” ngày càng nới rộng chiều kích giữa các cá thể trong cộng đồng – một thứ a xít có nguy cơ hủy hoại cuộc sống tinh thần của con người. Trong Nham!, tác giả đã cho thấy sự hiện diện của ngôn ngữ mạng đã phần nào thủ tiêu vẻ đẹp, sự trong sáng của tiếng Việt và cũng thiêu trụi bản chất của sự thật sau những con chữ vô âm sắc, vô tình điệu: “Lao Viet Nam nhan tin bang dien thoai di dong, dai loai: anh dai loan oi, anh ra cho lon mua buoi cho em an, an xong roi mang xe deo em cho vui nhe”; “Noi that voi em, tieng Viet khong co dau chi con la cai xac khong hon. That bat tien! Thu tieng giau va dep ay gan nhu bi sat thuong khi dem viet ra khong co danh dau nhu the nay”. Từ bề sâu con chữ vang vọng lời cảnh tỉnh khẩn thiết của người viết: Ngôn ngữ - kết tinh văn hóa cao nhất của loài người, niềm tự hào của mỗi dân tộc – đang đứng trước nguy cơ bị hủy diệt bởi mặt trái của sự phát triển khoa học kỹ thuật.
Cũng như văn chương hậu hiện đại, trong truyện ngắn của mình, Hồ Anh Thái không hề che giấu khát vọng tạo sinh một trật tự ngôn ngữ mới, trong đó tất cả mọi trò chơi ngôn ngữ, kể cả ngộ luận (paralogie), đều có quyền hiện diện. Điều này thể hiện rõ nhất ở hệ thống các thuật ngữ thời hiện đại được nhà văn khai thác và đưa vào tác phẩm: “nát một đời hoa”, “lụn ba đời chuối”, “gã tráng men”, “gã ăn ốc đổ vỏ”, “lực điền tối dạ”, “học giả yếu tim”, “ám mùi hệ tiêu hóa”, “mốt đảo ngói”,... Cách thức sử dụng ngôn ngữ lệch chuẩn theo kiểu tính từ giữ vai trò của động từ, danh từ riêng lại đảm nhận vị thế tính từ, động từ cũng xuất hiện với tần số cao: “Bảo với chúng nó nhá, chúng nó cặp nhiệt độ nhau thì phải kiếm chỗ cho bất khuất, đừng có Nghĩa Lộ quá trước mắt bà, bà Lũng Cú lên, bà thịt băm cho mấy nhát thì anh ả đứt phựt dây đàn” (Trại cá sấu); “Anh không thích bạo liệt và gạo cội thì cứ dịu dàng xe chỉ luồn kim” (Vẫn tin vào chuyện thần tiên),… Những hình thức ngôn ngữ này mang đầy đủ tính chất của một xã hội thô nhám, bề bộn. Phần lớn ngôn từ truyện ngắn Hồ Anh Thái tồn tại ở dạng song kết và chuyển hóa linh hoạt giữa hai dạng nói và viết. Hệ thống ngôn ngữ chuẩn mực không còn phát huy tác dụng tuyệt đối mà xen lẫn vào đó là ngôn ngữ thông tục, suồng sã, những biệt ngữ của thời kinh tế thị trường… Điều này góp phần hé lộ sự bất đồng, đứt gãy, thậm chí khủng hoảng của ngôn ngữ trước thực tại.
Hình thức giễu nhại - một trong những đặc trưng nổi bật của phong cách sáng tác hậu hiện đại - đang càng ngày càng phổ biến trong đời sống văn học Việt Nam thời đổi mới. Lắng nghe kỹ, người đọc sẽ thấy, mỗi truyện ngắn của Hồ Anh Thái đều ít nhiều vang lên âm giọng này. Bằng cách ấy, nhà văn công khai bày tỏ thái độ của mình đối với sự rối ren, phi lý, bất công trong cuộc sống. Phát hiện rất nhanh nhạy cái lố bịch trong thực tại, tác giả đã khai thác đến cùng phương diện gây cười của chúng để đưa vào tuyến vận động của cốt truyện. Châm biếm, mỉa mai, trào lộng, hài hước là những nhân tố tạo nên sắc thái giễu nhại trong truyện ngắn của ông. Hầu như toàn bộ kinh nghiệm cọ xát của nhà văn với ngôn ngữ đời sống thực tế đều được huy động: lối nói nhại, nói lái, tiếng lóng… thường xuyên hiện diện với tất cả nồng độ bụi bặm phố phường. Sức phê phán của chúng vừa có tính phủ định, công phá mạnh mẽ đối với cái xấu xa, lỗi thời vừa có ý nghĩa khẳng định, xây mới. Dám nhìn thẳng vào những cái - hài - đời với đầy những trật khớp, vênh lệch của cuộc sống thời tiền và hậu đổi mới rồi thể hiện nó bằng một thứ ngôn ngữ tương xứng để tự cười và chọc cười thiên hạ là một sự dũng cảm, một hướng đi gập ghềnh nhưng hữu dụng, cấp thiết; và chính phương diện này đã bộc lộ rõ sở trường, phong cách độc đáo và tạo ra cái gọi là “cảm quan hậu hiện đại” trong tác phẩm của ông.
Ngôn ngữ dung tục xuất hiện như là sự “nhại” đến tận cùng ngôn ngữ đời sống. Dạng thức này thường gắn liền với việc tố cáo, đả kích, phủ định thói hư tật xấu của thế thái nhân tình giữa thời buổi những thang bậc giá trị đang thay đổi. Đó là những dục vọng vô độ trong sự đồng lõa của môi trường văn hóa xuống cấp, thói học đòi, khoe mẽ: giáo sư viết lịch sử nước Mỹ thì chưa tới Mỹ một lần, ngoại ngữ cũng mù tịt, lại còn mắc căn bệnh ăn cắp vặt: “Cái ly pha lê theo ông giáo sư về làm con nuôi. Bộ ly tan đàn chỉ còn năm” (Phòng khách); những thói rởm đời của giới văn nghệ sĩ: “Ca sĩ lạm dụng luyến láy, hát một nốt thành bảy nốt, hát theo lối rất mất vệ sinh môi trường Anh Trương Chi anh đừng đi anh đừng đi í ì…ị” (Trại cá sấu); “Nàng đi tắt qua thơ ca nước ngoài, dịch thơ Pháp thành lục bát không vần, thơ lãng mạn bị dịch thành câu Giấc mộng kê vàng sùng sục đồng quê… Thơ dịch gì mà miêu tả cảnh đau bụng đi đồng ban đêm. Đấy thôi, những là sôi sùng sục, những là vàng khè, những là gió đồng nổi lên” (Lọt sàng xuống nia). Sự giễu nhại tìm đến tận cùng những cái phi lý, vô nghĩa, ngớ ngẩn của hiện thực xã hội. Văn bản tác phẩm, vì thế, dường như được tạo nên nhờ những chồng xếp, ghép nối của những cái vụn vỡ thật – giả, chỗ nào cũng có thể bắt gặp hiện tượng đứt mạch, gãy mạch của lôgic ngữ nghĩa, kết cấu truyện hóa thành kết cấu của tùy bút, tản văn.
Thiên về tạo hình và tạo động tính, ngôn ngữ truyện ngắn Hồ Anh Thái có sức nặng bởi lối miêu tả bạo liệt về cái phi lý tồn tại trong cuộc sống, lộ rõ dục tính tầm thường của con người: “Đấy, chính là gã. To cao, mặt to, chân tay to. Một thứ trẻ con tồ tồ tẹt tẹt, lớn xác 1 mét 82 nhưng đầu óc vĩnh viễn là của một thằng phụ hồ mất dạy mười bảy tuổi” và “gã nổi danh hơn ở viện khi tự rêu rao mình là một con đực hoàn hảo… Gã bô bô cả trăm phần trăm chị em viện sĩ đã qua tay gã. Cô nào đanh đá cong cớn chống nạnh chửi gã làm mất danh dự, gã xông tới tát luôn” (Sân bay). Lối sống giả dối kiểu “rắn giả lươn” cũng được người viết dùng sức mạnh của trò diễn ngôn từ phanh phui: “Đám viện sĩ hàn lâm có mặt vợ xuýt xoa khen chuyện chồng, có mặt chồng tấm tắc đề cao vợ. Không có cả vợ cả chồng, quay ngoắt, chỉ thương cho thằng ấy sống với con trăm thằng ấy mà mù dở, sờ sờ trước mắt chả trông thấy gì” (Sân bay). Để thúc đẩy sự vận động liền mạch của diễn ngôn, đôi lúc Hồ Anh Thái cũng không ngần ngại “lắp ghép” và thổi hồn cho ngôn ngữ dân gian hiện đại: “càng già càng dẻo càng dai, bế cháu kêu nặng cõng trai trèo tường”, “đào mỏ sẽ chết vì sập hầm”, “trẻ không xông pha già ân hận”… Việc làm ấy cũng như một chất phụ gia, một sự kích thích để chạm khắc thực trạng xô bồ của xã hội, những bấp bênh, vô thường của đời sống, sự hồ nghi tồn tại - những loại hình tâm trạng làm nên cảm quan của thời đại mới.
Giọng giễu nhại, bỡn cợt vì thế trở thành yếu tố thẩm mỹ nổi bật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái, thành phương tiện mổ xẻ những ung nhọt, quái trạng của xã hội. Từ cuộc sống thường nhật của giới công chức, giới khoa học, đến lối sống buông thả của lớp văn nghệ sĩ... tất cả đều bị tác giả lật tẩy qua chất giọng “tưng tửng” đặc biệt này. Các câu chuyện đều được kể lại từ ngôi thứ ba số ít với sắc thái hoài nghi, tra vấn trong điểm nhìn nghệ thuật. Với lối trần thuật hỗn độn, diễn ngôn đứt đoạn cùng thủ pháp cắt mảnh hiện thực, lắp ghép ngôn từ, Hồ Anh Thái đã tái hiện một thế giới đánh mất ý nghĩa và trật tự. Phá vỡ những gì đang bền vững như một xác tín trong nhận thức, tâm cảm con người hiện đại, người viết, bằng thuật phù phép câu chữ, đã dựng lên một thế giới đa phương, nhiều chiều trong một bầu không khí bất tín đầy ma thuật. Tính trào lộng, suồng sã hết nước các sự kiện, các chi tiết được kể lại trong truyện là một cách tiếp xúc với thế giới không hoàn kết hôm nay.
* *
*
Những gì trình bày ở trên cho thấy rõ sự thể hiện cũng như hiệu ứng thẩm mỹ của hậu hiện đại trong truyện ngắn Hồ Anh Thái. Thể hiện rõ nhất của nhận định này, theo chúng tôi, là “tham vọng thực hiện được ước mơ bao đời của các nhà văn: kết hợp được tính bình dân, dân chủ với tính tinh tuyển, “bác học” của văn chương”(4). Cùng với tiểu thuyết, mảng truyện ngắn cũng đã bộc lộ khá thường trực ý thức, nỗ lực tái tạo hiện thực dưới góc nhìn mới, khác lạ, lệch dòng truyền thống ở nhà văn luôn trăn trở với sự tồn sinh của nhân thế, khôn nguôi tìm kiếm câu trả lời cho bài toán hóc búa về sự hòa giải giữa quá khứ truyền thống, ổn định và hiện tại hiện đại, không ngừng biến chuyển.
Trên tinh thần đó, không quá võ đoán khi cho rằng, Hồ Anh Thái là một gương mặt tiêu biểu đã góp công cho sự tìm tòi, thể nghiệm, tạo dựng một thứ văn học mới có khả năng lật trở, soi chiếu nhiều phương diện của thực tại hôm nay. Nhân vật trong tác phẩm của ông thường ở trong tâm thế phòng thủ trước xã hội và chính bản thân mình, vì thế mà trở nên cô đơn giữa đồng loại, không thể nhận ra giá trị của cuộc sống. Đó là cái chết về tinh thần của con người. Mỗi truyện ngắn của nhà văn, do đó, như một hồi chuông đang dóng diết cảnh tỉnh cho tương lai nhân loại. Với tư cách là một người tiên phong trong việc tận dụng ưu thế của văn học hậu hiện đại để tạo ra sự mới mẻ, đột phá cho văn xuôi Việt Nam đương đại, hiện tượng Hồ Anh Thái và những nhà văn cùng chí hướng với ông cần phải được nhìn nhận trên tinh thần cởi mở, dân chủ; có như vậy mới tạo được sự đồng thuận trong quá trình tiếp biến văn học thế giới để định hướng, điều chỉnh sự vận động, phát triển hợp lý của văn học nước nhà.

_______________________________________________

1. Hồ Anh Thái: Tự sự 265 ngày, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2001.
2. Hồ Anh Thái: Sắp đặt và diễn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005. Các trích dẫn tác phẩm đều từ hai tập truyện ngắn này.
3. Phong Lê: 20 năm sự nghiệp đổi mới và những vấn đề hôm nay của lý luận - phê bình văn học, Nghiên cứu văn học, Số 4 - 2006, trang 29 - 41
4. Đào Tuấn Ảnh: Quan niệm thực tại và con người trong văn học hậu hiện đại, Nghiên cứu văn học, Số 8 - 2005, trang 43 - 59

____________________________________________________________

Thứ Tư, 23 tháng 2, 2011

Nhà văn Lê Anh Hoài - Tay chơi thứ thiệt!

Việt Quỳnh

- Nhà báo, nhà văn, nhà thơ, người quản lý, nghệ sĩ thị giác, chuyên gia gỡ rối tơ lòng... là tất cả những nghề mà Lê Anh Hoài đang làm. Với gã, nghỉ ngơi không có nghĩa trốn vào một khoảng trời vắng vẻ mà ngẫm nghĩ sự đời, chẳng phải đào thoát khỏi phố phường chật chội để lơ đãng với núi cao biển xanh... mà chính là chuyển đổi từ công việc này sang công việc khác.

Trước khi làm báo vào năm 1990, ít ai biết trước đó Lê Anh Hoài từng là nhạc công, chơi guitar trong một ban nhạc sinh viên (có cả Huy MC là thành viên) chuyên phục vụ đám cưới, hội diễn, lễ lạt... Đời nhạc công kéo dài đến 5 năm, với nhiều kỷ niệm đáng nhớ. Như có lần, ban nhạc chơi hai đến ba ngày cho một đám cưới trên Phú Thọ. Vừa làm việc, vừa nhậu, vừa quậy... Sáng hôm sau, khi tiệc cưới tàn, các chàng tỉnh dậy, ngơ ngác thấy cả lũ đang trên giường... tân hôn của cô dâu chú rể trong khi hai nhân vật chính phải kiếm chỗ ngủ ở nơi khác.
Tốt nghiệp Đại học An ninh nhưng Lê Anh Hoài lại theo nghiệp báo. Nơi khởi sự ban đầu của gã là tờ Văn hóa & Nghệ thuật (báo Văn hóa ngày nay) với các bài phóng sự như Tàu ngược phố Lu, kể về những điều chứng kiến trong hành trình từ Hà Nội lên Lào Cai hoặc sự xuống cấp thảm hại của Văn Miếu - Quốc Tử Giám lúc bấy giờ... Khi nhàn tản, song song với viết báo, hứng chí lên, gã làm thơ, viết tản văn (đời trai trẻ đang dư dả cảm xúc) dù biết thừa viết xong cũng để quẳng xó, chả để làm gì!
Năm 1999, gã quyết định để các sáng tác “hạ sơn” bằng cách cho ra đời một tập thơ. Những giấc mơ bên đường (mà có tờ báo thay bằng cái tên hết sức... cách mạng: những giấc mơ lên đường) gồm một loạt các bài theo thể thơ tự do, mà tôi đồ rằng bảo đọc lại, ắt hẳn Lê Anh Hoài không nhớ được trọn vẹn bài nào. Có lẽ gã không đủ tự tin đến thế nếu như nhà thơ/ nhà phê bình Nguyễn Chí Hoan thuyết phục:
- Sao làm ra nhiều thơ thế mà không in?
- Thơ in ra thì ai đọc?
- Sao ông lại nghĩ thế?
Cứ lằng nhằng như vậy mất đứt một năm, Lê Anh Hoài thấy cũng bùi tai và gửi “con cái” cho Nguyễn Chí Hoan chọn lựa, biên tập.
Chuyện tình mùa tạp kỹ, cuốn tiểu thuyết đầu tay sáng tác mất hơn một năm, viết trộm trong giờ làm việc của cơ quan, được in năm 2007 sau hai năm đi từ NXB này đến NXB khác để rồi dừng chân ở NXB Đà Nẵng (mới đây Chuyện tình mùa tạp kỹ được tái bản, cũng sau hai năm lận đận tưởng không xong nổi, “bị” chính tác giả đổi sang cái tên khá thị trường: @ tình). Tập truyện ngắnTẩy sạch vết yêu đồng ra đời luôn vào năm 2010, đóng thêm một cái dấu cho chặng đường 10 năm viết văn của gã.
Gắn “mác” nhà văn (gã là hội viên Hội Nhà văn Hà Nội), thế mà bạn bè chủ yếu lại là dân họa sĩ, cặp kè với nhau khá lâu năm, ngoài chia sẻ công việc, chủ yếu là nhậu nhẹt, tán gẫu. Lê Anh Hoài ham vui, dễ rủ đi chơi tụ bạ, có thể ngồi hàng quà vặt với hội đàn bà con gái vài tiếng đồng hồ, chạm chân đến đâu, gọi gã đến đấy, ngồi chưa ấm chỗ gã có mặt ngay. Ấy thế nhưng, gã chỉ nhiệt tình vậy với bạn quý. Hẳn thế, nên một tay thơ thẩn vừa quen trong festival Huế vừa rồi từ trong Nam “phượt” ra ngoài Bắc tìm đến gã, gã quẳng ngay cho chiếc xe Wave “Thơ chim” - phương tiện lê la thiết thân, sản phẩm từ sân chơi sắp đặt thơ Trẻ, rằm tháng Giêng - mặc tay này lượn cả mấy tuần không thấy mặt, để tành tạch đi con Minsk mù khói.
Cũng từ chơi với bạn họa sĩ, đến năm 2007, gã quyết định “dấn thân” vào làm nghệ thuật đương đại.Tôi là cột điện (performance art) vào tháng 7/2007 là tác phẩm đầu tiên. Chuyện gã mặc quần áo bảo hộ lao động, đầu giờ chiều đứng nghiêm như trời trồng ở góc đường Lê Văn Lương, cho bạn bè lẫn người lạ đi qua dán giấy lộn, áp phích quảng cáo vào người, để trẻ con đái vào chân cũng được bàn tán trên báo, mạng. Gã có vẻ tâm đắc với “màn” ấy lắm, nên trong tay gấp tập truyện ngắn mới ra “lò”, thay vì hình chân dung một anh nhà văn điển trai (gương mặt hiếm hoi sáng láng giữa dân nam văn nhân hiện nay): tóc rủ, đeo khuyên, các nét mặt mũi mồm lẫn da dẻ được photoshop kỹ càng như người ta thường thấy, gã thay bằng cái ảnh chụp thiếu sáng, mặt mày lem nhem, quần áo bẩn thỉu lấy từ chùm ảnh tư liệu bạn bè chụp lại, Tôi là cột điện. Lòng tràn cảm hứng, trong ba năm tiếp theo, gã cho ra liên tiếp: Tiến lên (sắp đặt); Đồng Cu (thực hiện với hai nghệ sĩ khác - một tác phẩm tổng hợp giữa trình diễn, sắp đặt, vẽ trên cơ thể, trên nền chủ đạo là âm nhạc pha trộn giữa hát văn, nhạc vũ trường, nhạc bán cổ điển...); Nhu cầu (sắp đặt); Thời đại công nghệ (trình diễn, body painting). Mới đây nhất, gây dư luận, bên cạnh màn trình diễn Bay lêncủa nghệ sĩ Lại Diệu Hà là hình ảnh anh chàng nhà văn của chúng ta “truổng cời”, đọc sách trong toilet giả, lồ lộ giữa khán phòng không vách che trong tác phẩm Wc.doc (sắp đặt, trình diễn)...
Tạm chưa đánh giá gì ở chất lượng từng tác phẩm Lê Anh Hoài mang đến, nhưng số lượng tác phẩm gã làm chẳng kém cạnh những tay xuất thân từ hội họa được trang bị kiến thức nền về nghệ thuật thị giác, đồng thời khẳng định thêm việc, các anh họa sĩ có thể viết thơ, làm văn, sáng tác nhạc thì tôi - người thuần túy sống và kiếm tiền bằng viết lách - cũng có thể làm nghệ thuật thị giác như ai. Trong làng văn, ngoài cây bút Nhã Thuyên chỉ dám mon men đến “Thánh địa” (hay nghĩa địa?) đó, Lê Anh Hoài là tay chơi thứ thiệt, dám lao thẳng vào với tốc độ lốc xoáy, mọi sản phẩm đều làm tay bo, không buồn xin tài trợ từ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào và danh tiếng gã thu được từ “sự ngơi nghỉ - hoán đổi việc” này lấn át hẳn bản nghề văn chương.
Ôm đồm nhiều nghề nhiều thứ, thế nhưng với Lê Anh Hoài, việc nào ra việc đấy và không dồn cho chúng quá nhiều thời gian. Cũng như trách nhiệm với gia đình, mỗi sáng không quên nhiệm vụ chở con gái đi học, rồi trưa ăn nhoáng nhoàng ở cơ quan, chúi mũi vào công việc viết báo, tổ chức bài vở, liên lạc cộng tác viên, biến thành Mr. Búp Bê giải quyết các rắc rối tâm lý của độc giả trẻ tuổi. Tối mờ mịt, gã mò về nhà với bữa tối trễ tràng. Còn văn chương hay các việc sáng tác khác, là của ban đêm, của buổi sáng sớm.
Sinh năm 1966, làm báo viết văn từ năm 1990, Lê Anh Hoài đi qua trọn vẹn 10 năm vừa làm vừa chơi, vừa để lại dấu ấn riêng cho mình, kể cả khi những thứ gã đã làm lắm khi đầy phù du, phù phiếm. Mà đã là đàn ông, nhất là đàn ông theo con đường nghệ thuật, ai mà chả như vậy...

__________________________________________________

Huyền thoại Man nương

Truyện ngắn của HOÀNG GIÁ

Bên kia sông, làng Mả-Mang, có cụ già trăm tuổi quy tiên, Thầy Khâu-đà-la chèo con thuyền nhỏ vượt dòng sông Dâu sang làm lễ.

Buổi chiều, trời nổi cơn giông. Bầu trời tối sầm, những tia chớp vạch bóng đen nhoáng lên màn nước dày đặc, nhóng nhánh. Cây cối xạc xào reo, người người vui mừng hỉ hả. Trận mưa kéo dài đến hết nửa đêm, cũng là lúc thầy Khâu xong tuần lễ. Thầy đứng dậy cáo từ. Ông trưởng họ sá dài lễ phép:

- Bạch thầy. Đêm đã khuya lại cách trở đò giang, xin thầy ở lại, mai chúng con sẽ rước thầy về sớm.

- Mô phật! Trăng còn sáng. Vả lại hôm nay ngày Phật đản, các sư đều xuống làng, chỉ còn thủ hộ, sợ xảy ra chuyện chẳng lành.

- Thầy đã quyết, chúng con không dám giữ. Từ đây về Giàng phải qua mấy vạt rừng già rất nhiều hổ báo, xin thầy hãy giữ gìn. Rằm này chúng con sẽ lên chùa để tạ ơn thầy đã vất vả gọi mưa. Nếu không có trận mưa chiều nay chắc lúa, dâu sẽ chết khô, trâu, bò, lợn, gà, cả con người cũng không sống nổi vì nắng nóng.

- Mô phật. Đó là Đức Phật tổ nhìn thấu nỗi khổ chúng sinh mà ra tay cứu vớt, chứ bần tăng đâu có tài cán gì.

Thầy đưa tay lên ngực, cúi chào mọi người rồi đưa cây Tầm-xích về phía trước thoăn thoắt đi lại bờ sông.

Trận mưa lau sạch bầu trời, đẩy những vì sao lên cao, thoảng trong không gian mùi thơm tinh khiết. Trăng thượng tuần đang xế về tây, trải lớp tơ vàng lung linh lên mặt lá. Dòng sông lấp lánh dát những vảy vàng.

Đêm nay, dòng sông sao thơ mộng dịu dàng là vậy? Chả bù cho ngày ấy. Thầy Khâu nhớ về buổi chiều cách đây đã bốn năm. Chiều ấy cũng có trận mưa rào sầm sập, nước thượng nguồn ào ạt tràn về, sông Dâu nở ra đẩy đôi bờ mênh mông tít tắp. Mặt nước đục ngầu, lềnh bềnh những thân củi mục, xác cặp nai vàng quẩn quanh lặn ngụp nhấp nhô.

Đám mây đen trút nốt những giọt nước cuối cùng. Phía tây mặt trời đỏ rực hớn hở tung những chùm nắng chói chang xua tan những đám mây lảng bảng, trả lại cho bầu trời vầng xanh vời vợi. Ngọn gió đông nam mát rượi sau trận mưa rào làm thầy quên hết nỗi nhọc mệt sau một ngày hành lễ. Đạp nhẹ lên ngọn cỏ non xanh, thầy thận trọng tránh xa đàn kiến đang hối hả vác khuân, giục nhau leo lên gốc đa già mốc mác. Trong cơn gió thoảng thầy nghe có tiếng thầm thì. Lắng tai nghe, thầy nhận ra tiếng hát. Tiếng hát êm dịu của một cô gái chắc là còn trẻ lắm. Tiếng hát như làm vợi đi nỗi cô đơn, vợi đi nỗi lo toan trên con đường hành đạo. Thầy khoan thai sải những bước dài. Tiếng hát như tiến lại gần. Đã có thể nghe rõ lời ca:

“ Em là con gái vùng Dâu
Cỏ non em cắt dưới bầu trời xanh
Quê em nước ngọt đất lành
Thương nhau chung gốc, chung cành, chung cây.

Thầy bỗng thấy bâng khuâng. Từ khi rời Tây vực thầy đã bôn ba qua đất Mã-lai, Cao-miên; đã lênh đênh trên mấy chục hòn đảo xứ Chà-và; tới những rừng rậm phía nam đầy nắng gió, chưa bao giờ, chưa ở đâu gợi cho thầy nhớ tới quê hương xứ sở da diết như mảnh đất này, như buổi chiều hôm ấy. Thầy nhớ dòng sông Hằng, chiều chiều những con thuyền độc mộc lao vun vút về phía đồng bằng, âm âm lời ca gập ghềnh, đập vào vách đá dãy Hy-mã-lạp-sơn hùng vĩ. Nhớ mẹ già. Nhớ cô hàng xóm đôi mắt dài như lá dương liễu gập đôi. Nhớ tất cả những gì mà tuổi thơ thầy đã qua, đã yêu, đã ghét. Chiều hè rười rượi mát mà lòng dạ thầy bứt rứt bồn chồn. Thầy chợt nghĩ đến một ngày trở lại.

“Xênh xang cắt gánh cỏ đầy
Trả công cha mẹ, chờ ngày xuất gia
Cửa thiền mong được là nhà
Nâu sồng mong được mặn mà tri ân…”

Tiếng hát mang nỗi buồn man mác. Chắc người con gái đang có chuyện ưu phiền, muốn nương thân nơi cửa Phật. Nếu thành tâm kẻ này sẽ là một đệ tử trung thành, sẽ cứu giúp được nhiều chúng sinh qua vòng dâu bể. Bỗng tiếng hát im bặt. Từng đợt sóng ào lên, ứ lại. Thầy thoáng thấy dải tóc phất phơ đen nhánh. Mô Phật! Lại có người bị nước cuốn trôi. Sông rộng mà nước to, sóng lớn quá. Nhưng Phật tổ dạy “Cứu nhất nhân đắc kỳ vạn phúc. Ta không thể sợ thiệt mạng mà để mất một sinh linh. Thầy quăng cây Tầm-xích, lột bỏ áo trùng, lao xuống dòng nước đang sôi ùng ục. Phải nhanh hơn ngọn sóng, nhanh hơn những cái miệng thuồng luồng, những hàm răng cá sấu. Thầy hít một hơi thật sâu, dùng phép “khắc thủy” lao theo dòng nước. Đôi mắt nâu ánh lên sục sạo. Từ xa, thầy nhìn thấy mớ tóc dài quấn lấy thân hình nhỏ nhắn của một cô gái. Thầy lao tới, kẹp chặt cô trong vòng tay rắn chắc, lách qua thân cây đồ sộ đang vun vút lao xuôi. Vất vả lắm thầy mới đưa được cô gái lên bờ. Mặt cô nhợt nhạt, mũi không còn phập phồng, bụng căng đầy nước. Thầy quay nhìn bốn phía. Chỉ có rừng đại ngàn. Bên kia dãy núi ngoằn ngoèo vài ba ngọn khói tan biến trong ánh chiều tà. Tiếng con “bắt cô trói cột” nghe vừa ai oán, vừa khắc khoải, tuyệt vọng. Thầy Khâu đặt bàn tay lên ngực cô. Không còn sức đẩy, sự sống đang khước từ cô gái. Thầy vội đứng lên xách ngược đôi chân trắng nhợt, quăng cả thân hình mềm oặt của cô ra sau, chạy dọc bờ sông. Chiếc váy thâm bị gió thổi tung lên rồi trùng xuống phủ kín cả mặt cô, để lại phần trên ánh lên trong hoàng hôn tím sậm. Ự! Một dòng nước đỏ ựa ra. Có cái gì đó đụng đậy. Thầy dừng lại quay cô gái về phía trước. Mô Phật! Thầy vội nhắm mắt lại. Bàn tay quen cầm chuông mõ lần sờ kéo mảnh váy thâm che kín thân thể cho cô…

Cô ấy là A-man...

Thầy Khâu cười thành tiếng.Tiếng cười đập vào vách núi, ngàn cây ào ạt cười theo. Thầy rùng mình, cảm thấy hoang mang, lạ lẫm. Vung cây Tầm-xích, thầy đi như bay về phía chùa Giàng.

Tới cổng, thầy định lên tiếng gọi, nhưng ngọn gió vô tình đã đẩy cánh cổng kêu cót két. Ồ, A-man lại quên đóng cổng. Nhưng thầy không bực. Thầy ngước nhìn ánh trăng hắt đầu đao tòa Tam-bảo in lên cây thị già vệt tối chập chờn. Giờ đây A-man chắc vẫn chong đèn thức chờ thầy. Đó là thói quen, là sự tận tâm vừa bản tính vừa ghi tạc nghĩa ơn. Thầy rất phiền lòng, nhưng không cách nào thuyết phục. A-man như tiên đồng lãnh trách nhiệm trước đấng tối cao xuống hạ giới chăm sóc cho thầy, giúp thầy mau đắc đạo. Chùa Giàng vì thế mà luôn rực sáng, là chỗ dựa tin cậy cho mọi kiếp người.

Thầy nao nao bước qua khoảng sân lát viên gạch bát sậm màu. Mùi dạ lan hương sực nức không át nổi mùi thơm dìu dịu của những cánh mộc li ti, của đoá ngọc lan trinh bạch. Gần tới tiền đường, mùi trầm toả ra ngào ngạt. Chắc A-man lại mới thay một tuần nhang.

Thong thả, nhấc cao chân, thầy bước vào trong điện. Thầy bỗng giật mình, rụt chân trở lại. Dưới bậu cửa, một cô gái sóng xoài nằm ngủ. Gió nồm nam vén chiếc váy thâm lên ngang đầu gối để lộ bắp chân trắng muốt, săn chắc, thon thả. Thầy cúi xuống. Ồ A-man. Nàng thở đều đều, khuôn mặt tròn trịa quay ra chờ đợi. Trăng gió cợt đùa sổ tung tấm khăn nâu, phết lên đôi môi lớp son đọng sương đêm nhóng nhánh. Mô Phật! Thầy bấm chặt lấy chuỗi tràng hạt, miệng lầm rầm đọc kinh sám hối. Hình ảnh của bốn năm về trước như lũ quỷ sa tăng cứ hiện ra nhảy nhót.

Ngày ấy thầy Khâu không thể ngờ A-man lại chính là cô bé ra đời trong ngôi nhà chênh vênh bên bờ con vực nước trong xanh không bao giờ vơi cạn.

Chuyện về cha mẹ nàng cũng thật lạ kỳ. Tu Định là chàng trai sinh ra trên lưng chừng đỉnh núi, Nghe tin Sỹ Nhiếp mở trường quốc học dạy chữ thánh hiền bèn xuống núi lặn lội tìm về. Gần tới Luy Lâu bị con sông Dâu chắn lối, chàng lần mò vào xóm Mèn tìm nơi ngủ trọ. Đêm đã khuya, mấy chục căn nhà đều đã tắt đèn, gọi cổng không ai dám mở cửa, sợ bọn thảo khấu, bọn lính Hán mò mẫm ăn đêm. Tu Định buồn bã, đi lang thang ra phía bìa rừng. Có ánh đèn le lói. Chàng đi tới. Qua hàng rào gỗ chàng thấy một cô gái rất đẹp ngồi tư lự trước hai pho tượng. Một thoáng chần chừ, chàng quyết định gọi cửa. Nàng là Ưu Di, cha mẹ chẳng ốm đau tự khắc qua đời. Nàng đau khổ lên rừng chọn cây vàng tâm trăm tuổi tạc hình cha mẹ, đêm ngày hương khói phụng thờ.

Sau đêm ấy chàng và nàng nên vợ nên chồng. Họ sống với nhau ấm êm hạnh phúc. Nhưng đã mười năm. Nàng Ưu Di mười lần sung sướng vì sắp được làm mẹ, nhưng cả mười lần cái thai chỉ ba tháng lại phá ra ngoài. Khi thầy Khâu qua đây thấy đằng trước vượng khí ngất trời mà đằng sau lại ngùn ngụt bốc lên những luồng tử khí. Thầy kinh ngạc tới gần, thấy cặp vợ chồng đẹp như Kim Đồng - Ngọc Nữ, huyệt ấn đường, nhân trung rộng mở, phúc lộc dồi dào. Thầy vòng ra phía sau nhà. Đôi mắt nâu của thầy nhìn xoáy xuống cái vực nước xanh ngăn ngắt, nhìn rõ những con ba ba vàng rộm to như vành nón quai thao, những chú cá óng ánh vẩy vàng vây đỏ lượn lờ, hàng đàn tôm hùm tung tăng chạy nhảy. Nhưng sâu dưới đáy là những bóng thuồng luồng, ám khí. Thầy thọc cây Tầm-xích xuống nước, miệng đọc thần chú tức thì mặt nước sôi lên ùng ục. Những con thuồng luồng quằn quại, những miệng hang toang hoác sập đổ. Nước chuyển màu trong vắt. Xong xuôi thầy vào nhà yểm chín đạo bùa, chúc gia chủ bình yên đời đời hưởng lộc.

Một năm sau ông bà Tu Định bế bé gái mũm mĩm, có cặp mắt lung linh đến tạ ơn. Thầy cũng không thể ngờ 12 năm sau cô gái được thầy cứu khỏi dòng lũ sông Dâu lại là cô bé ấy. 12 tuổi, A-man phổng phao như cô gái 18, lời ăn tiếng nói ý tứ ngọt ngào như người đã trưởng thành. Ông bà Tu Định cho đó là duyên phận nên nhất quyết cho A-man theo hầu thầy. Không thể chối từ, thầy đã đưa A-man về chùa Giàng lo việc đèn dầu, dọn dẹp, cơm chay như một người thủ hộ. Người thủ hộ ấy càng lớn càng đẹp, càng ngoan ngoãn thật thà, thuộc làu kinh sử. Nàng đã có cái tâm nhà Phật từ thuở lọt lòng, có chí gửi thân cửa Thiền trong từng câu hát.

Nhưng giờ đây A-man vẫn chắn ngang lối ra vào đang say giấc ngủ. Thầy lấy cây Tầm-xích gõ vào cánh cửa mà Nàng vẫn ngủ ngon. Thầy nhìn lại phía sau khe khẽ thì thào: A-man. A-man. Dậy đi A-man! Nàng vẫn lặng yên. Tuy bối rối nhưng thầy không trách. Suốt ngày quét dọn cả chục gian chùa, lau chùi cả trăm tượng phật, rồi cơm nước, giặt giũ, đọc kinh… A-man không lúc nào rảnh tay, ngả lưng là ngủ say như chết. Chắc nàng đợi thầy quá lâu, mệt quá mà ngủ quên. Thôi hãy để nàng ngủ thêm chút nữa.

Thầy lùi ra mái hiên, đứng ngắm vầng trăng thượng tuần treo trên đỉnh rặng núi phía tây, bất giác thầy quay lại. Bóng thầy đổ xập trùm kín A-man. Mồ hôi nàng toát ra, những thớ thịt rung lên oằn oại. Cảm giác thần tiên chạy khắp cơ thể. Nàng rên lên một tiếng rồi lặng lẽ trở mình. Phút giây ấy qua đi, nàng bừng tỉnh chạy về buồng riêng khép cánh cửa hồi hộp nhìn qua hàng song gỗ. Ánh trăng cười cợt khuất phía Tây thiên.

Lúc ấy thầy Khâu cũng thấy mình bỗng nhiên rạo rực, tim đập liên hồi. Cảm giác tội lỗi lan truyền, toàn thân bủn rủn. May nhờ chuỗi tràng hạt và cây Tầm-xích giúp thầy tĩnh tâm, thấy rõ sự giao hoà giữa thiên nhiên và con người. Thầy cảm thấy mình quá nhỏ bé, thấy mình biến thành những hạt bụi nhỏ bay lơ lửng trong luồng sáng toả ra từ những cánh sen, nơi Phật tổ đang thư thái tọa thiền.

Từ ngày A-man bỏ đi, thầy Khâu không mấy khi rời chùa. Sáng sáng thầy vẫn dậy sớm im lặng luyện công nhưng vẫn nghe rõ đôi chim chào mào trò chuyện, tiếng con nai nháo nhác gọi bầy và sau chùa cô con gái bà Lành nhen lửa nấu cơm. Tâm thầy không còn tĩnh lặng, thầy nhớ thương và lo cho số phận của nàng. Nàng không dám về nhà cha mẹ. Bụng mang dạ chửa nàng có thể đi đâu giữa những cánh rừng đầy dã thú, những sông ngòi nhung nhúc cá sấu thuồng luồng? Chẳng may nàng có mệnh hệ gì thầy sẽ ân hận suốt đời, sẽ không yên phận theo hầu Phật tổ. Đôi khi thầy tự hỏi: Liệu ta có phạm vào giới luật? Nhưng thầy vội xua đi. Thương người, cứu giúp chúng sinh là bổn phận, là đạo lý nhà Phật, sao bảo ta có lỗi? Giữa ta với nàng sáng trong như vầng nhật nguyệt sao ta lại phải ân hận nghĩ suy? Nếu ta có lỗi đó là không giữ được nàng, không tìm được nàng, không nói cho nàng và ông bà Tu Định hiểu rằng nàng mang thai là do âm dương tác hợp. Trời đất giao hoà là điềm lành thế gian có thêm đấng từ bi, có thêm Đức Phật sẻ chia cho nỗi đau nhân thế. Nhưng miệng đời còn sắc hơn dao, ba tấc lưỡi kẻ xấu còn nhọn hơn thương giáo. Nỗi oan của nàng của ta có trời đất, có Phật tổ thấu tỏ. Thế gian này làm sao hiểu nổi những lẽ tự nhiên, những điều tất yếu. Liệu chúng sinh có vì ta mà giảm bớt lòng tin, có vì ta mà coi khinh Phật pháp, vì ta mà sao nhãng kệ kinh? Đó là điều lòng ta vẫn thường băn khoăn dằn vặt.

Buổi sáng ấy thầy Khâu vẫn tọa thuyền, vẫn nghe tỏ những âm thanh tứ phía. Có tiếng kẹt cửa. Chắc cơn gió nồm Nam lại đưa những đám mây trút xuống những trận mưa. Thầy Khâu đoán không lầm. Trong tiếng gió gào thầy nghe thấy tiếng trẻ sơ sinh.

Thầy mở choàng đôi mắt. Trước mắt thầy là đám mây ngũ sắc bao quanh vòng tròn lấp lánh như dải cầu vồng. Giữa vòng tròn là một bé gái sơ sinh nhỏ xíu quấn khắp người những sợi sáng lung linh. Bé gái có nước da nâu sậm, tóc quăn tít, đôi mắt đen dài sáng rực và đôi môi chúm chím như một đoá hồng. Thầy Khâu đưa tay bế đứa bé ra khỏi vầng mây. Vầng mây và vòng tròn tan thành nước chảy ngược về phía thượng nguồn.

Thầy ôm bé vào lòng. Bé lim dim đôi mắt nở nụ cười và lớn nhanh như thổi.

Thầy Khâu ngồi bên suy nghĩ. Tình thì ngay mà lý thì gian. Bản thân thầy đâu sợ gì điều tiếng. Thầy chỉ lo cho bản tự, cho chư tăng, đệ tử. Trời sắp sáng rồi. Việc trước mắt là hãy đưa đứa bé khỏi chùa, càng xa càng tốt.

Thầy đứng dậy khoác thêm chiếc áo cà sa, cầm cây Tầm-xích bước ra ngoài trời. Trời vẫn tối đen, mưa vẫn xối xả ngả nghiêng cây cối. Lạ thay, thầy đi tới đâu ở đó bỗng khô ráo, những hạt mưa rẽ ra tạo một con đường. Cứ thế, thầy đi ngược sông Dâu, lẫn vào cánh rừng dầy chít những cây Dung thụ. Thầy cứ cắm cúi bước, mưa cứ lịch lãm dẫn đường, lòng thầy ngổn ngang rối tựa tơ vò. Cây Tầm-xích bỗng rung lên khi chạm vào một cây Dung thụ. Cây Dung thụ to lớn sum suê chắn ngang lối, bên trái là vực sâu, bên phải là vách đá. Thầy Khâu buồn bực, giơ cây Tầm-xích trỏ vào Dung thụ hỏi lớn “Mộc tinh. Sao dám cản lối ta?” Tức thì Dung thụ tách ra. Thầy vô cùng ngạc nhiên: Chiếc nôi bảy sắc có những đệm mây trắng bồng bềnh đang đung đưa chờ đón. Thầy vội quỳ xuống thành tâm cầu nguyện, rồi đưa đứa bé vào giữa chiếc nôi hướng mặt về phía làng Men. Cây Dung Thụ từ từ khép lại. Thầy ngồi xuống đọc hết 9 quyển kinh, rồi trở về chùa. Đó là buổi sáng ngày mùng 8 tháng 4 năm Đinh Dậu, năm thứ 30 Sĩ Nhiếp sang Giao Châu làm thái thú…

*

Đầu năm 1954 trong trận tổng càn vào bảy xã vùng Luy Lâu, một quả đạn 105 li bắn từ căn cứ Cẩm Giàng của quân đội Pháp đã phá tung một góc tam bảo Chùa Giàng, khoan một lỗ tròn hình phễu. Viên quan ba có bốn đời cai trị xứ Đông Dương và ba năm chạy Nhật lẩn quất khắp vùng Vân Nam Trung Quốc, phát hiện tấm bia đá vỡ đôi trên có khắc những chữ vuông gần giống chứ Hán bây giờ. Viên quan ba rút chiếc khăn tay trắng tinh lau đi lớp đất vàng nhạt, reo lên “tuyệt vời!” Bọn lính ngơ ngác không hiểu tấm bia kia ghi những gì mà sếp của chúng tỏ ra vui mừng làm vậy.

Nhưng lúc ấy không chỉ có viên quan ba lõm bõm đọc được những chữ trên tấm bia vỡ, mà còn một người nữa. Đó là ông Trương Đình Hoành, tiểu đội trưởng trinh sát thuộc tiểu đoàn Thiên Đức (Bắc Ninh). Ông là con trưởng cụ đồ Tung nổi tiếng hay chữ vùng Phủ Thuận. Từ sau pho bụt ốc ông nhìn rõ chữ “Tuế thứ Canh Tý niên, sỹ vương tiên tam thập tam, phụng khắc”. Đêm đó tiểu đoàn Thiên Đức, có bí thư huyện ủy Thuận Thành tham gia chỉ huy, tập kích tiêu diệt cả đại đội Âu- Phi, thu nhiều chiến lợi phẩm trong đó có hai mảnh tấm bia quý giá.

Tôi may mắn có dịp hầu chuyện người tiểu đội trưởng trinh sát năm xưa nay đã ngoại bát tuần, nhờ cụ góp ý vào câu chuyện tôi vừa kể.

Cụ vuốt chòm râu óng ánh như những sợi cước, thong thả: “Hay, hay lắm! Chỉ có đoạn Khâu-đà-la đưa đứa bé đến rừng Dung thụ là không đúng. Lúc đó trời đã tạnh nhưng tối đen như mực. Có ngôi sao như chiếc đèn lồng sáng rực bay phía trước dẫn đường như kiểu Khương-Linh-Tá trong tích tuồng Sơn-hậu.

Đoạn bà Man nương kéo cây Dung thụ lên cửa chùa Bình hay và ý nghĩa lắm sao anh lại bỏ qua?

Khi Sỹ vương tiên làm lễ nhập thần Tứ pháp và Đức Thạch Quang thì ở Làng Mèn A-man cũng đột ngột qua đời. Thầy Khâu-đà-la ngồi trước Phật đường khẽ rùng mình rồi tịch. Đêm ấy mười hai làng Vùng Dâu đèn đuốc sáng trưng, trên trời lấp lánh hai ngôi sao thật đẹp.

Người ta bảo hai ngôi sao ấy vào ngày Phật đản vẫn sà xuống sát nóc chùa Dâu. Tôi thì chưa thấy, nhưng lúc nào anh thử để ý xem sao!”

H.G
_____________________________________________________

Thứ Hai, 21 tháng 2, 2011

Ngày thơ Việt Nam

“Lạm phát” thơ?

Tháng giêng, nhìn lên tờ lịch, thấy cứ vài ngày ở nước ta lại có một đến hai lễ hội. Từ 9 năm nay, thêm một ngày hội văn hóa có tính chất hiện đại: Ngày Thơ
Nếu những ngày hội truyền thống chỉ diễn ra ở một địa điểm, một vùng đất thì Ngày Thơ trải dài trên nhiều địa điểm, từ thủ đô đến các địa phương. Có những nơi tổ chức Ngày Thơ ổn định nhiều năm như Văn Miếu – Quốc Tử Giám ở Hà Nội, núi Truyền Đăng ở Hạ Long (Quảng Ninh), núi Nhạn ở Phú Yên...

Ngày Thơ đã đáp ứng nhu cầu có thật về sự thưởng thức, giao lưu của giới sáng tác và công chúng. Bắt mạch được nhu cầu đó, nếu biết cách tổ chức, Ngày Thơ VN có thể trở thành một thành tựu văn hóa có sức lan tỏa như Ngày hội Âm nhạc ở Pháp.

So với những lễ hội truyền thống, Ngày Thơ có những nét riêng. Không kể ở Văn Miếu, có những năm đông người tham dự phải mua vé vào cổng, nhìn chung, Ngày Thơ không chen chúc, xô bồ như một số lễ hội khác. Thành phần tham dự cũng thuần dạng hơn: văn nghệ sĩ, người về hưu, sinh viên - học sinh...

Hiện nay, có ý kiến than phiền về tình trạng mất cân đối giữa số lượng và chất lượng trong sáng tác và xuất bản thơ. Quả thật, chúng ta đang sống trong một thời buổi lạm phát trên nhiều lĩnh vực. Nhưng so với những thứ lạm phát trong đời sống, “lạm phát” thơ vẫn là điều dễ chịu nhất.

Sở dĩ có “lạm phát” thơ vì người ta còn nhiều điều muốn nói, muốn chia sẻ với nhau. Khi nào thiên hạ không còn gì để nói với nhau, mỗi người là một thế giới khép kín và biệt lập thì người ta sẽ không làm thơ và không có nhu cầu đọc thơ nữa.

Người VN làm thơ nhiều nhưng không phải ai cũng có điều kiện in và xuất bản thơ. Ngày Thơ là dịp để mọi người cùng trao đổi và bình phẩm những tác phẩm thơ, rồi nhận ra tâm tình của mình đã được người khác nói hộ.

Đã có những thí nghiệm cho thấy nghe nhạc, xem tranh giúp con người xả stress, ổn định huyết áp. Làm thơ và đọc thơ, nhất là thơ hay, chắc cũng sẽ giúp tinh thần và tâm lý con người nhẹ nhàng, sảng khoái hơn.

Thật không dễ thống kê hết số lượng các tập thơ được phát hành và các bài thơ được công bố trên các phương tiện truyền thông suốt một năm qua. Tiếng Việt hay hay dở một phần cũng nhờ các nhà thơ vì thơ là nơi tinh luyện và lưu truyền ngôn ngữ.

Mặt khác, thơ cũng là nơi tập dượt của tiếng nói, là biểu hiện của tâm hồn, là nơi kết nối cộng đồng dân tộc chung một ước mơ và khát vọng. Không ai phủ nhận bây giờ xuất hiện nhiều bài thơ, nhiều tập thơ trung bình nhưng nếu chịu khó đọc trên các phương tiện truyền thông, ta sẽ gặp không ít những bài thơ rất hay, cho thấy những chân trời nghệ thuật mới.

Không có gì phải bi quan về chất lượng thơ hiện nay vì cuộc sống sẽ điều chỉnh tất cả. Thơ dở sẽ bị sàng lọc, thơ hay sẽ còn lại với thời gian. Đóng góp của một Ngày Thơ không phải là để phát động phong trào làm thơ mà là để hâm nóng tình yêu với thơ ca và tôn vinh những giá trị nghệ thuật đích thực.

Muốn vậy, những hoạt động của Ngày Thơ phải đi vào thực chất, tránh quá nhiều hình thức màu mè, cờ xí, nhất là đừng nhân danh “xã hội hóa” mà rồi rơi vào thương mại hóa.

[Huỳnh Như Phương]


Hà Nội thiếu điểm nhấn, TP HCM buồn tẻ

Không có màn trình diễn gây ‘sốc’, thiếu những phút ngẫu hứng giao hòa giữa tác giả - tác phẩm - độc giả, Ngày thơ diễn ra tại thủ đô và thành phố lớn nhất nước kém sôi nổi so với các năm trước.

Trong Ngày thơ tại Văn Miếu, Hà Nội, sáng 17/2, sân thơ Hiện đại (sân thơ Trẻ mọi năm) vẫn được chờ đón nhất với nhiều gương mặt nổi bật và được công chúng biết đến như Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Nguyễn Vĩnh Tiến, Nguyễn Phan Quế Mai…
Sân thơ Hiện đại năm nay chọn cách đọc thơ truyền thống. Theo nhà thơ Phan Huyền Thư, nếu đọc thơ đơn thuần, không kết hợp trình diễn tức là đang dọn đường cho tiết tấu, giai điệu thơ có cơ hội bừng sáng.
Sự xuất hiện của Vi Thùy Linh và Đào Anh Khánh trên sân khấu đem lại màn trình diễn đúng nghĩa duy nhất tại Ngày thơ năm nay. Trong bài “Bất tận”, hai nghệ sĩ cùng “trốn” trong một tấm vải trắng đen rồi dần thoát ra và thực hiện nhiều động tác biểu cảm thể hiện ý tưởng của bài thơ. Đây cũng là tiết mục "đinh" của sân thơ Hiện đại.
Mặc dù vậy, năm nay công chúng dự sân thơ Hiện đại không đông bằng sân thơ Truyền thống, không kín đặc người đến nỗi không chen qua được.
Việc đổi tên sân thơ Trẻ thành sân thơ Hiện đại với ý định mở rộng đối tượng tham gia cũng không thoát khỏi cảnh “bình mới rượu cũ”. Vẫn là những gương mặt của năm trước xuất hiện trở lại. Theo nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội, năm nay không thấy có nhà thơ “lão tướng” nào như Dương Tường năm 2008, cũng không có tiết mục mới mẻ như màn quấn giấy vệ sinh chép đầy thơ lên người như Dương Tường từng làm. Kiểu trình diễn như vậy có thể làm công chúng “choáng”, gây tranh cãi nhưng đó mới là cách gây hiệu ứng tốt.
Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên cho rằng, trình diễn thơ cũng cần phải phong phú như thơ. Thơ có tứ tuyệt, lục bát, thơ tự do, thơ có vần, thơ không vần, trình diễn cũng cần mở rộng theo kịp. sân thơ Hiện đại có nhà thơ Mai Văn Phấn, 56 tuổi, là gương mặt lớn tuổi nhất. Tuy nhiên, theo nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, lứa tuổi nên đa dạng hơn nữa, có nhiều nhà thơ 60-70 hơn nữa. Bởi sân thơ Hiện đại dường như là nơi gánh trọng trách phá cách, tìm tòi, thể nghiệm cái mới trong trình diễn thơ.
Bên cạnh đó, sân thơ Thiếu nhi năm nay được Hội Nhà văn cho tổ chức tại hồ Văn, nằm phía bên kia đường Quốc Tử Giám nhìn từ cổng chính Văn Miếu. Tuy nhiên, không gian riêng và rộng hơn các năm không trở thành ưu thế mà lại tạo khó khăn cho đơn vị tổ chức là nhà xuất bản Kim Đồng. Theo họa sĩ Phạm Quang Vinh, giám đốc nhà xuất bản, vị trí của sân thơ Thiếu nhi khiến công chúng gặp bất lợi khi phải băng qua lòng đường chật ních xe cộ. Đường Quốc Tử Giám và các tuyến đường xung quanh khá đông đúc trong suốt buổi sáng 17/2. Nhiều người còn không biết có sân thơ Thiếu nhi bên ngoài hồ Văn vì tưởng rằng không gian Ngày thơ gói gọn trong khuôn khổ Văn Miếu.
“Chỉ riêng trong Văn Miếu thôi mà cũng đã quá rộng, các sân thơ cũng diễn ra đồng thời nên không thể theo dõi hết được” là lời than phiền của nhiều độc giả. Nhà văn Nguyễn Xuân Thủy (tác giả cuốn Sát thủ online) cho rằng, cách tổ chức của Ngày thơ khiến công chúng buộc phải lựa chọn giữa các sân thơ, khó có thể tham quan toàn bộ.
Đúng như ý định ban đầu, Ngày thơ năm nay tại Hà Nội không có màn trình diễn gây sốc nào. Khá đáng tiếc là sự trầm lắng này diễn ra trong thời điểm công chúng bắt đầu chấp nhận phá cách và háo hức mong đợi phá cách khi tới dự Ngày thơ.
Tại TP HCM, việc thiếu các sân chơi sôi nổi, vắng độc giả, chương trình diễn ra theo trình tự đều đều khiến Ngày Thơ mang không khí lặng lẽ và kém ngẫu hứng.
Với chủ đề “Từ thành phố này người đã ra đi”, bám sát kỷ niệm 100 ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước (1911 - 2011), Ngày Thơ lần IX tại TP HCM (diễn ra ở Bến Nhà Rồng, quận 4), mở đầu theo đúng khuôn nghi thức các năm trước. Tại sân khấu chính, sau bài phát biểu của ông Lê Quang Trang, Chủ tịch Hội nhà văn TP HCM, đúng 8h30, đại diện lãnh đạo TP, bà Nguyễn Thị Quyết Tâm gióng những hồi trống mạnh mẽ, báo hiệu ngày của thi ca bắt đầu vào hội.
Các ca sĩ, nghệ sĩ ngâm thơ như Cao Minh, Vân Khanh, Hồng Vân... lần lượt mang đến giây phút lắng đọng với màn hát, diễn ngâm bài Tiếng hát từ thành phố mang tên Người (nhạc: Cao Việt Bách, lời: Đăng Trung), Nam Quốc Sơn hà (Lý Thường Kiệt), Nguyên Tiêu (Chủ tịch Hồ Chí Minh)...
9h, chương trình thơ - nhạc diễn ra với sự tham gia của nhiều gương mặt thi sĩ như: Trương Minh Nhựt, Lam Giang, Lê Tú Lệ, Từ Quốc Hoài, Trần Thị Khánh Hội, Tôn Nữ Thu Thủy... Cái nắng nóng chói chang, gay gắt của phương Nam khiến người dự dần thưa đi. Tuy vậy, vẫn có nhiều người kiên nhẫn chờ đến 10h30 thưởng thức phần giao lưu của Sân thơ trẻ.
Chương trình Thơ trẻ năm nay do nhà thơ Phan Hoàng và Ngô Thị Hạnh viết kịch bản. Dịp này, Hội Nhà văn TP HCM giới thiệu chân dung các nhà văn, nhà thơ trẻ vừa được kết nạp vào hội, gồm: Trương Gia Hòa, Song Phạm, Trần Hoàng Nhân, Lê Thùy Vân, Phan Hồn Nhiên, Vũ Đình Giang. Sau màn ra mắt, nhà thơ Gia Hòa và Thùy Vân đã "đội nắng" để đọc cho mọi người thưởng thức sáng tác mới của mình.
Có nhiều ý kiến khác nhau về không khí Ngày Thơ TP HCM. Theo chị Hồ Khánh Vân, giảng viên bộ môn Lý luận và phê bình văn học ĐH KHXH&NV, Hội nhà văn TP cho thấy sự cố gắng khi tổ chức hoạt động thu hút mọi người về với cội nguồn thi ca, văn hóa dân tộc. "Tuy vậy, qua các lần tham dự, tôi thấy hình thức tổ chức còn quá cũ, chưa toát lên chất sáng tạo của lĩnh vực thi ca, chưa có nhiều tương tác giữa độc giả - tác phẩm - tác giả". Cùng ý kiến, nhà thơ trẻ Lê Thùy Vân cho rằng, qua vài năm tổ chức, Ngày thơ vẫn cho thấy sự buồn tẻ, bó buộc và thiếu bay bổng trong cảm xúc.
Ngược lại, thi sĩ Phan Hoàng cho rằng, có lẽ có một sự hiểu nhầm khi cho rằng sân chơi thơ trẻ nói riêng và ngày thơ nói chung ở Sài Gòn diễn ra không sôi động. "Theo tôi, sân Thơ trẻ TP HCM sẽ không bao giờ sôi động vì bản chất của sáng tạo thi ca là sự lặng lẽ, thầm lặng. Người trẻ ngày nay bộn bề công việc nhưng vẫn cố gắng sáng tác, ra thơ đều đặn. Đến với ngày thơ, họ vẫn giữ được tinh thần thi ca, tinh thần nhân văn là điều rất quý".
Ngoài chương trình sân khấu, độc giả có thể dạo bước quanh các gian thơ của 15 CLB thi ca tại TP HCM. Cách thức trình bày gian thơ không nhiều sáng tạo, vẫn hình ảnh tre nứa, giỏ thơ, cây thơ quen thuộc. Có lẽ, điều luôn tươi mới chính là tình cảm của con người dành cho thơ. Ngồi nép một góc riêng tại gian thơ CLB quận 4, nhà thơ Dạ Thảo đọc to cho người bạn già của mình là nhà thơ Thanh Sử nghe một bài lục bát. Rồi cả hai gật gù tâm đắc như để cảm nhận câu thơ mình vừa đọc thấm vào gió, nắng buổi sáng mùa xuân trên Bến Nhà Rồng.
Một góc khác, cụ Tú Nguyên, 91 tuổi, thong thả ngắm nghía các cây thơ, thỉnh thoảng ông dừng chân lại để đọc một đôi câu đối, sáng tác trên bức mành thư pháp. "Tôi từng dự Ngày Thơ ở Văn Miếu, Hà Nội. Nói chung, ngoài ấy sôi nổi, rôm rả hơn ở đây. Nhưng với tôi, có một ngày thế này để còn nhớ đến thơ là vui rồi", cụ Tú Nguyên nói. Tuy vậy, một nhà thơ không nêu tên chia sẻ với chút ngậm ngùi: "Độc giả của thơ chẳng thấy đâu. Toàn người trong giới sáng tác vui với nhau thôi".

15h chiều nay (17/2), tại TP HCM tiếp tục diễn ra buổi giao lưu Câu lạc bộ Thơ với sự tham gia của 15 CLB Thơ trên toàn địa bàn. 18h, ngày của thi ca khép lại.

[Pham Mi Ly - Anh Vân]

_______________________________________________________

Có một "đêm đông" ấm lòng bao thế hệ

Vũ Tiến


Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương sinh ra ở Thừa Thiên - Huế, trong một gia đình yêu nghệ thuật. Ngay từ năm mới lên 9 tuổi, ông đã được học đàn nguyệt rồi tự học ký xướng âm qua sách vở. Năm 1936, tốt nghiệp Trường Quốc học Huế, Nguyễn Văn Thương đã sáng tác ca khúc đầu tay "Trên sông Hương" - một ca khúc hiện được xem như một trong những tác phẩm tân nhạc đầu tiên ở đất cố đô.

Cố Giáo sư - nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương (1919 - 2002) là một nhà văn hóa lớn, một trong những nhạc sĩ thuộc thế hệ tân nhạc đầu tiên của Việt Nam. Thành tựu của ông được ghi nhận ở nhiều thể loại (ca khúc, nhạc múa, nhạc phim...) và trên nhiều lĩnh vực (sáng tác, biểu diễn, đào tạo). Sinh thời, nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương từng đảm trách các vị trí: Trưởng đoàn Ca múa nhạc Việt Nam, Giám đốc Nhạc viện Hà Nội...; từng được Nhà nước phong tặng danh hiệu NSND, được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật... Tuy nhiên, điều hạnh phúc nhất đối với ông có lẽ vẫn là: Với đông đảo công chúng, thay vì mọi sự giới thiệu dài dòng, chỉ cần giới thiệu Nguyễn Văn Thương - tác giả của nhạc phẩm "Đêm đông" thì hết thảy mọi người đều biết, và chắc chắn tất cả đều dành cho ông sự yêu thương, cảm mến, đặc biệt là với những phận người lang thang cơ nhỡ. Bởi "Đêm đông" thực sự là một kiệt tác, và chắc chắn là một trong những ca khúc viết về mùa đông hay nhất, thấm thía nhất ở Việt Nam từ trước tới nay.

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương sinh ra ở Thừa Thiên - Huế, trong một gia đình yêu nghệ thuật. Ngay từ năm mới lên 9 tuổi, ông đã được học đàn nguyệt rồi tự học ký xướng âm qua sách vở. Năm 1936, tốt nghiệp Trường Quốc học Huế, Nguyễn Văn Thương đã sáng tác ca khúc đầu tay "Trên sông Hương" - một ca khúc hiện được xem như một trong những tác phẩm tân nhạc đầu tiên ở đất cố đô.

Tuy nhiên, nổi tiếng nhất trong những ca khúc được Nguyễn Văn Thương sáng tác thời kỳ trước Cách mạng vẫn là "Đêm đông". Về xuất xứ của ca khúc này, nhạc sĩ từng tiết lộ: Vào dịp Tết năm 1939 (thời gian này ông đang theo học tại Trường Thăng Long - Hà Nội), do kẹt tiền nên ông không thể về quê ăn Tết với gia đình. Lần đầu tiên phải ăn Tết xa nhà, chàng trai trẻ rất buồn. Năm ấy, Hà Nội rét dữ. Để chống lạnh, có bao quần áo, ông "nhồi" tất vào người, rồi như một thói quen bản năng, ông cứ thế rời phòng trọ lững thững đi về phía Ga Hàng Cỏ, để rồi bần thần nhớ ra là mình... không có vé tàu.

"Khi tàu chuyển bánh, tôi cũng theo tàu đi về phương Nam, dọc theo đường Nam Bộ bây giờ. Tiếng còi tàu mỗi lúc một xa càng làm tăng thêm nỗi nhớ nhà da diết! Đến chỗ chắn tàu ở phố Khâm Thiên, tôi chợt nảy ra ý định đi tìm những người cùng cảnh ngộ với mình trong đêm nay. Phố Khâm Thiên hồi ấy có nhiều nhà hát ả đào. Tôi muốn xem trong đêm giao thừa này, có người nào không ở nhà với gia đình mà đi hát. Hoặc ca nhi nào, vì kế sinh nhai mà phải ở lại hành nghề không?

Đêm ấy, có hai nhà còn để đèn ngoài cổng để chờ khách. Tôi đi qua nhà đầu tiên. Cửa mở, nhưng không có người ra. Đến nhà thứ hai thì có một ca nhi đi ra mở cửa. Nhưng khi nhìn thấy một cậu thanh niên, tuổi vừa đôi mươi, ăn mặc lôi thôi thì cô ta đã thất vọng. Khi quay trở vào, cô không quên soi mình trong tấm gương treo cạnh cửa, và đưa cánh tay trần vuốt nhẹ lên mái tóc. Tôi còn đi lang thang mãi trên nhiều đường phố Hà Nội tối hôm đó - cho đến khuya, khi thấy các bà mang hương, đèn ra cúng trước thềm nhà tôi mới quay về căn gác trọ số 10 ngõ Hội Vũ. Lên giường nằm, nhưng nỗi nhớ nhà và cảm giác cô đơn nơi đất khách khiến tôi không tài nào ngủ được. Và nảy ra ý định sáng tác một bài hát để nói lên cảm xúc và suy nghĩ của mình trong đêm giao thừa đầu tiên phải xa nhà.

Tôi đã đưa vào ca khúc hình ảnh thực tế đã đập vào mắt tôi lúc đi qua phố Khâm Thiên. Đó là người "ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng". Còn "Thi nhân lắng nghe tâm hồn tương tư" hoặc "Cô lữ đêm đông không nhà" là hình ảnh của bản thân mình - còn chinh phu, chinh phụ là những hình ảnh mượn từ trong Tiểu thuyết Thứ Bảy của Tự Lực Văn Đoàn rất thịnh hành lúc bấy giờ, chứ ta có đi chinh phục ai đâu mà có chinh phu để nói!" (theo ghi chép của Tôn Nữ Hỷ Khương).

Để bạn đọc tiện theo dõi mạch cảm xúc của người nhạc sĩ, xin trích ra đây phần lời 1 của bài hát:

"Chiều chưa đi màn đêm rơi xuống
Đâu đấy buông lững lờ tiếng chuông
Đôi cánh chim bâng khuâng rã rời
Cùng mây xám về ngang lưng trời
Thời gian như ngừng trong tê tái
Cây trút lá cuốn theo chiều mây
Mưa giăng mắc nhớ nhung, tiêu điều
Sương thướt tha bay, ôi! đìu hiu...
Đêm đông, xa trông cố hương buồn lòng chinh phu
Đêm đông, bên song ngẩn ngơ kìa ai mong chồng
Đêm đông, thi nhân lắng nghe tâm hồn tương tư
Đêm đông, ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng
Gió nghiêng chiều say
Gió lay ngàn cây
Gió nâng thuyền mây
Gió reo sầu miên
Gió đau niềm riêng
Gió than triền miên
Đêm đông, ôi ta nhớ nhung Đường về xa xa
Đêm đông, ta mơ giấc mơ gia đình, yêu đương
Đêm đông, ta lê bước chân phong trần tha phương
Có ai thấu tình cô lữ, đêm đông không nhà...
".

Một khán giả, sau khi nghe bài hát đã có những nhận xét rất tinh tế: "Nếu nói về thời tiết thì không phải mùa đông nào cũng nhiều gió, nhưng trong "Đêm đông" có rất nhiều gió và chính gió đã làm nhạc phẩm "Đêm đông" bất hủ với thời gian". Về việc từ cảm thức nào tác giả lại đưa nhiều hình tượng gió vào trong tác phẩm đến vậy, nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương giải thích: Gác trọ tôi ở chỉ có một cửa sổ làm bằng gỗ. Mùa đông hanh khô, nên có nhiều kẽ hở, gió luồn qua đó, tạo những âm thanh y như tiếng sáo, lúc như tiếng rít não ruột, da diết. Vì vậy mà ở đoạn giữa điệp khúc, có sáu câu tả về gió: "Gió nghiêng chiều sang/ Gió lay ngàn cây/ Gió nâng thuyền mây/ Gió reo sầu miên/ Gió đau niềm riêng/ Gió than triền miên".

Đấy là nói về gió, còn về tiếng chuông? Trước đây, căn cứ vào giai điệu của bài hát, cũng như vào câu "Đâu đấy buông lững lờ tiếng chuông" mà có ý kiến cho rằng, bài hát được sáng tác theo chiều hướng phục vụ... nhà thờ Công giáo. Không phải vậy. Đây là trả lời của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương, trích từ lá thư viết ngày 4/11/1997 của ông: "Đâu đấy buông lững lờ tiếng chuông. Tiếng chuông buông lững lờ, chỉ có thể là tiếng chuông chùa. Nhưng không cứ gì tôi phải đi ngang qua một ngôi chùa, mà chỉ cần nghe tiếng chuông; thường những người tu tại gia, khi niệm kinh buổi chiều, vẫn thỉnh thoảng gõ chuông từ một gác thờ nào đó. Vì tôi đi từ nhà ra ga Hàng Cỏ, qua phố Khâm Thiên rồi đi lang thang khắp các nẻo đường trước khi trở về gác trọ thì có thể nghe được nhiều lần tiếng chuông ấy lững lờ buông. Còn nếu tiếng chuông nhà thờ thì phải dùng chữ chuông đổ, chứ không thể dùng buông lững lờ được".

Mặc dù cảm hứng đến một cách "xuất thần" như vậy, song đêm hôm ấy, bài hát mới chỉ chốt lại ở việc: Khổ nào cũng bắt đầu bằng điệp khúc "Đêm đông", trừ câu kết thì đổi thành "Có ai...". Sau một thời gian, Nguyễn Văn Thương và một học trò theo học guitar với ông tên là Kim Minh (đã mất năm 1946) cùng trau chuốt lại lời ca, bài hát kể như mới chính thức hoàn thành (có một thời, bài hát được đề tác giả phần ca từ là Nguyễn Văn Thương và Kim Minh).

Nhân đây, cũng cần nói thêm là, ngày ấy, Nguyễn Văn Thương rất mong có được cây đàn guitar Hawaii được bày bán ở hiệu đàn Đông Phát, phố Cầu Gỗ. Cây đàn có giá một đồng rưỡi. Một hôm, Nguyễn Văn Thương quyết định đặt trước 5 hào cùng tấm thẻ căn cước để lấy cây đàn, hẹn ít tháng nữa sẽ thanh toán nốt. Phải ba tháng sau ông mới gom đủ tiền để lấy thẻ căn cước về. Tuy nhiên, đủ tiền đàn thì lại không đủ tiền tàu xe để về quê ăn Tết. Đó là lý do để ông có một cái Tết lang thang ngoài Hà Nội, để rồi bất ngờ sáng tác nên một kiệt tác. Điều thật có ý nghĩa là chàng nhạc sĩ đã khai sinh ra một giai điệu bất hủ trên chính cây đàn trả góp ấy.

Ca khúc "Đêm đông" từng được rất nhiều thế hệ ca thể hiện, từ Ngọc Bảo, Quang Thọ, Lê Dung tới Cẩm Vân, Đàm Vĩnh Hưng... Nếu như tân nhạc những năm ba mươi, bốn mươi của thế kỷ trước chỉ có các điệu tango, valse, boston... thì vào những năm đầu thập niên sáu mươi, nữ ca sĩ Bạch Yến chính là người đầu tiên hát "Đêm đông" theo điệu slow - rock (chứ không phải điệu tango như thuở bài hát ra đời). Từ đó, bài hát càng có cơ hội đi vào đời sống tâm tình của giới trẻ...

______________________________________________________

Thứ Năm, 17 tháng 2, 2011

9 tác giả “ăn nên làm ra” năm 2010

Việc đánh giá được thực hiện vào kết quả khảo sát với các tác giả dưới 40, và căn cứ vào các tiêu chí: giải thưởng họ đạt được, lượng sách xuất bản và phản hồi của dư luận.

Nguyễn Ngọc Tư – lộc văn chương bất tận?

Kể từ lần giải thưởng văn học Tuổi hai mươi lần thứ II với tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt, hình như “lộc” văn chương đã mở cánh cửa thần kì ra cho Nguyễn Ngọc Tư. Hiếm tác giả nào dưới 40 tuổi liên tiếp nhận được các giải thưởng văn học quốc gia và quốc tế như chị (một trường hợp khác có thể kể đến là Nguyễn Ngọc Thuần). “Cơn sốt” mang tên Nguyễn Ngọc Tư chính thức vào giai đoạn cao trào khi Cánh đồng bất tận ra mắt, và tác giả thì ngậm ngùi nhận án kỉ luật ở địa phương, bắt đầu cho làn sóng bảo vệ tác giả được lan rộng toàn quốc. Trong lĩnh vực văn học, Nguyễn Ngọc Tư là cái tên được nhắc đến nhiều nhất trong năm 2008. “Cơn sốt” Nguyễn Ngọc Tư ngỡ đã tới đỉnh điểm và ắt phải thoái trào. Thế nhưng liên tiếp các năm sau, sách của Nguyễn Ngọc Tư luôn là những cuốn sách bán chạy nhất trong năm . Và năm 2010 với sự ra mắt của bộ phim Cánh đồng bất tận, “cơn sốt” Nguyễn Ngọc Tư tiếp tục dấy lên một làn sóng mới. Lượng tái bản Cánh đồng bất tận – đưa cuốn sách trở thành tác phẩm bán chạy nhất Việt Nam. Nhưng dường như chừng ấy vẫn chưa đủ làm cho độc giả thỏa mãn. Đúng lúc đó, việc ra mắt tập truyện ngắn Khói trời lộng lẫy của Nguyễn Ngọc Tư đã đánh trúng tâm lý của thị trường.

Trước khi cuốn sách được phát hành, nữ nhà văn của Cà Mau đã lên mạng tự quảng cáo tác phẩm của mình. Đoạn quảng cáo gây bất ngờ với nhiều người, nhưng cũng chính vì thế càng khiến người ta tò mò hơn. Chị viết:

“Bạn có thể không thích em í ngay bây giờ nhưng vào một cơn gió nào đó khiến bạn bỗng dưng muốn sến, em í rất hợp với tâm trạng bạn lúc đó. Sến pha chút quê quê và dịu dàng thủ thỉ i ỉ ì i.

Bạn có thể bị những cô nàng (hoặc những anh chàng) bỏ bạn mà đi, em í ở lại với bạn tới chừng nào bạn muốn. Bạn được trao quyền chủ động phụ rẫy còn em í chỉ biết cúc cung chung thủy và chung thủy đến hết đời. Do đó bạn có thể tặng em í lại cho bạn bè em trai chị gái, sau khi đã vui vẻ với em í xong, và khi nhớ có thể đến lấy lại, em í trước sau vẫn ngọt ngào.

Và không cần biết bạn có yêu em í hay không, nhưng em í đã yêu bạn từ cái nhìn đầu tiên, cho đi mà không hề toan tính. Đấy, em í đang ở trên kệ và hết sức gọi mời, “nào, hãy cưới tôi đi” .

Cuối cùng, hãy cảm thụ em í và nhớ mãi cảm giác đó, để sau này lấy em í ra mà đập vài cái fim mà người ta sắp làm nay mai, hỏi rằng fim hong giống truyện là sao là sao là sao?”

Đoạn quảng cáo có phần gây sốc này có lẽ là một trong những lý do khiến cho buổi ra mắt sách ngày 12- 11 - 2010 đã nhanh chóng trở thành sự kiện . Mặc dù chưa tới giờ khai mạc buổi nhưng đã có hàng trăm độc giả kéo đến, ngồi chật cứng căn phòng khá lớn của quán cà phê .

Khói trời lộng lẫy cũng đã được Hãng phim truyện Việt Nam mua bản quyền để chuyển thể thành phim. Dự báo khi bộ phim được ra mắt khán giả, sẽ lại có một cơn sốt mới về tác phẩm Nguyễn Ngọc Tư. Có người đã đùa rằng: bây giờ Nguyễn Ngọc Tư viết gì cũng đắt khách. Điều này cho thấy “lộc văn chương” của nữ nhà văn này càng ngày càng phát. Xin chúc mừng chị!

Nguyễn Phan Quế Mai – “sao nguyệt quế” chiếu mệnh?

Không hiểu trong các kiểu sau chiếu mệnh, thì liệu có sao nguyệt quế hay không ? Nếu có thì rõ ràng nó ứng với nhà thơ Nguyễn Phan Quế Mai. Bằng chứng là trong cùng một năm, nhà thơ Nguyễn Phan Quế Mai hai lần đứng ở ngôi vị cao nhất để nhận các giải thưởng văn chương. Đó là giải nhất cuộc thi Thơ viết về Hà nội do Tuần báo Văn nghệ và Đài phát thanh truyền hình Hà nội tổ chức, chào mừng Đại lễ Thăng Long – Hà Nội. Nhận giải nhất vừa được một tuần, chị tiếp tục có mặt ở Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Hà Nội để nhận Giải thưởng văn học năm 2010 với tập thơ Cởi gió .
Đánh giá của Hội đồng thẩm định dành cho tập thơ Cởi gió của Nguyễn Phan Quế Mai đó là: Một giọng thơ biết tiết chế để khi chạm đến cái riêng tư vẫn không sa vào vụn vặt. Tình cảm với đất nước quê hương của người xa xứ, hoặc đang sống ngay giữa lòng đất nước, thật tha thiết mà không lạm dụng cảm xúc. Tác giả cũng chứng tỏ một bản lĩnh thơ trẻ, không chấp nhận cách cấu tứ quen tay, không sa vào ngôn từ dễ dãi, cũng không gây choáng bằng hình thức cầu kỳ, phù phiếm. Những bài thơ về Hà Nội dễ nhận được sự chia sẻ nhờ một cách nhìn hiện đại, một cách nghĩ, cách cảm trẻ trung và khá mới lạ. Đồng thời người đọc cũng mong chờ sự bứt phá của tác giả trong thời gian tới, trên cơ sở gia tăng độ mỹ cảm cho ngôn ngữ, nghiêm khắc hơn trong kỹ thuật và nghệ thuật thơ.

Không say sưa mê mải “trong ánh hào quang”, Nguyễn Phan Quế Mai âm thầm biên soạn, chuyển ngữ tác phẩm thơ và hồi kí của nhà thơ Mỹ Bruce Weigl , tác phẩm Sau mưa thôi nã đạn. Sau nửa năm làm việc miệt mài, tác phẩm đã ra mắt bạn đọc đúng vào dịp 22- 12, và trở thành một sự kiện văn học đáng ghi nhận trong năm. Sau mưa thôi nã đạn cũng nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy trong tháng.
Nhà thơ Nguyễn Phan Quế Mai chia sẻ về cuốn sách vừa ra mắt: “Tôi phải chạy đua với thời gian vì tôi biết rằng Bruce Weigl đang mang trong mình căn bệnh ung thư. Trong 6 tháng qua, ông đã phải hóa trị, xạ trị và trải qua 3 lần phẫu thuật. Tôi hy vọng tình cảm của bạn đọc Việt Nam sẽ là động lực để Bruce Weigl có thể chiến thắng căn bệnh ung thư của mình.Mặc dù rất bận, nhưng thơ ca đã trở thành một phần cuộc sống của tôi. Thơ ca giúp tôi cân bằng áp lực cuộc sống, và đang giúp tôi có một cuộc sống ý nghĩa hơn, sẻ chia hơn.”

Nguyễn Xuân Thuỷ hay Sát thủ được tìm kiếm?

Trong cùng một năm 2010, Nguyễn Xuân Thuỷ ra mắt 3 tập sách: Kì thú Trường Sa(sách cho thiếu nhi); Độc ca không lời (tản văn) và tiểu thuyết Sát thủ online.
Ba đầu sách, nhưng cuốn khiến cho Nguyễn Xuân Thuỷ trở nên “hot” trên nhiều diễn đàn, liên tục được bạn đọc tìm kiếm là Sát thủ online.

Nhà phê bình trẻ Đoàn Minh Tâm nhận xét: Sát thủ online là câu chuyện về cuộc đời bất hạnh của một games thủ có nickname Hiệp sĩ đen. Khi lật giở từng trang sách, bạn đọc sẽ được Nguyễn Xuân Thủy dẫn dụ vào một thế giới tiểu thuyết có nhiều điều thú vị đáng để khám phá. So với Biển xanh màu lá, lối viết của Nguyễn Xuân Thủy trong Sát thủ online đã bớt sự “hồn nhiên”, già dặn và chững chạc hơn nhiều. Kết cấu tiểu thuyết chắc chắn, tính trinh thám, hình sự cuốn hút, bao chứa những vấn đề xã hội nóng bỏng,Sát thủ online là bước đi đúng hướng trên văn nghiệp của Nguyễn Xuân Thủy. Giới phê bình chuyên nghiệp hay bạn đọc phổ thông đều sẽ tìm kiếm được điều mình cần tìm trong tiểu thuyết này.

Lý do đầu tiên khiến Sát thủ online được chú ý là bởi đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Việt Nam chuyên về tội phạm mạng với bối cảnh là môi trường Internet. Toàn bộ tiểu thuyết gồm 13 chương với cách thể hiện khá đặc biệt, trước mỗi chương đều có đề dẫn và sau mỗi chương là một box thông tin trong đó đăng một phóng sự trên truyền hình quốc gia về đời sống mạng Internet trong nước và thế giới. 13 bản tin từ 12 giờ đến 0 giờ như một cách đếm ngược mang tính thúc bách cần có những ngăn chặn, những rào chắn, những bức tường lửa thanh lọc môi trường Internet với những bộ quy tắc ứng xử cho một lớp công dân mới sinh ra từ Internet.

Sức hấp dẫn của cuốn sách còn bởi tác giả đã tạo dựng một không khí truyện biến ảo, lôi cuốn và hồi hộp đến nghẹn thở.

Thế nhưng - nếu như chỉ đơn thuần dựng lại một vụ án, bạn đọc hiếu kì có lẽ sẽ tìm đến các phim hành động hay các bản tin vụ án trên báo chí, đăng tải mỗi ngày. Sát thủ online nằm lại trong lòng bạn đọc bởi chất nhân văn đằm sâu trong từng trang viết. Kẻ tội phạm dù tha hoá đến đâu, cũng còn một chút nhân tính ở trong mình. Điều ấy khiến chúng ta giữ được niềm tin ở cuộc đời này.

Chính vì lẽ đó, tác phẩm đã vượt lên 165 tác phẩm truyện, ký tham gia dự thi viết "Vì An ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống" do Bộ Công an, NXB Công an nhân dân phối hợp với Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức trong 3 năm 2007-2010 để giành giải nhất một cách ngoạn mục .

Với Sát thủ online - Nguyễn Xuân Thuỷ chứng tỏ khả năng đa dạng trong ngòi bút của mình. Trước đây, anh từng để lại ấn tượng với bạn đọc bởi trang viết về người lính (tiểu thuyết Biển xanh mầu lá - năm 2007, giải thưởng 5 năm Bộ Quốc phòng), về vùng núi phía Bắc (truyện ngắn Rừng mã sa hoa đỏ - giải 3 cuộc thi truyện ngắn Tạp chí Văn nghệ quân đội năm 2009)

Nhắm mắt lại cũng thấy … sách tái bản!

Nói về những cuốn sách văn học bán chạy trong năm, không thể bỏ qua cuốn Nhắm mắt thấy Paris của Dương Thụy. Đã có 4.470 cuốn sách đã được bán chỉ trong hai ngày đầu diễn ra Hội sách thành phố Hồ Chí Minh 2010. Lượng bán sách “trong mơ” này là niềm mơ ước của nhiều người, khi mà sách văn học hiện nay thường vẫn chỉ khiêm tốn ở mức 1000 – 1500 cuốn/ đầu sách. Lượng khiêm tốn này của nhiều đầu sách có khi cũng không được tiêu thụ hết trong vòng một năm, trong khi dân số Việt Nam hơn 80 triệu người. Chẳng lẽ số người quan tâm đến văn học chỉ ít ỏi đến thế. Vậy tại sao gần 5.000 cuốn sách Nhắm mắt thấy Paris đã được tiêu thụ chỉ vỏn vẹn trong 2 ngày? Tạm gạt sang bên những thắc mắc, trăn trở về văn hoá đọc, chúng ta phải thừa nhận rằng văn học vẫn còn độc giả. Thậm chí nhiều. Chính vì thế, sau thành công của Nhắm mắt thấy Paris tại Hội sách, NXB Trẻ quyết định in nối bản thêm 5.000 cuốn để kịp chuyển đến bạn đọc.

Giải thích về nhan đề cuốn sách, nhà văn Dương Thuỵ cho biết : Khi nhắm mắt, là khi người ta không còn thấy gì nữa hết. Nhưng đó cũng là lúc hiện lên những khoảnh khắc hoài ghi dấu trong cuộc đời mình.“Nhắm mắt thấy Paris”, Paris của quá khứ đã qua hayParis của tương lai đầy hứa hẹn. Tất cả những nhân vật trong tiểu thuyết này đều có một lý do riêng để nhớ về Paris và hẹn gặp lại tại đây. Bản thân tôi cũng thường nhắm mắt thấy Paris và Paris từ lâu với tôi đã là một chốn đi về đầy yêu thương. Riêng đối với độc giả, tôi tự thuyết phục mình rằng sau khi đọc xong cuốn sách này, mọi người cũng tìm được cho mình một lý do để “thấy Paris”. Tôi hoàn toàn tin tưởng vào điều đó!

Dù Nhắm mắt để thấy … gì đi chăng nữa thì rõ ràng tác giả của nó cũng thấy hạnh phúc vì cuốn sách được nhiều người chào đón và lung mua bằng được.
Dương Thuỵ cũng là tác giả của những cuốn sách bán chạy như: Oxford thương yêu, Bồ câu chung mái vòm, Cáo già gái già và tiểu thuyết diễm tình, Venise và những cuộc tình Gondola …

Trương Anh Quốc – “nam vương” đầu tiên của cuộc thi Văn học tuổi 20

Phải đợi đến lần thứ 4, ngôi vị đầu bảng của cuộc thi Văn học tuổi 20 mới chính thức thuộc về một tác giả nam- chàng thủ thuỷ Trương Anh Quốc, với tiểu tuyết Biển.
Nhà văn Nguyên Ngọc đánh giá:

“Quả tác giả đã rất khéo tự nhốt mình trong cái khoảng không gian cực kỳ hẹp kín và khắc nghiệt này để cho tất cả các nhân vật của anh buộc phải tự bộc lộ hết, từng người, và do vậy mà cũng là một bức tranh rậm rạp và khá đậm nét về nhân quần. Hơn thế nữa, là cái nhân quần rất hôm nay, rất thời sự, của thời con người dù bất cứ ở đâu, bằng cách này hay cách khác, đều buộc phải đi ra thế giới, đối mặt với những thách thức của cái thế giới và thời đại vừa mới mẻ, nhiều hứa hẹn, lại nhiều hiểm họa và nguy cơ này.”

Súc tích, sinh động và tràn ngập hơi thở cuộc sống là những gì khiến cho Biển cùng tác giả của nó là cây bút Trương Anh Quốc được vinh danh ở một cuộc thi văn học lớn như Văn học Tuổi 20.

Trương Anh Quốc không phải là người mới của cuộc thi Văn học tuổi hai mươi. Năm 2005 anh đã đạt giải nhì với tác phẩm Sóng biển rì rào.
Dù khó tránh khỏi những ý kiến trái chiều về việc đánh giá tác phẩm, nhưng với giải nhất cuộc thi lần này đã giúp Biển là một trong những cuốn sách nên đọc trong năm 2010.

Thụy Anh – người ôm đồm đáng yêu

Cho đến bây giờ, nhiều người vẫn không biết nên gọi Thụy Anh là nhà thơ, nhà văn, dịch giả hay một chuyên gia giáo dục. Bởi chị cùng lúc làm tất cả những công việc ấy. Không chỉ có thế, ở các lĩnh vực, chị đều gặt hái được thành công. Với văn xuôi, tác phẩm của Thụy Anh từng vào top truyện ngắn hay của Tuần báo Văn nghệ năm 2008, 2009; giải ba cuộc thi truyện ngắn của của Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 2009- 2010. Với thơ, Thụy Anh là một trong những gương mặt trẻ tạo được dấu ấn thời gian qua bởi giọng thơ đằm thắm, hồn hậu và tha thiết đến độ đắm say. Đặc biệt, với dịch thuật, chị đã được tiến sĩ Đào Tuấn Ảnh (Viện Văn học) đánh giá là đã đạt gần đến "người dịch lý tưởng" bởi đạt đến 3 trong 1: vừa là nhà thơ, vừa là dịch giả, vừa là nhà nghiên cứu.

Năm 2010, Thuỵ Anh cho ra mắt ba cuốn sách: tập truyện ngắn Gió trắng (NXB Văn học), Tuần đêm (tác phẩm dịch tiểu thuyết đương đại Nga của tác giả chuyên viết tiểu thuyết kỳ ảo Sergei Lukianenko), Olga Berggoltz của tôi ( tiểu luận và dịch thơ của Olga Berggoltz).

Tiến sĩ giáo dục Thuỵ Anh cũng là một thành viên trong nhóm Cánh buồm biên soạn bộ sách “Chào lớp 1” thực hiện nhiều cải cách táo bạo, được dư luận chú ý.

Di Li - một bước chuyển mới?

Năm 2010 – “người đẹp kinh dị” Di Li đã giành giải ba cuộc thi "Vì An ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống" do Bộ Công an, NXB Công an nhân dân phối hợp với Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức – dành cho tiểu thuyết Trại hoa đỏ. Trong cùng năm cuốn sách cũng đã được tái bản với số lượng lớn.

Tuy nhiên đến tập truyện ngắn mới của mình có nhan đề Tháp Babel trên đỉnh thác Ánh trăng (NXB Văn học, năm 2010), Di Li đã khiến nhiều người thấy ngỡ ngàng bởi họ nhận ra một gương mặt khác, một bước ngoặt mới, chuyển biến nghệ thuật rất rõ nét từ kinh dị - trinh thám đến hiện thực tâm lý và lãng mạn trong hành trình lao động sáng tạo của nhà văn Di Li.

Trước sự thay đổi này, có người đã bình luận: Di Li đã tránh được lối viết giản đơn, hoặc sướt mướt, sến, hoặc đào sâu tính dục bản năng một cách trần trụi, tự nhiên chủ nghĩa của một số cây bút trẻ hiện nay. Văn của chị toát lên một sự thông minh, sang trọng, không ồn ào mà thâm hậu với sức tưởng tượng phong phú, bay bổng. Đọc văn Di Li, có cảm giác chị viết rất nhẹ nhàng, tựa hồ cứ viết là chữ nghĩa tuôn ra dào dạt, cuộn chảy. Những người sáng tác văn xuôi như lực điền vã mồ hôi cày cuốc trên cánh đồng chữ nghĩa, như mang nặng đẻ đau, như nặn từng con chữ sẽ cảm thấy thèm thuồng với lao động nhà văn nhẹ tênh, thung thăng, nhàn hạ của chị. Đó là tạng người viết, là trời cho, nhưng cũng là phẩm chất chung của những nhà văn biết mười viết một, không phải biết một viết mười.

Năm 2010 Di Li còn cho xuất bản cuốn sách thứ 2 với tư cách là dịch giả. Đó là tiểu thuyết Rừng Răng - tay của nữ tác giả người Mỹ Carrie Ryan - một trong những sách best-seller của The New York Times và đã khiến một tên tuổi mới toanh trên văn đàn Mỹ trở nên nổi tiếng với cả ba đầu sách luôn được độc giả trẻ săn tìm. Người đọc Di Li đã phải đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, khi tiếp xúc với Di Li – trinh thám, đầy biến ảo và Di Li – dịch giả, nhạy bén và ma mị.

Ngô Thị Giáng Uyên - lặng lẽ đi và viết

Không bài PR rầm rộ, không đăng đàn phát biểu, thế nhưng Bánh mì thơm, cà phê đắng - tập tản văn du kí của Ngô Thị Giáng Uyên đã lọt vào danh sách những tác phẩm văn học trong nước bán chạy nhất năm 2010.

Ngô Thị Giáng Uyên từng được độc giả nhắc nhớ đến ngay khi cuốn sách đầu tiên của chị ra mắt lần đầu năm 2006 – Ngón tay mình thơm mùi oải hương. Cuối năm 2010, cuốn sách cũng đang được NXB Trẻ lên kế hoạch tái bản lần thứ 3.

Đọc văn của Ngô Thị Giáng Uyên, người ta có một hình dung rõ ràng về một thế hệ cầm bút mới: trẻ trung, tự tin và học vấn cao, dám ước mơ và quyết tâm thực hiện ước mơ của mình. Cho đến nay, số nước mà Uyên đã đi qua còn nhiều hơn cả số tuổi của cô. Trên hành trình khám phá thế giới, Uyên đã ghi lại những cảm nhận của mình về văn hóa, lối sống cũng như về ẩm thực… của các quốc gia một cách tinh tế với một văn phong riêng biệt, ấn tượng.

Sự khác biệt của Ngô Thị Giáng Uyên còn ở chỗ, trong khi nhiều cây bút cùng lứa tuổi tại Việt Nam lựa chọn những đề tài theo thị hiếu: văn học mạng, sex, đồng tính…; với các chiêu PR rầm rộ thì cô vẫn miên man với những chuyến đi và trung thành với những trang du ký và lối viết văn giản dị nhưng giàu hình ảnh.

Lý giải vì sao một cuốn tản văn du kí lại có thể gây “sốt” trong độc giả, có lẽ cách tốt nhất là trích đăng những ý kiến đánh giá từ các báo :

“ Uyên không chỉ kể chuyện theo kiểu mắt thấy tai nghe mà lôi cuốn, dẫn dắt người đọc qua mắt nhìn náo nức, say sưa khám phá và những cảm nhận tinh tế trước vẻ đẹp muôn màu của nơi chốn cô qua.” (Đỗ Ngọc, Báo Phụ Nữ Chủ Nhật)
“Thật thú vị nhận ra đằng sau ngôn từ giàu chất văn học, các bài viết của Uyên còn chứa đựng nhiều nhận xét sâu sắc, nét đẹp tế nhị mà dưới mắt người khác tưởng chừng như bình thường.” (Trần Trọng Thức, Báo Doanh Nhân Sài Gòn- Cuối Tuần).
“Những trang viết của Uyên thể hiện rất rõ hai mảng đối lập - điều gì đó rất trẻ thơ và cái trăn trở nghĩ suy của người lớn” (Nguyên Trần – Báo Thể thao văn hóa).
Một chuyến du lịch qua hình ảnh lãng mạn, đầy chất thơ và câu chữ bay bổng… Cứ như thể bạn đang mơ… Những giấc mơ chưa hết ngay cả khi bạn gấp lại trang cuối cùng. (Tủ sách tuổi trẻ)

Uông Triều- "nhìn lịch sử bằng con mắt khác"

Tác giả của những truyện ngắn từng đoạt giải thưởng Văn học trẻ của Báo Hạ Long và giải thưởng Tạp chí Văn nghệ Quân đội đầu năm 2010 đã cho ra mắt tập truyện đầu tay của mình. Tác phẩm "Đôi mắt Đông Hoàng".

Tuy mới bắt đầu viết văn nhưng Uông Triều đã sớm định hình được phong cách riêng. Anh đặc biệt gây ấn tượng ở mảng đề tài truyện lịch sử vì đã biết “nhìn lịch sử bằng con mắt khác” và thổi vào đó dòng cảm xúc tươi mới, trẻ trung khiến những câu chuyện cũ gần hơn với đời sống hôm nay, tiêu biểu là Nàng Điểm Bích, Nước mắt sông Cầm, Kiếm sắc và hoa đào, Đêm cuối cùng ở Ngọa Vân…

Các truyện ngắn của Uông Triều thường có câu ngắn, ngắt quãng và liên tục xuống dòng để bạn đọc cảm nhận câu chuyện bằng cả âm thanh và hình ảnh. Nhà văn Đỗ Tiến Thụy nhận xét: "Kiểu viết tiếp thu có chọn lọc từ dòng văn học hậu hiện đại này không chấp nhận lối “đọc lười” chỉ nhìn vào văn bản. Nó đòi hỏi độc giả phải có vốn văn hoá, lịch sử và một khối lượng sách đã đọc đủ để “thế chấp” cho một hành trình liên văn bản cùng tác giả".

Cũng trong năm 2010, Uông Triều đã cho ra mắt tập tiểu luận - khảo cứu Những pho tượng đá ở Yên Tử. Đây là tập sách viết về con người, phong tục tập quán, lễ hội, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử … vùng đất Quảng Ninh. Đây có thể xem là cuốn cẩm nang cho những ai muốn khám phá nét độc đáo, vẻ đẹp trầm tích văn hóa của vùng đất địa đầu Tổ quốc. Tuy mới chỉ dừng lại ở những bài viết mang tính giới thiệu khái quát cùng cảm nhận riêng tư dựa trên tư liệu lịch sử, văn hóa và điền dã nhưng đây là nỗ lực đáng ghi nhận của một người viết trẻ. Kế hoạch ra tiểu thuyết đầu tay cũng được anh gấp rút thực hiện vào những ngày cuối năm 2010.


Theo Văn nghệ Trẻ

________________________________________________________

“Ký ức” thơ tình thời lửa đạn

Nguyễn Quang Vinh

- Năm ấy, 1962, đứa trẻ 11 tuổi là tôi đã qua giọng hát của chị ruột mình mà biết đến bài thơ Nhớ của Nguyễn Đình Thi: “Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh... Anh yêu em như anh yêu đất nước... Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước/ Mỗi tối anh nằm, mỗi bữa anh ăn...”.

Lên cấp 2, cấp 3, tình yêu thơ của tôi được tích lũy thêm với những, câu thơ về tình yêu nam nữ trong lửa đạn. Thống thiết và đau thắt thế, anh bộ đội mất vợ vừa cưới, qua thi phẩm Màu tím hoa sim của Hữu Loan. Mạnh mẽ và chất phác quá, cái nguyện vọng của Bạc Văn Ùi trong lý do xin chỉ huy cho về thăm vợ: “Cho tôi đi anh nhé/ Về ôm vợ hai hôm/ Vợ tôi nó sẽ khen/ Chồng em nên người giỏi”. Rồi cuộc chống Pháp thắng lợi, thơ Cầm Giang ngợi ca lứa đôi tràn trề sức sống trong kiến thiết miền Tây Bắc đã được nhạc sĩ Bùi Đức Hạnh nâng cánh: “Em là dòng suối mát/ Anh là núi Mường Hum...”.

Dường như, thơ tình thời chống Mỹ được ghi dấu từ Cuộc chia ly màu đỏ của nhà thơ - liệt sĩ Nguyễn Mỹ, với “Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi/ Như chưa hề có cuộc chia ly” không chỉ dành riêng cho đôi lứa chủ thể của bài thơ ấy, mà là “tuyên thệ tình yêu” của hàng vạn vạn chàng - nàng đồng lứa, thì tình yêu trong thơ chiến trận càng nhiều thêm.

Năm 1969, cuộc thi Thơ của báo Văn Nghệ cho dân tộc một Phạm Tiến Duật tài hoa và sâu sắc, cùng hai “bảng nhãn” là Bế Kiến Quốc - Phan Thị Thanh Nhàn, và cả hai thi sĩ này đều có thơ tình yêu trong chùm bài đoạt giải. Như bài Theo em của Bế Kiến Quốc, sau: “Em về quê ta xa/ Mà đường nhiều bom giặc...” đầy lo âu, đã “Muốn làm một cành xanh/ Ngụy trang em trìu mến/ Làm một tiếng chim lành/ Nhắc em khi giặc đến”. Ôi, yêu đến muốn hóa thân để vì nhau như vậy, còn gì thánh thiện hơn?! Và, rất nữ tính trong thơ, khi nữ sĩ họ Phan ở Hương thầm đã sâu lắng:“Cô gái như chùm hoa lặng lẽ/ Nhờ hương thơm nói hộ tình yêu/ Anh vô tình anh chẳng biết điều/ Em đã đến với anh rồi đấy” trong buổi sang tiễn chàng hàng xóm sáng mai ra trận.

Nhiều, còn nhiều nữa những áng thơ tình trước, trong và sau hai cuộc kháng chiến, mà ta không thể nào quên. Ấy là Bài thơ về hạnh phúc của Dương Hương Ly (Bùi Minh Quốc) viết lúc người vợ - nữ nhà văn Dương Thị Xuân Quý hy sinh tại chiến trường: “Thôi em nằm lại/ Với đất lành Duy Xuyên/ Trên mồ em có mùa xuân ở mãi...” rồi trang nghiêm hứa: “Anh sẽ sống đẹp những gì em chưa kịp sống/ Yêu trọn những gì em chưa kịp yêu/ Em trong anh là mùa xuân náo động/ Từ phút này càng rực rỡ bao nhiêu”.

Như thế đó, bạn của tôi ơi, chứ đâu phải văn học Việt Nam giai đoạn này “chỉ toàn tụng ca - tuyên truyền, không có thơ về cái tôi” như ai đó đánh giá. Đúng là càng gần đây, càng tăng các bài thơ chỉ thuần về tình yêu trai gái, với nhiều cung bậc cảm xúc táo bạo, mà lại ít nằm lại trong tâm trí bạn đọc, chưa kể còn khó có thể “ngâm nga” thành lời. Vì thế, tôi càng quý những “ký ức” thơ tình thời lửa đạn này, nhờ đó mà cả 365 ngày của năm, tôi đều có thơ tình yêu để ngâm nga.

_____________________________________________________

Thứ Tư, 16 tháng 2, 2011

Nghĩ về thơ một vùng đất

LÊ TIẾN DŨNG

Khi nói đến thơ một vùng đất, thường người ta vẫn chú ý nhiều đến những vấn đề như tác phẩm, thể loại, đội ngũ… nghĩa là tất cả những gì tạo nên phong trào thơ của một vùng.

Về những vấn đề này đã có nhiều bài viết. Ở đây, chỉ xin nêu một vài suy nghĩ về những bước tiến của việc nâng cao chất lượng nghệ thuật trong thơ Bình Trị Thiên.

Những năm gần đây thơ Bình Trị Thiên được in ra khá nhiều ở các nhà xuất bản , các báo trung ương và địa phương. Trong số những bài thơ được in có không ít bài dở. Chính những bài dở này đã tạo cho nhiều người có cảm giác chất lượng thơ ngày một giảm sút. Và có phải vì thế mà có những ý kiến cho rằng thơ Bình Trị Thiên thời gian qua không có sự nâng cao nghệ thuật đáng kể nào.

Ý kiến trên chưa hẳn đã đúng. Trước Nguyễn Khoa Điềm trong thơ Việt Nam đã có biết bao nhà thơ lấy cảm hứng từ đề tài đất nước. Nhưng đất nước trong Mặt đường khát vọng vẫn rung động chúng ta sâu sắc. Bởi vì cái mới trong “Đất nước” của anh không chỉ là hệ thống hình ảnh, cảm xúc , sự kiện mà còn chính là ở quan niệm Đất nước trong thơ anh vừa có cái diệu vợi mênh mông của “Bốn nghìn lớp người giống nhau lứa tuổi” làm nên, vừa lại hết sức gần gũi thân thiết. “Là nơi em tắm”, “Là nơi anh đến trường”, “Hài hòa nồng thắm” trong mỗi con người. Với những quan niệm mới mẻ đó, “đất nước” trong thơ Nguyễn Khoa Điềm có đủ lý do để tồn tại lâu bền trong lòng người đọc.

Trên xu hướng đến những quan niệm thẩm mỹ mới về con người và cuộc đời, thơ Bình Trị Thiên đã có những biến đổi đáng kể trong việc khám phá và chiếm lĩnh thực tại. Một số bài thơ “Những đồng chí trung kiên” của Thanh Hải, “Trên đèo Mụ Dạ” của Xuân Hoàng, “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm. “Khoảng trời hố bom” của Lâm Thị Mỹ Dạ đã thể hiện được điều đó. Trong những năm chống Mỹ cái đẹp thơ ngợi ca là cái đẹp của lòng dũng cảm, của ý chí tuyệt đối trung thành và tinh thần sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc. Con người lúc này dẫu kề bên cái chết vẫn lạc quan ung dung:

Hôm sớm đi trên bom nổ chậm
Tưởng chừng như bước giữa đường quê
(Xuân Hoàng - Trên đèo Mụ Dạ)

Đó là hai câu thơ rất tiêu biểu cho quan niệm thẩm mỹ về con người trong thơ chống Mỹ. Sau đại thắng, với một khoảng cách không gian và thời gian rộng rãi hơn đã cho phép nhà thơ sống lại những khía cạnh khác của con người trong cuộc chiến và thể hiện nó một cách đầy đặn hơn. Trong trường ca Những người ở lại Thanh Hải lý giải sự trở thành “Đồng chí trung kiên” của “Những người ở lại” không chỉ là xốc tới, mà có sự đào thải, có vật lộn, đắn đo khi anh nhận ra rằng:

Kháng chiến gian lao, thắng lợi cũng gian lao
… Chiều ở lại không phải chiều vĩnh cửu
Nhưng cuộc đời từ đó cứ nhân lên
Là buổi chiều anh gục xuống
Hay đứng lên trong thử thách

Sau chiến tranh , trở lại đề tài chống Mỹ, thơ Thanh Hải có những dấu hiệu nhìn sâu hơn vào đời sống hiện thực. Tiếc rằng bệnh tật hiểm nghèo đã cướp mất anh quá sớm so với những dự định sáng tác lớn lao của anh về mảnh đất này. Cũng tiếc là vì bề bộn với cuộc sống mới nên thơ Bình Trị Thiên ít có dịp trở lại đề tài này, một đề tài lẽ ra phải là nỗi niềm đau đáu của những người đã sống đã làm ra một thời kỳ vẻ vang của lịch sử.

Viết về cuộc sống mới hôm nay thơ Bình Trị Thiên không tránh khỏi quy luật khắt khe của cuộc đời là nhiều bài rơi rụng. Nhưng trên cái nền chung của những gì còn lại thơ cũng đã có những chuyển biến đáng ghi nhận. Thơ ít chạy theo những cái mới lạ, tân kỳ mà trở về với những đề tài “đời thường”. Thơ nói đến nét vẻ vụng về trên cát của con trẻ, nói đến những ước mong trồng cây đợi ngày hái quả của các bà mẹ. Thơ nói về bông hoa, ngọn cỏ, một cành lộc biếc, một tiếng chim trên đồng, một hạt muối bể. Thơ nói tiếp về những cái hôm qua đã nói và chưa kịp nói nữa. Trở về với đề tài đời thường thơ có khả năng đi sâu vào chỗ tinh vi của nhân cách con người. Trở về đề tài “đời thường” cũng chứng tỏ khả năng tiếp nhận một thực tại mới của nhà thơ, chứng tỏ trình độ tư duy của nhà thơ đủ khả năng khám phá và chiếm lĩnh một hiện thực mới. Thơ đề cập đến mọi khía cạnh của đời sống gắn bó với mỗi cá nhân, mỗi số phận trong xã hội. Dĩ nhiên do đó thơ sẽ đi đến những đòi hỏi về đạo đức, về nhân cách ở mỗi con người. Và cũng vì thế cảm hứng thơ sẽ không thiên về ngợi ca, là cảm hứng phân tích nhân cách trên nhiều cấp độ. Nhiều bài thơ gần đây của Thanh Hải, Xuân Hoàng, Nguyễn Khoa Điềm, Lâm Thị Mỹ Dạ, Hoàng Vũ Thuật v.v… đã chứng minh điều ấy .

Trong Hoa quỳnh khi miêu tả cái “phút giây chợt quên” dễ dàng tiềm ẩn ở mỗi con người. Lâm Thị Mỹ Dạ nhấn mạnh sự đòi hỏi ở mỗi nhân cách là phải sống sao để đừng trôi đi những phút giây quý giá:

Ôi phút hoa hiến dâng
Hồn tôi không kịp hái
Thời gian đâu dừng chân
Một khoảng tôi để quên
Có nghĩa là đã mất

Cũng khắc khoải về thời gian, trong Mẹ và quả Nguyễn Khoa Điềm lại nhấn mạnh khía cạnh công dân của nhân cách con người: phải dành thời gian sao cho kịp thành quả ngọt dâng cho đời, cho những bà mẹ đã sinh thành những thế hệ như anh:

Và chúng tôi một thứ quả trên đời
Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái
Tôi vẫn sợ ngày bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn là thứ quả non xanh

Biết bao là ân tình và trách nhiệm đằng sau cái “sợ” này. Thơ anh đã nói được những băn khoăn sâu xa của cả một thế hệ, một thời đại, mà câu thơ vẫn rất dung dị, rất đời thường như mẹ và quả trên cành. Hoàng Vũ Thuật trong Cây dừa trên mũi đất cửa Tùng lý giải sự tồn tại của mỗi con người hôm nay là sự tồn tại có sức chứa của biết bao người cùng thế hệ đã ngã xuống như bao bóng dừa chìm trong đất đá. Hình tượng cây dừa duy nhất còn lại trên mũi đất Cửa Tùng vừa là chứng nghiệm vừa là đòi hỏi về nhân cách vì thế lay động người đọc thật dữ dội:

Những hàng cây cùng thời đã ra đi
Chỉ một mình cây dừa dừng lại đó
Bao bóng mát chìm trong đất đá
Những hàng cây cùng thời đã ra đi

Những tìm tòi nói trên tuy chưa nhiều nhưng rất đáng trân trọng vì nó đánh dấu sự tiến bộ nghệ thuật, đánh dấu sự phát triển của tư duy nghệ thuật trong quá trình khám phá và chiếm lĩnh thực tại. Nếu đặt trong sự tiến bộ chung của thơ ca Việt Nam thì thơ Bình Trị Thiên vẫn nhịp bước với nền thơ chung trên cả ở trình độ tư duy và phương thức tư duy.

Điều đáng nói nữa là thơ Bình Trị Thiên gần đây đang có những biến đổi về hình thức trong thơ, để tìm cho mình cách nói phù hợp với thời đại mới. Những hình ảnh tượng trưng, những cách nói khoa trương đầy rẫy trong thơ giai đoạn trước đã dần dần nhường chỗ cho những hình ảnh, những cách nói cụ thể gần với thực tại , và vì thế có sức thuyết phục. Tính chất “văn hoa” trong thơ ngày một ít đi. Thơ có xu hướng trần trụi, gần với văn xuôi hơn nhưng sức nặng của nó không vì thế mà giảm sút, trái lại có hiệu quả hơn vì nó bình dị như đời thường vốn có. Chẳng hạn:

Chúng ta không cần sự lặng im
Không có khuôn mặt
Giấu mặt mình sau người khác
Chúng ta không cần sự hô hào
Không gốc rễ với mồ hôi nước mắt
(Nguyễn Khoa Điềm - Nói với bạn bè trong cuộc họp)

Với cách nói không mấy trang sức này thơ đến với người đọc như là tri âm đến với tri âm, tính chất khách sáo vòng vèo trong thơ cũng vì thế mà ít đi.

Những biến đổi như thế trong thơ Bình Trị Thiên những năm gần đây là rất đáng ghi nhận. Tuy nhiên thơ Bình Trị Thiên trong giai đoạn vừa qua cũng còn nhiều điều làm chúng ta chưa thỏa mãn. Còn nhiều bài thơ mà sự sáng tạo của người nghệ sĩ không có bao lăm với những ý tứ mòn cũ. Cuộc sống được miêu tả trong thơ mới chỉ là những cái bóng mờ nhạt. Cắt nghĩa điều này có người cho là nhà thơ thiếu thực tế. Lý do có lẽ không chỉ đơn giản như vậy. Bài thơ nào mà chẳng ít nhiều mang một dáng dấp, một hơi thở của cuộc sống. Cái chính là nhà thơ chưa sáng tạo được quan niệm thẩm mỹ mới. Cho nên dù thay đổi đối tượng miêu tả và thời điểm trữ tình mà thơ vẫn chỉ lặp lại những cảm xúc sáo mòn, những ý tưởng cũ càng. Điều đó cũng giải thích vì sao, chẳng hạn, nhiều bài viết về những nhà máy khói tỏa sau ngày giải phóng mà ta vẫn có cảm tưởng như đọc một bài thơ viết về những “nhà máy rộn ràng khói trắng” đâu đó ở miền Bắc trong những năm đầu đi lên chủ nghĩa xã hội. Gần đây như để đền bù cho những sự sáo mòn đó, chị Lê Thị Mây đã tả khói nhà máy thật độc đáo. Cái táo bạo của sự so sánh đã làm chúng ta ngạc nhiên đến sững sờ:

Bên này sông nhà máy xi măng cuộn khói
Như khói thuốc chàng trai
Sau ca ba vẫn dư tràn sức lực
Trong một tình yêu hết mình
(Lê Thị Mây - Tả chân)

Viết về sức trẻ , về khí thế lao động của nhà máy như thế có lẽ không cần phải nói gì thêm nữa. Có điều rút ra là nếu không có một quan niệm mới về nhịp điệu của cuộc sống hiện đại thì chị Lê Thị Mây không viết được những câu như thế. Điều này cũng nói lên rằng nhà thơ phải sáng tạo ra quan niệm thẩm mỹ mới, chứ không chỉ đơn giản miêu tả lại thực tại mới. Chỉ miêu tả lại thực tại mới, nhiều lắm thơ chỉ vẽ được cái khung thôi mà người đọc cần bức tranh hơn chứ không phải là cái khung.

Ở giai đoạn trước thơ gắn với việc ngợi ca những con người xả thân hy sinh vì đất nước, sống vì đất nước nên âm điệu thơ nói chung gắn với các khúc ca. Các nhà thơ đã bắt đúng cái giọng chính yếu đó của thời đại mà “cất cao tiếng hát, ca ngợi trăm lần tổ quốc chúng ta”. Sau 1975 thơ đứng trước một đối thể mới , nhà thơ phải chọn được giọng điệu phù hợp, chứ không phải chỉ là đặt lời mới cho các khúc hát cũ. Tiếc rằng thơ Bình Trị Thiên vẫn còn bài chưa nắm bắt được giọng điệu của một thực tại mới. Vẫn còn nhiều nhà thơ say sưa với những lời ru quá dịu ngọt. Do vậy mà thơ ít thuyết phục, ít đến được với người đọc. Trong một buổi tọa đàm nhân cuộc thi thơ của tuần báo Văn nghệ 1981-1982, Hà Minh Đức cho rằng: “Trong lúc cuộc sống trăn trở nhiều, thơ chưa kịp đổi mới mà vẫn còn bay bổng thi vị hóa một cách dễ dãi, vì thế công chúng không thích đọc thơ” (Văn nghệ số 38-1982). Đó cũng là ý kiến đúng cho nhiều bài thơ Bình Trị Thiên. Rõ ràng trước một thực tại mới thơ không nên chỉ là hát mục ca hoặc khúc ca điền viên về “đụn rơm vàng đầu ngõ, đàn gà ăn trước sân”, “khoai ôm đầy ngực thơm”, về những “nhà mới thêm tầng”, “gió thêm ô cửa thêm gần đấy đây”, hay những đàn gia súc béo tròn , những khoang thuyền đầy cá… mà thơ cần phải trăn trở nhiều hơn nữa. Có như vậy, thơ mới làm tròn chức năng “nhân học” của mình. Trước hiện thực, nhà thơ không chỉ nhận thức cho mình mà còn nhận thức cho đời nữa. Nhà thơ phải vượt qua “hai lần khó” đó như đồng chí Tố Hữu đã có lần chỉ ra. Nhà thơ phải nhập cuộc hơn nữa, phải sống hết mình, chứ không phải nhởn nhơ bên cạnh người lao động:

Tiếng còi tầm nhà máy dắt vào ca
Tôi gặp em bên hầm đá nóng
Tôi gặp em dưới trời bụi trắng
Em lặng im mà mặt đất chuyển rung.

Những câu thơ như thế thật khó tìm được tri âm. Và cả những cách nói, cách nghĩ dễ dãi như thế này cũng ít được người đọc chấp nhận :

Em là biển nên không hề nông cạn

Hay:

Hạt nào chẳng mộng chồi tơ v.v…

Những cách viết như vậy ít lượng thông tin đã đành mà cũng không mấy gợi cảm. Tiếc rằng những câu như thế lại không phải ít trong thơ những năm gần đây.

Cuối cùng cũng cần nói thêm về cách diễn đạt trong thơ, có cách diễn đạt được dùng đi, dùng lại quá nhiều ở nhiều bài thơ, chẳng hạn dạng kiểu “Tôi đi”. “Tôi đi giữa mùa thơm của lúa”, “Anh cùng tôi ra phía bờ sông”, “Tôi lại về đất Huế đã sinh tôi”, “Tháng tư, tôi trở lại thành phố Lê Hồng Phong”, “Ta lại về mảnh đất quê ta”, “Em trở lại nơi xưa”, “Tôi tìm lên - Khúc sông xưa đã sinh thành câu hát” v.v… ở đây không chỉ đơn thuần là cũ mòn trong diễn đạt, mà còn là sự cũ mòn trong cảm xúc. Với những bài thơ bắt đầu bằng những câu như trên thường bao giờ cảm xúc cũng theo một mô típ giống nhau là “Tôi đi (hoặc em về, Anh đến)” “Bắt gặp - cảm xúc, suy nghĩ”. Bất cứ một cách diễn đạt nào, cảm xúc nào cũng có những ưu thế và hạn chế của nó. Quá lạm dụng một kiểu nào cũng dễ làm cho thơ trở nên sáo mòn và tạo ra cảm giác giống nhau ở nhiều bài. Đó là chưa kể đọc những câu thơ trên ta có cảm tưởng như bắt gặp lại một câu thơ cũ nào đó “Tôi lại về quê mẹ nuôi xưa” hoặc “Anh cùng em sang bên kia cầu” v.v…

Về thơ Bình Trị Thiên có lẽ còn nhiều điều đáng nói, đáng bàn nữa, cả những điều hay lẫn những điều chưa thật hoàn chỉnh. Trong nhiều điều đáng nói đó, chúng tôi mạnh dạn nêu lên một vài điều, dẫu ít ỏi nhưng với ước mong thiết tha là sao cho thơ ở mảnh đất miền Trung dữ dội này có thể bù đắp những gì mà thiên nhiên đã quá khắt khe với con người. Chúng ta cũng hy vọng rằng với những gì đã có thơ Bình Trị Thiên sẽ ngày càng khẳng định mình, xứng đáng với một vùng đất đã sinh ra nó, xứng đáng với một vùng văn hoá của cả nước.

__________________________________________________