Thứ Bảy, 28 tháng 5, 2011

Khối trầm

Truyện ngắn của LÊ CÔNG DOANH

Chuyến đò dừng lại ở bến cuối cùng khi mặt trời vừa khuất sau rặng tre bên kia sông. Hiếu nhảy lên bờ và bước đi trong cảm giác chòng chành bởi gần trọn một ngày phải ngồi bó chân trong khoang đò chật.

Trong đầu Hiếu như có một khối u lớn lắc lư, chao đảo, nặng nề. Khối u ấy từng lúc lớn dần lên, xâm chiếm hết mọi ý nghĩ của Hiếu … Anh lắc mạnh đầu để định thần. Nhắm mắt lại, Hiếu thấy những tia sáng đủ màu nở tung tóe từ một cục than cháy đỏ cứ lớn mãi, lớn mãi…

Hai bức màn đã ngả màu kéo sát vào nhau che kín gian giữa ngôi nhà dùng làm nơi thờ phụng. Phía trong cùng của gian giữa ấy là bàn thờ cha Hiếu. Ông Thiệt chết nhưng không để lại tấm ảnh nào. Thay cho chân dung ông là một khối gỗ hình tháp được phủ quanh bởi một tấm khăn nhiễu điều. Màu tấm khăn đỏ rực như cục than trong đầu Hiếu …

Anh thấy đầu mình đang nóng ran như trong một cơn sốt váng vất. Mà Hiếu đang sốt thật. Đầu anh ai đã đeo chì vào đó. Hiếu không nhớ rõ từ lúc nào trong đầu hiện diện cái khối u đỏ quái ác ấy. Cứ đến lúc người ta bàn tán nhiều về chuyện trầm thì cái khối đó lại hiện lên. Hiếu đang khổ sở vì cục than cháy đỏ trong đầu… Suốt mấy đêm ở dưới phố, Hiếu không làm sao chợp mắt được.

Trừ những ngày lễ hay kỵ giỗ, chẳng mấy khi bà Thiệt cất tấm khăn điều ra khỏi khối gỗ thờ chồng. Đối với Hiếu, bên trong khối gỗ ấy chứa đựng biết bao nhiêu điều kỳ bí mà Hiếu chưa thể giải thích được. Để khối hình bầu dục được đẽo gọt cẩn thận nhưng bên trên thì hầu như không có sự trau chuốt của bàn tay con người. Những khi vào thắp hương cho cha rồi chăm chú nhìn khối gỗ đã lên nước đen bóng, trí tưởng của Hiếu lại chồng chất lên nhau biết bao hình thù mà Hiếu đã từng bắt gặp ở đâu đó. Không có một hình ảnh nào đọng lại lâu để có thể xác định được rằng khối gỗ ấy nhằm biểu hiện một cái gì. Có khi nó là những đốt xương được đặt chồng lên nhau không tuân theo một trật tự nào và vì thế nó mang một hàm ý bí hiểm luôn gây nên sự tò mò. Có khi nó giống những cột thạch nhũ đang cao dần lên mãi hoặc trông tựa những vách đá dựng đứng giữa trời để thách thức gió mưa…

Hồi chưa lớn lắm, có một lần mải nhìn khối gỗ, mặt Hiếu ghé sát vào nó lúc nào không hay. Một thứ hương thơm phảng phất trong gian thờ mà thoạt tiên Hiếu ngỡ là của nhang khói đang nghi ngút cháy. Nhưng rồi Hiếu đã nhận ra đó là một mùi hương rất lạ… Như bị lôi cuốn bởi một sức mạnh huyền bí, bất giác Hiếu đưa tay gõ nhẹ vào khối gỗ làm phát ra một tiếng kêu khô và chắc. Từ đầu ngón tay như có một luồng điện truyền nhanh qua các mạch máu rồi lan khắp cơ thể. Hiếu rùng mình bởi một cảm giác rờn rợn pha lẫn giữa kinh ngạc và sợ hãi. Hiếu rụt tay lại và thấy trước mắt khối gỗ bỗng nhòa đi. Anh nhớ lại hình ảnh của một ngôi nhà bằng cát được trẻ con xây lên rồi sóng biển ùa vào cuốn trôi tất cả. Sau lần đó, mỗi khi vào đứng trước bàn thờ cha, với tất cả vẻ trang nghiêm và tôn kính Hiếu cố tìm lại mùi hương kỳ lạ ấy. Một đôi lần, bằng một cảm giác nào đó thật mơ hồ, Hiếu nghe mùi hương quanh quẩn bay. Như một người vừa phát hiện ra vẻ đẹp kỳ diệu của một tác phẩm điêu khắc đầy ẩn ý, Hiếu chỉ đứng chiêm ngưỡng khối gỗ từ xa mà không hề có ý nghĩ rằng sẽ sờ tay vào nó thêm một lần nữa.

Lớn lên, Hiếu vẫn không hiểu thật rõ vì sao trong khối gỗ vô tri ấy lại tiềm ẩn một sợi dây vô hình mà luôn luôn sống động, đã nối chặt vào nơi sâu kín trong tâm hồn Hiếu một cái gì đó thật thiêng liêng… Những năm chưa thoát ly lên rừng, mỗi lần thấy mẹ đứng trầm ngâm trước khối gỗ, lòng Hiếu lại lắng xuống và khi ấy anh cố hình dung về người cha đã khuất. Chỉ tiếc ngày ông Thiệt hy sinh, Hiếu chưa đủ trí khôn để ghi nhận hình ảnh của cha cho trọn vẹn. Bằng linh cảm, Hiếu thừa nhận sự tồn tại của khối gỗ khác với những đồ vật hiện hữu trong ngôi nhà mình. Khối gỗ là một cái gì khác thường… Khối gỗ có tấm khăn nhiễu đỏ phủ kín… Màu khăn như cục than đang cháy trong đầu Hiếu.

Qua con dốc thứ hai, đầu Hiếu muốn chúi về phía trước. Khối gỗ lại hiện ra và nặng như đá. Đầu gối Hiếu đã mỏi nhừ nhưng anh không muốn nghỉ. Từ đây về đến nhà, Hiếu phải leo thêm bốn con dốc nữa. Nhà Hiếu ở tận cuối làng. Hiếu nhớ con đường từ bến đò xóm Thượng dẫn về nhà mình trước đây chỉ lưa thưa vài chục mái tranh nằm cheo leo giữa một vùng đồi rộng và dài hút tầm mắt, bây giờ đã có nhiều hàng quán mọc lên dọc theo hai bên đoạn đường này để làm nơi nghỉ chân cho dân đi trầm và bọn lái. Chiều chiều, dân tứ chiếng từ rừng về, từ phố lên tụ tập mua và nghe ngóng tình hình. Những cuộc say có thể kéo dài tới khuya sau một chuyến đi may mắn. Dưới gốc cổ thụ nơi ngã ba đường, không biết từ lúc nào trở thành nơi cúng tạ cố mệ…

Từ độ người ta đổ xô nhau lên rừng tìm trầm, thanh niên trong làng Hiếu cũng thưa dần đi. Riêng Hiếu thì không lúc nào được yên. Sau nhiều lần âm thầm dò hỏi, Hiếu biết được giá trị của khối gỗ mà mẹ con anh đang có. Bây giờ, con nít còn thò lò mũi ở làng Hiếu cũng đã nói chuyện đi trầm. Làm sao Hiếu ngồi yên được khi cả làng như đang lên cơn sốt… Người đi rừng cả chục năm chưa chắc được cố mệ cho một cội tốt như loại của nhà Hiếu. Đi đâu, Hiếu cũng nghĩ về khối trầm. Những khi nghe rừng động lâu ngày hoặc hàng đang khan Hiếu lại càng lo lắng. Đôi khi đang làm việc, Hiếu chợt giật mình nhớ tới khối gỗ đang nằm trong ngôi nhà vắng. Mấy hôm ở dưới phố Hiếu sốt ruột mong mau xong việc để lên nhà. Một mình bà Thiệt giữa đêm hôm mà cửa ngõ nhà Hiếu có lấy gì làm chắc. Dạo gần đây, đi đâu khoảng vài ba ngày là lòng Hiếu cồn cào khó chịu. Về đến nhà việc đầu tiên là Hiếu đến vén bức màn lên để nhìn vào bàn thờ cha. Mỗi ngày, Hiếu nhìn vào đó không biết bao nhiêu lần nhưng tuyệt nhiên không có lần nào Hiếu nghe trở lại mùi hương phảng phất trước đây. Lâu dần Hiếu không còn quan tâm đến điều đó nữa. Nhưng bà Thiệt thì chú ý cử chỉ lạ lùng của Hiếu. Có điều bà chẳng hề nói gì. Hiếu lấy làm lạ vì không nghe mẹ nói tới khối trầm quý giá. Bà như không biết rằng giá trầm đang tăng lên vùn vụt và khối gỗ trở thành nỗi lo của Hiếu … Giữ của quý trong nhà thật đúng là của nợ, Hiếu nghĩ vậy và định bụng sẽ nói với mẹ về điều lo lắng của mình.

Lên đến lưng chừng con dốc thứ ba, Hiếu thấy đất dưới chân như đang trượt đi. Một cơn lạnh chạy dọc sống lưng làm Hiếu nghĩ ngay đến cơn sốt rét rừng thỉnh thoảng vẫn trở lại hành hạ Hiếu. Nếu là sốt rét thì mình cũng không lo lắm. Sẽ qua ngay thôi. Hiếu tự nhủ rồi bấm mấy đầu ngón chân cố dấn bước.

- Chú Hiếu!

Tiếng gọi bất ngờ làm Hiếu giật nẩy người. Hiếu quay lại và thấy lão Tưng đang khật khà khật khượng.

- Đi đâu mà vội thế… Vào đây, làm một ly rồi về… chú! Giọng lão Tưng lè nhè.

- Dạ, cho cháu xin khi khác. Cháu đang mệt lắm, phải về ngay thôi… Hiếu gỡ bàn tay hộ pháp của lão ra khỏi vai mình.

- Không được… chú phải vào đây đã. Mụ Mập ơi, lấy thêm cái ly…

Lão Tưng không chịu buông. Thấy giằng co giữa đường không tiện, Hiếu thấp giọng một lần nữa:

- Cháu đang sốt mà trời thì tối rồi! Để mai vậy.

- Đã bảo không được là không được. Bộ chú không muốn ăn mừng với tôi à?... Nhờ ơn cố mệ, tôi vừa kiếm được chút ít… Hà, hà… lão già này còn say dài dài… Nói thiệt, chú cũng nên đi một chuyến…

- Bác nói thế chứ sức vóc như cháu thì làm gì được.

- Ấy, sao lại không? Chú không đi xâu như tôi được thì có cách khác. Làm việc như chú, kiếm cái giấy có khó gì. Sống nhờ vào ba đồng lương nhà nước biết đến bao giờ cho hết cực.

Hiếu bắt đầu ngờ ngợ. Ai bảo giọng lưỡi ấy là của người say? Lần trước gặp lão, Hiếu cũng đã nghe lão nói thế.

- Cũng khó chứ bác! Nói vậy chứ ai làm việc cho bây giờ? Hiếu trả lời để thăm dò.

- Dào, khó gì chuyện ấy. Cái quan trọng là ở đây này! Lão vừa cười vừa vỗ vỗ vào túi áo.

Giằng mạnh khỏi tay lão Tưng, Hiếu cắm đầu bước. Nếu không vì có họ hàng xa Hiếu đã cho lão một đạp nên thân. Lão Tưng đứng tựa lưng vào cửa quán nói với theo một cách hằn học:

- Hừ, danh giá gớm! Gì chứ giữ thứ ấy thì như giữ của nợ thôi con à!

Hiếu bỗng chột dạ. Lão bảo cái gì là của nợ? Ai thắp lại cục than trong đầu mình rồi. Đoạn đường trước mắt như muốn dài thêm. Hiếu nhấc chân không muốn nổi, mấy lần anh suýt đâm vào bụi cây bên đường. Lão già ma ám này có gì mà nói bóng nói gió như thế. Ôi chao, cục than quái quỷ ở trong đầu…

***

Xô cánh cửa bước vào nhà, Hiếu thấy phía sau bức màn ngọn đèn dầu đang cháy tù mù. Vén bức màn lên, dụi mắt đến lần thứ hai Hiếu vẫn chưa tin là khối trầm đã biến mất, dưới bát hương đang tỏa khói, tấm khăn đỏ đã được xếp ngay ngắn. Hiếu cầm tấm khăn chạy bổ trở ra. Vừa lúc bà Thiệt từ dưới bếp đi lên.

- Mẹ bán được mấy? Hiếu hỏi như người hụt hơi.

Bất ngờ trước câu hỏi của con, bà Thiệt sững sờ nhìn Hiếu. Nhưng bộ mặt thất thần và chiếc khăn trên tay Hiếu giúp bà hiểu ra mọi chuyện. Hiếu đợi mẹ trả lời vừa cố nghĩ xem mẹ đã bán khối trầm cho ai. Hiếu vừa lo vừa bực. Mẹ có biết gì về giá cả đâu mà đem bán khối trầm ấy đi. Ma xui hay sao mà mình về chậm thế này… Bà Thiệt vẫn lắng thinh bất động. Tự nhiên Hiếu đâm hoảng trước thái độ của mẹ. Tai Hiếu ù lên và văng vẳng tiếng cười của lão Tưng…

Bao nhiêu dự định của Hiếu phút chốc đã tan thành mây khói. Cổ họng Hiếu muốn kêu lên một tiếng nhưng không được… Những đêm dưới phố, Hiếu đã tính toán kỹ mọi chuyện cả rồi. Hiếu định chuyến này lên sẽ bàn với mẹ gọi người tới bán khối trầm. Có bao nhiêu việc cần đến tiền mà Hiếu không thể xoay ở đâu ra. Bán đi, vừa được tiền vừa khỏi lo mất… Cục than trong đầu đang nhảy nhót và chực nhảy ra ngoài… Khối trầm bây giờ ở đâu? Hiếu cố suy nghĩ. Sau khi bán khối trầm xong, Hiếu tính sẽ mua một cái bài vị để thờ cha. Chuyện thờ phụng thì cốt ở tấm lòng mình nghĩ đến chứ quan trọng gì ở mấy thứ đồ thờ. Mà cũng thật lạ đời khi người ta đang sẵn sàng bỏ xác vì trầm còn mình thì nơm nớp giữ của … Hiếu định thuyết phục mẹ bằng những lý lẽ ấy … Hiếu vò chiếc khăn đỏ ở trong tay…

- Mẹ cất rồi… Nhà cửa mình vắng vẻ quá! Cuối cùng bà Thiệt đã lên tiếng.

Hiếu cố giấu một tiếng thở mạnh ở trong lồng ngực. Không khí lại im lặng thêm một lúc. Yên tâm vì khối trầm không mất, Hiếu lẳng lặng ngồi xuống tấm phản. Bà Thiệt bước vào gian thờ thắp hương cho chồng. Trong thâm tâm Hiếu mong mẹ sẽ nói điều ấy ra. Cái điều mà lâu nay làm Hiếu mất ăn mất ngủ. Rồi Hiếu sẽ trình bày với mẹ tất cả dự định của mình.

- Hôm qua, thằng Vui con chú Sáu đi trầm về báo với mẹ là nó tình cờ tìm thấy mộ cha con… giọng bà Thiệt vọng ra, cố giấu một nỗi xúc động.

Bất giác, Hiếu quay mặt lặng nhìn vào bàn thờ. Hiếu nghe mẹ đang lầm bầm những câu gì không rõ. Cái tin quá bất ngờ. Hiếu không biết nói gì mặc dù anh rất muốn bày tỏ một nỗi cảm xúc vừa trỗi dậy trong lòng mình. Khi bà Thiệt bước ra, Hiếu thấy trong ánh mắt mẹ long lanh giọt nước mắt. Hiếu hiểu đó là niềm vui của mẹ anh. Hiếu nhớ, cũng ánh mắt ấy đã nhìn anh trở về, đón nhận anh trong ngôi nhà yên ấm này. Mới đó mà đã gần mười năm rồi. Ngày ấy, khi mẹ Hiếu khóc mừng anh nguyên vẹn thì anh cũng nhận ra một nỗi mất mát không thể nào bù đắp được trong cuộc đời của mẹ. Ông Thiệt hy sinh khi Hiếu còn nhỏ dại. Ông ra đi không gặp mặt vợ con. Từ đó đến nay, mẹ con Hiếu vẫn không biết được mộ ông nằm ở đâu. Bao nhiêu năm tìm kiếm và mong đợi, Hiếu biết mẹ vẫn chưa một lần thất vọng. Bà Thiệt tin sẽ đưa nắm xương của chồng về với mảnh đất làng như bà đã tin rằng vong linh chồng vẫn luôn phù hộ cho đứa con duy nhất của bà bình yên đi qua cuộc chiến tranh. Phút chốc, lòng Hiếu lắng xuống. Những gì tưởng đã trôi qua cùng năm tháng bận rộn chợt trở lại. Bây giờ trong tâm trí Hiếu chỉ còn một ý nghĩ: nắm xương của người cha đã khuất…

Đêm ấy, hai mẹ con bàn định ngày lên rừng cải táng mộ cho ông Thiệt. Hiếu hình dung đến mảnh đất khốc liệt mà cha anh đã ngã xuống. Hiếu lờ mờ nhớ lại ngày anh còn nhỏ, nhiều đêm giật mình tỉnh dậy vì tiếng súng vọng về từ một nơi nào đó, anh thấy mẹ ngồi trầm ngâm rồi dỗ anh trở lại với giấc ngủ. Lâu rồi, hình như anh đã quên hình ảnh đó.

- Mẹ định làm mâm cơm cúng cha con rồi nhờ vài người nữa cùng đi. Chuẩn bị mọi thứ xong, ngày mốt sẽ đưa cha con về…

Hiếu ngã lưng trên tấm phản mát lạnh. Anh nhắm mắt lại nhưng không còn thấy cục than cháy đỏ nữa. Trong đầu Hiếu, cục than đã nguội tắt từ lúc nào không rõ, chỉ còn lại nguyên vẹn một khối gỗ đen tuyền hình tháp nhọn. Một cảm giác quen thuộc trở lại. Hiếu nhớ rất rõ cảm giác ấy, khi anh bất chợt gõ tay vào khối gỗ. Hiếu mơ hồ cảm nhận một mùi hương rất quen đang phảng phất trong gian nhà ấm cúng. Hiếu thiếp đi… Trong giấc mơ, Hiếu thấy mình lạc vào một cánh rừng bạt ngàn cây gió. Nơi ấy, cha anh yên nghỉ giữa không gian ngào ngạt mùi trầm hương tinh khiết…

***

Hiếu mở mắt nhìn lên bầu trời rộng và xanh tái dưới ánh trăng hạ tuần được lọc qua vô vàn hạt sương li ti màu trắng đục… Một mùi hương rất đậm vừa đi qua đánh thức giấc ngủ mệt nhọc của Hiếu rồi tan biến vào không gian vô tận. Hiếu thở thật sâu cố tìm lại mùi hương vừa thoảng qua. Anh tin nó đang còn ở đâu đây… Có lẽ nó còn vương trên những ngọn cây trơ trụi kia và đang chờ cơn gió tới. Những ngọn cây bị chém ngang hoặc đã trụi lá, đen sạm lại bởi thuốc khai quang trong xanh như những bàn tay xương xẩu gân guốc chĩa thẳng vào không trung yên tĩnh.

Tiếng thở đều đặn của mấy người bà con nằm bên cạnh giúp Hiếu nhớ lại công việc của suốt ngày hôm nay. Chung quanh yên lặng. Tiếng con suối róc rách trườn đi dưới chân núi nghe như hồi âm của một thế giới xa xôi và kỳ bí đang ru muôn loài ngủ yên bằng điệu nhạc muôn thuở của mình. Không khí trong sạch và lành lạnh làm Hiếu tỉnh táo. Anh cảm thấy sảng khoái vì được nằm dưới chân núi ngắm bầu trời cao và rộng sau một ngày gắng sức bốc cho xong nấm mộ. Không có mấy người bà con, đến mai chưa chắc mẹ con Hiếu đã xong việc… Hiếu lại nghĩ đến phần mộ mới của cha anh. Ngày mai cha anh sẽ về với mảnh đất làng… Điều mong ước lâu nay của bà Thiệt …

Theo hướng gió, Hiếu quay mặt về phía có mùi hương vừa bay đến. Anh định kìm lại để khỏi kêu lên vì kinh ngạc. Bà Thiệt đang ngồi bên chiếc tiểu đã mở nắp đựng hài cốt chồng. Hiếu nhớ, hồi chiều chính tay anh đã đậy nắp chiếc tiểu lại… Trước mặt bà Thiệt, ngọn nến cắm trên một khúc cây nhỏ đang lung linh cháy. Cách bên trái bà Thiệt một bước chân là miệng huyệt lởm chởm đất chưa được lấp lại. Bên dưới ngọn nến những thẻ gỗ màu đen bóng xếp chồng lên nhau. Bà Thiệt đều đặn nhón tay nhặt từng thẻ hơ qua ngọn nến rồi nhẹ nhàng đặt vào lòng chiếc tiểu. Từng thẻ gỗ sủi bọt và mùi hương tràn ngập cả không gian quanh đó… Tự dưng, giọt nước nóng hổi ứa ra bên khóe mắt Hiếu. Anh ngước mặt lên bầu trời rộng, vầng trăng lay động rồi nhòa đi, tanh thành vô số những mảnh vụn long lanh. Khi Hiếu quay lại phía chiếc tiểu thì không còn một thẻ gỗ nào nữa. Bà Thiệt ngồi bất động, bóng đổ xuống mặt đất một màu tối sẫm. Hiếu nghĩ đến khối trầm… Khuôn mặt lão Tưng hiện lên méo mó như được nhìn qua một tấm gương nhòe nhoẹt nước mưa.

L.C.D.
______________________________________________________

Nhà thơ Quách Tấn: Mấy chục năm qua giấc mộng dài

Phạm Khải

Trong nhóm thơ Bình Định mà thiên hạ suy tôn là nhóm "Long, lân, qui, phụng", nếu như Hàn Mặc Tử được ví với "long" (rồng), Yến Lan được ví với "lân", Chế Lan Viên được ví với phụng (phượng hoàng) thì Quách Tấn được ví với "qui" (tức rùa).

Quả thật, khó tìm loài vật nào trong nhóm "tứ linh" nói trên ứng với đời thơ Quách Tấn hơn loài rùa. Rùa vừa là biểu tượng của sự trường thọ, vừa của sự lặng lẽ, trầm tích chiêm nghiệm, mà về điểm này, Quách Tấn xem chừng "nổi trội" hơn các bạn thơ cùng nhóm. Sinh năm 1910, mất năm 1992, Quách Tấn là người thọ nhất trong nhóm thơ Bình Định, cũng lại là người có phong cách ổn định, giọng thơ thâm trầm, kín đáo, ít thay đổi hơn cả.

Quách Tấn bắt đầu làm thơ khi trên mặt bể thi ca chưa hề cuộn lên ngọn sóng báo hiệu phong trào Thơ Mới sắp ập tới. Cùng với Hàn Mặc Tử, ông chỉ chuyên làm thơ Đường luật. Cả hai thi nhân, mặc dù ở "đuôi thơ" cũng đã quẫy lên cái ánh của Thơ Mới, song nếu như sau này, con tằm Hàn Mặc Tử đã chịu thoát xác thành một cánh bướm tài hoa của phong trào Thơ Mới thì con tằm Quách Tấn vẫn giam mình trong cái kén, bền bỉ nhả ra những sợi tơ óng chuốt mang đậm sắc thái cổ điển. Hàn Mặc Tử từng nhiều lần thúc giục Quách Tấn làm Thơ Mới. Về việc này, Quách Tấn có quan điểm riêng. Ông ví mình như con tuấn mã và nói với Hàn Mặc Tử: "Con linh dương phải thả nơi gò rộng rừng thẳm, để được chạy nhảy tự do thì trông mới đẹp. Còn con tuấn mã phải có cương vế vững vàng mới có những nước phi nước kiệu tuyệt luân và chạy một ngày nghìn dặm. Cho nên không nên thắng yên cương vào con linh dương, và buông lưng con tuấn mã" (theo "Bóng ngày qua" - tập hồi ký của Quách Tấn, NXB Hội Nhà văn, 1998).

Thời gian đầu đến với thơ, Quách Tấn đã lọt được vào "mắt xanh" của thi sĩ Tản Đà (khi ấy đang là chủ biên An Nam tạp chí). Năm 1939, Quách Tấn cho xuất bản tập thơ đầu tay "Một tấm lòng", Tản Đà đã kịp viết cho nhà thơ đàn em lời tựa trước khi tiên sinh qui tiên, trong đó tiên sinh không ngần ngại buông lời nhận xét: "Thật là tài tình đủ vẻ. Ngoài ra nhiều bài mới thấy trong tập này, cũng có nhiều câu giai tác".

Không thể nói Quách Tấn tài thơ thâm hậu, bút lực dồi dào và gây được ảnh hưởng sâu rộng trong công chúng hơn Tản Đà. Song ông may mắn hơn Tản Đà ở chỗ: Tản Đà từng bị coi là đại diện cho "thành lũy" của lối thơ cũ cần phải công phá, còn Quách Tấn - khi cho xuất bản tập thơ đầu tay, cuộc chiến đã ngã ngũ với phần thắng vang dội thuộc về các đại diện của phong trào Thơ Mới. Những người chiến thắng cũng bắt đầu tỏ ra có cái nhìn "đại lượng" hơn trước sự xuất hiện của "người chiến binh đơn độc" là Quách Tấn lúc bấy giờ. Vả chăng, cái chết của Tản Đà trước đó ít tháng cũng khiến nhiều người từng có thái độ quyết liệt, thậm chí tàn nhẫn với ông trước kia nay bỗng thấy ân hận và muốn bày tỏ niềm cảm thương… Bởi thế mà "Một tiếng lòng" xuất hiện, phái Thơ Mới không còn mấy người hào hứng lên tiếng bỉ bác, trong khi tập thơ cũng thu lượm được không ít lời biểu dương từ những người còn nặng nợ với thơ cũ. Việc thi sĩ Hàn Mặc Tử viết lời bạt cũng được xem là… lá bùa cần thiết để "Một tấm lòng" có được chỗ ngồi yên ổn trên thi đàn.

"Đầu xuôi đuôi lọt", chỉ hai năm sau, Quách Tấn tiếp tục cho trình làng một tập thơ làm theo "lối cũ" - lần này ông đặt thẳng tưng cái tên "Mùa cổ điển" và - cũng như "Một tấm lòng" - tập thơ đã được một trong những chủ tướng của phong trào Thơ Mới là Chế Lan Viên viết lời tựa. Nếu như với "Một tấm lòng", những người yêu thích Thơ Mới thể hiện thái độ "ưu ái" của mình bằng sự… im lặng, thì với "Mùa cổ điển", họ bắt đầu tấm tắc cất tiếng khen.

Tất nhiên, để cả thi đàn không ác cảm, thậm chí còn có động thái nghênh đón hai tập thơ vốn dĩ được xem là "lạc điệu" với thời đại cũng còn bởi người ta đã ít nhiều tìm thấy trong đó một chút gì như thể hồn xưa dân tộc. Đi kèm với đó là thái độ làm nghề nghiêm túc của tác giả, thể hiện qua những câu thơ được mài giũa công phu, luôn ánh lên nét đẹp cao sang, hoàn mỹ:

Lụy nhớ mưa ngàn tuôn nượp nượp
Tóc thề mây núi bạc phơ phơ
(Bài "Đá vọng phu").

Bồn chồn thương kẻ nương song bạc
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng?
(Bài "Đêm thu nghe quạ kêu").

Cung quế im lìm mây ấp nguyệt
Song đào âu yếm gió hôn hoa
(Bài "Trời khuya")

Hồ im vẻ ngọc mơ duyên lá
Sân vén rèm hoa đón ý xuân
(Bài "Đêm mơ")

Vì là người làm thơ theo lối cũ nên Quách Tấn rất quan tâm tới sự đăng đối. Như nhiều người, ông mê bài "Thăng Long thành hoài cổ" của Bà Huyện Thanh Quan, song với hai câu trác tuyệt: "Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/ Nền cũ lâu đài bóng tịch dương" của nữ sĩ, ông vẫn có điều chưa thuần phục. Ông viết: "Chữ bóng mà đối với chữ hồn thì thật là chỉnh, song bóng tịch dương đối không xứng với hồn thu thảo. Bởi chữ hồn chứa đựng không biết bao tình ý, làm cho thu thảo trở thành vật linh thiêng. Còn chữ bóng chỉ làm anh hầu điếu trắp chớ không thêm uy lực gì cho tịch dương cả". Có thể không mấy người tán thành cách nhìn nhận của Quách thi sĩ trong trường hợp nêu trên, song không thể không thừa nhận hai câu "Lụy nhớ mưa ngàn tuôn nượp nượp/ Tóc thề mây núi bạc phơ phơ" của ông là hai câu đối rất chỉnh, có thể xếp vào hàng mẫu mực. Chưa kể, về mặt liên tưởng, nó rất mới mẻ, độc đáo, giàu sức biểu cảm. Chế Lan Viên từng có lúc muốn đánh đổi cả tập thơ "Điều tàn" lấy hai câu thơ này và xem đó là "những câu thơ đẹp nhất mà văn chương Việt Nam có thể có".

Sau "Một tấm lòng" và "Mùa cổ điển", Quách Tấn lần lượt cho xuất bản các tập: "Đọng bóng chiều" (1961), "Mộng Ngân Sơn" (1966), "Giọt trăng" (1973). Sau khi thi nhân tạ thế, có hai bản thảo thơ của ông tiếp tục ra mắt bạn đọc, đó là tập thơ viết cho thiếu nhi "Vui với trẻ em" (1994) và "Trăng hoàng hôn" (1999), ngoài ra là một số tập được in gộp trong cuốn "Quách Tấn - tuyển tập thơ" do ông Quách Giao - con trai của Quách thi sĩ tuyển chọn (NXB Văn học ấn hành năm 2006).

Hầu như ở tập thơ nào của Quách Tấn, độc giả cũng có thể tìm thấy những bài ý tứ hàm súc, giai điệu trau chuốt, nói như cách của Xuân Diệu là đọc thơ mà có cảm giác như ngậm bạc trong miệng:

Thương hoa không nỡ hái
Hoa rụng lòng thêm thương
Vén cỏ chiêu hồn lại
Ngàn xanh hiu gió sương
(bài "Tình hoa")

Một mai ba tấc đất vùi
Trần gian để lại nụ cười cho hoa
(Bài "Một mai")

Người nay còn chửa hiểu mình
Người sau đâu dễ thấy tình người nay
Bụi đường khi phủi đôi tay
Nghìn thu tâm sự dấu giày rêu phong
(Bài "Tâm sự")

Tuy nhiên, điều dễ nhận thấy là trong việc làm thơ, Quách Tấn quá chú trọng tới việc gọt câu tỉa chữ. Điều này dễ dẫn tới việc thơ Quách Tấn có thể "ngâm ngợi cho sướng tai" chứ ít có sức lay động tâm can. Đã vậy, thơ Quách Tấn lại quẩn quanh với những thể thơ như ngũ ngôn, lục bát, thất ngôn bát cú, tứ tuyệt; các đề tài cũng quen thuộc, lắm khi trùng lặp, và điệu thơ, ngôn ngữ, hình ảnh không những quá… cổ mà còn thường xuyên trở đi trở lại (như ánh tà huy, giọt thu sa, sương mai, bóng mây, viễn mộng, phong trần, bóng chim hồng…). Nếu như với Hàn Mặc Tử, từ những bài thơ Đường luật "ngay ngắn nghiêm trang" viết lúc còn niên thiếu đến những bài thơ đầy ngẫu hứng và tung phá trong "Máu thơm và hồn điên" là cả một diễn biến tâm lý phức tạp thì ở Quách Tấn không hề có hiện tượng như vậy. Nếu như vào những năm ba mươi (của thế kỷ trước), ông từng viết: "Sương buông màn lượt phủ bao la/ Non nước chìm sâu trong giấc mơ/ Cung quế im lìm mây ấp nguyệt/ Song đào âu yếm gió hôn hoa" thì 50 năm sau, ông vẫn viết: "Sông sâu thắm đậm bóng non chiều/ Ăm ắp bờ lau ngập tiếng tiêu/ Thuyền ngược nước thu mây nặng nặng/ Sư về am vắng gió hiu hiu". Không ai nhìn thấy dấu vết thời gian giữa hai khổ thơ nói trên. Quách Tấn từng có câu thơ: "Mấy chục năm qua giấc mộng dài". Quả là với Quách Tấn, thơ ca như một giấc mộng dài mà suốt cả một đời ông vẫn chưa qua hết.

Không chỉ lặp lại mình, đã có lúc âm hưởng (và cả tình ý) trong thơ Quách Tấn đã khiến người đọc không thể không liên hệ tới những câu thơ của người đi trước. Như khi ông viết: "Trong giấc say hoa gặp gỡ người/ Chuyện lòng đương thắm giọt hoa rơi/ Giật mình trở gối hương còn thoảng/ Người đã xa rồi mộng có lui?/ Đời lắm phôi pha mong thấy mộng/ Mộng sao ngắn ngủi nghĩ thương đời/ Bâng khuâng nghĩ nhớ người trong mộng/ Gan ruột chàng Lưu cũng thế thôi" (bài "Tình mộng"), người đọc bất giác nhớ tới bài "Nhớ mộng" của Tản Đà: "Giấc mộng mười năm đã tỉnh rồi/ Tỉnh rồi lại muốn mộng mà chơi/ Nghĩ đời lắm nỗi không bằng mộng/ Tiếc mộng bao nhiêu lại ngán đời/ Những lúc canh gà ba cốc rượu/ Vài khi cánh điệp bốn phương trời/ Tìm đâu cho thấy người trong mộng/ Mộng cũ mê đường biết hỏi ai?". Chế Lan Viên từng có hai câu thơ rất chí lý: "Sợi chỉ lòng anh chỉ có một màu/ Xe với cái đa sắc của cuộc đời mà thành ra chói lọi". Việc một thi nhân luôn sống thu mình, tránh né mọi biến thiên thời cuộc, chỉ biết bạn bầu cùng sách vở và chìm đắm trong những khúc thức cũ, với những hình ảnh ước lệ cùng dày đặc các điển tích… như Quách Tấn thì việc thơ ca chỗ này chỗ nọ có rơi vào vòng tù túng, trì đọng, thậm chí mòn sáo, nhàm tẻ, âu cũng là lẽ thường. Chẳng thế mà không ít người khuyên khi đọc thơ Quách Tấn, nên đọc thật chậm, và chỉ đọc khi thật tĩnh tâm, đặc biệt không nên đọc nhiều bài liên tiếp…

Nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan, trong bộ "Nhà văn hiện đại" đã nhận xét về thơ Quách Tấn: "Thơ ông đẹp thì đẹp thật, nhưng không cảm người ta mấy". Tác giả Tam Ích nói một cách hình tượng: "Tấn lạ lắm: cứng đầu, cứng cổ nhất định không chịu thua thế lực khủng khiếp của thời trang, thời gian trong lịch sử (tức vẫn làm theo lối thơ cũ - PK) mà vẫn cứ có mặt, có lẽ chỉ có mình Tấn". Cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị thì làm thơ khen tác phẩm "Một tấm lòng" của Quách Tấn: "Ngọc thốt vàng reo chen lẫn tiếng/ Sa thêu gấm dệt rỡ ràng bông". Ý kiến ngỡ khác nhau mà xem chừng đều đúng cả. Bởi có thể đây đó, thơ Quách Tấn chưa nhiều bài gây được sự đồng điệu trong tâm hồn độc giả đương đại, song như một thứ đồ trang sức được chế tác công phu, tinh xảo, nó có thể tạo nên sự hào hứng với những độc giả thích được nghe, được ngắm thứ ngôn ngữ trang hoàng, chuốt lọc ấy. Và vì là thứ ngôn ngữ của "ngọc thốt, vàng reo" nên hiển nhiên nó ít bị hoen gỉ bởi thời gian…

____________________________________________________________

Thơ Nguyễn Trãi vòng quanh nước Mỹ

Nguyễn Mạnh Hà


TP - Sau khi hoàn tất tập thơ chọn lọc của Nguyễn Trãi bằng tiếng Anh, hai nhà thơ Paul Hoover và Nguyễn Đỗ đã đem thơ Nguyễn Trãi đi vòng quanh nước Mỹ, và bây giờ về Việt Nam.

Người đọc tiếng Anh có thể tiếp xúc với thơ Nguyễn Trãi qua tuyển tập thơ Beyond the Court Gate(Rời xa triều đình) do Counter Press tại Denver, Colorado ấn hành năm 2010. Tuyển tập dày 160 trang trong đó nửa già là thơ Nôm, và không thể thiếu Bình Ngô Đại Cáo.

Bìa cuối tập thơ giới thiệu (tạm dịch): “Trong khi Lý Bạch và các nhà thơ cổ điển Trung Hoa khác phần nhiều tìm kiếm sự diễn cảm qua cảnh vật, nhà thơ Việt Nam Nguyễn Trãi (1380-1422) đã viết về chính đời sống của ông.

Thơ Đường (thời bấy giờ) rất gần gũi và được đánh giá là tao nhã (ở Việt Nam), nhưng Nguyễn Trãi đã phát triển một phong cách cá nhân và thông tục. Sau hơn 600 năm, chúng xuất hiện qua bản dịch của nhà thơ đương đại Việt Nam Nguyễn Đỗ và nhà thơ Mỹ Paul Hoover, như thể vừa được viết mới hôm qua, bất kể ông cách xa chúng ta cả về thời gian và văn hóa”.

Paul Hoover đánh giá Nguyễn Trãi có phần nhỉnh hơn hai thi hào nước láng giềng Đỗ Phủ và Lý Bạch, trước hết bởi tính hiện đại. Nguyễn Đỗ và Paul Hoover đọc thơ Nguyễn Trãi vòng quanh nước Mỹ và nhận được những phản hồi tốt đẹp. Nhiều độc giả tỏ ra ngạc nhiên, vui mừng khi được tiếp xúc với những bài thơ hay như vậy.

Nguyễn Đỗ kể ông cùng Hoàng Hưng đều khóc khi cùng nhau đọc thơ Nguyễn Trãi tại California vào năm 2006. Chính Hoàng Hưng giới thiệu Nguyễn Đỗ với Paul Hoover- trưởng khoa Sáng tác Văn học- ĐHTH bang California tại San Fransisco. Theo Nguyễn Đỗ, Paul Hoover là một trong những nhà thơ lớn nhất nước Mỹ.

Bạn đọc Việt Nam có thể tìm đọc 30 bản dịch thơ Nguyễn Trãi của Nguyễn Đỗ và Paul Hoover qua tập thơ song ngữ Về Côn Sơn do Nguyễn Duy biên soạn và dịch sang thể lục bát. Paul Hoover và Nguyễn Đỗ ở Việt Nam để thực hiện “chiến dịch tuyên truyền cho Nguyễn Trãi”.

Từ nay đến hết tháng 5, hai dịch giả sẽ được nhà thơ Nguyễn Duy và nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên hộ tống để đến với độc giả Nghệ An, Quảng Ngãi, TPHCM. Buổi giới thiệu thơ đầu tiên diễn ra chiều 20-5 tại ĐH Văn Hóa Hà Nội. Sáng 21-5, đoàn tới Côn Sơn để làm lễ dâng hương.

Nguyễn Duy nhận định, Nguyễn Trãi là nhà thơ cổ điển đầu tiên đưa tâm sự cá nhân vào thơ. Nguyễn Đỗ cho hay một số bài thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi hiện đại quá nên ông chọn hình thức hiện đại để dịch chứ không theo thể thơ Đường.

Người chịu trách nhiệm Anh hóa thơ Nguyễn Trãi Paul Hoover cho hay, cái khó nhất khi dịch Nguyễn Trãi là chuyển được tính nhạc của câu thơ, cũng như tính triết lý. “Khi dịch thơ, mình rất dễ trở thành người sáng tác thơ. Nên khi dịch thơ Nguyễn Trãi, nhiều khi tôi phải kiềm chế để không bịa thêm”, Paul Hoover cho hay.

______________________________________________

Thứ Tư, 25 tháng 5, 2011

Hiện tượng văn -sử - triết bất phân trong văn học VN Trung đại

Nguyễn Đình Chú

Là một hiện tượng mang tính đặc trưng, cũng có thể nói là một quy luật đặc thù của văn học thời trung đại, không chỉ ở Việt Nam mà còn là ở thế giới nói chung. Nó đã là một phương diện để phân biệt văn học trung đại với văn học hiện đại, và nếu tôi không lầm thì chính từ hiện tượng này, quy luật này, mà trong lý luận văn chương của nhiều nước trên thế giới và Việt Nam đã đưa ra các khái niệm định tính cho văn học trung đại như văn học hành chức, văn học chức năng, văn học cận văn học, văn học phi văn học… Những khái niệm này với tôi, xin thú thật, biết vậy nhưng không dám dùng vì dễ gây hiểu lầm cho người khác trong việc nhận thức về văn học trung đại. Hiện tượng văn sử triết bất phân là hiện tượng đặc trưng và phổ biến của văn học trung đại mang tính chất thế giới như thế, cho nên đã được nhiều người bàn đến. Năm 1958, trên tạp chí Văn Sử Triết (Sơn Đông - Trung Quốc) đã có một số bài viết về vấn đề văn - sử - triết bất phân trong văn học trung đại của Trung Hoa. Ở Việt Nam, từ đầu những năm 60 của thế kỷ XX vừa qua, một số người trong đó có tôi cũng nói đến hiện tượng này. Tuy nhiên, tất cả chỉ mới nói sơ qua trong vài ba dòng. Do đó, nhân dịp này tôi muốn nói rõ hơn, đầy đủ hơn để mong góp phần vào việc nhận diện văn học trung đại đúng với đặc trưng của nó.
Hiện tượng văn - sử bất phân, văn - triết bất phân, văn - sử - triết bất phân trong văn học trung đại trước hết là đặc trưng của văn hoá trung đại nói chung một khi mà khối lượng tri thức của xã hội chưa phong phú tới độ đòi hỏi phải có sự phân ngành rạch ròi như về sau ở thời hiện đại. Ở Việt Nam, trong thời trung đại, nho sĩ là người trí thức mang tính chất hỗn hợp. Nho sĩ kiêm cả nho y lý số. Lê Hữu Trác, Nguyễn Đình Chiểu… ở thời trung đại vừa là bậc danh y, vừa là bậc văn nhân có tầm cỡ lớn so với một bác sĩ nào đó có tài thơ tài văn thời nay, bề ngoài là một, ở phương diện cá nhân là một, nhưng xét về phương diện quy luật văn hoá của thời đại thì khác nhau cơ bản. Bởi hiện tượng trên là mang tính phổ quát. Còn hiện tượng sau chỉ mang tính cá nhân.
Hiện tượng văn - sử - triết bất phân, đặc biệt là văn - triết bất phân vốn là sản phẩm của một trình độ tư duy nghệ thuật mà trong đó sự phân hoá giữa hai hình thái tư duy: luận lý (cũng gọi là khái niệm, lôgic) và hình tượng chưa được tách biệt như về sau trong thời hiện đại. Nói đến hiện tượng văn - sử - triết bất phân ở thời trung đại chính là nói đến hiện tượng đan xen giữa hai hình thái tư duy luận lý và hình tượng; chính là nói đến trạng thái trong sáng tác văn chương, tư duy hình tượng chưa lấn át được hoàn toàn tư duy luận lý như ở thời hiện đại về sau. Với văn học trung đại, nội dung các ý tưởng, các khái niệm mang tính chất triết học, nói chung vẫn tồn tại trong các tác phẩm một cách trực hiện bằng tư duy luận lý, trong khi với văn học hiện đại, chúng đã tồn tại theo kiểu gián tiếp, tan biến vào trong hình tượng.
Hiện tượng văn - sử - triết bất phân có liên quan mật thiết với quan niệm văn chương thời trung đại trong đó khái niệm văn vừa có nghĩa hẹp vừa có nghĩa rộng, nhưng nói chung là rộng. Hẹp là trong trường hợp văn được đặt vào quan hệ đối xứng với chất để chỉ vào hình thức trong khi chất là thuộc nội dung: Văn chất bân bân (hình thức và nội dung đều hoàn mỹ). Rộng là trong trường hợp văn gần như đồng nhất với văn hoá, văn hiến, với học thuật nói chung. Chữ văn trong luận đề “Tiên học lễ, hậu học văn” có nghĩa rộng như thế. Ở thời trung đại, một khi quan niệm văn chương còn được mở rộng như thế thì có hiện tượng văn - sử - triết bất phân là chuyện dễ hiểu. Khác với thời hiện đại sau này, dù trong nội hàm của khái niệm văn (littérature) vẫn có nghĩa rộng do đó vẫn có thể bao gồm cả sử, địa, triết… (littérature historique, littérature géographique, littérature philosophique…) nhưng chủ yếu lại đã thiên vào nghĩa hẹp tức là văn mỹ thuật (littératre esthétique, belles lettre). Trong quan niệm văn chương trung đại, nổi lên chủ đạo như mọi người đã thừa nhận là quan niệm “văn dĩ tải đạo” (văn để chở đạo), “văn dĩ quán đạo” (văn để quán triệt đạo), “văn dĩ minh đạo” (văn để sáng tỏ đạo), “thi ngôn chí” (thơ để nói chí). Với những quan niệm như thế thì trong sáng tác văn chương, chức năng giáo huấn sẽ được đặt lên hàng đầu, lấn át chức năng thẩm mỹ, chức năng phản ánh, nhận thức là điều dường như tất yếu. Và chính đó cũng liên quan tới hiện tượng văn - triết bất phân bởi nội dung triết (cần hiểu theo nghĩa rộng là tư tưởng) chính là nội dung giáo huấn được tồn tại trực hiện như đã nói. Trong thời trung đại, bên cạnh quan niệm coi văn là phương tiện chở đạo đã thành chính thống, không phải là không xuất hiện quan niệm về tính độc lập tương đối của văn. Ở Trung Quốc, cùng với quan niệm “văn dĩ tải đạo”, “văn dĩ quán đạo”, … cũng đã có quan niệm “văn thị văn, đạo thị đạo” (văn là văn, đạo là đạo). Với quan niệm này, ý thức về tính độc lập tương đối của văn đã nảy sinh. Ở Việt Nam, khi Nguyễn Đình Chiểu viết: “Văn chương ai cũng muốn nghe/ Phun châu nhả ngọc báu khoe tinh thần” cũng là tỏ ra đã thấy được cái vẻ đẹp cần có về hình thức song song với giá trị quý báu trong nội dung của văn chương. Tuy nhiên, mức độ tự giác về tính độc lập tương đối của văn chương ở đây vẫn chưa đủ để vươn tới trình độ của thời hiện đại một khi mà chức năng thẩm mỹ của văn chương đã được nhận thức sâu sắc, những thuộc tính mang tính đặc trưng của văn chương so với các loại hình nghệ thuật khác đã được phát hiện tường minh. Trạng thái đó dĩ nhiên liên quan tới hiện tượng văn - sử - triết bất phân, nhưng mặt khác, cũng chính trạng thái sẽ là mầm móng báo hiệu khả năng tách văn khỏi sử, khỏi triết sẽ là hiện thực ở thời hiện đại sau.
Hiện tượng văn - sử - triết bất phân trước hết được thể hiện trong hệ thống thể loại của văn học trung đại gồm hai loại hình chính là văn vần và văn xuôi. Trên đại thể, hiện tượng văn - sử - triết bất phân thể hiện ở phạm vi văn xuôi rõ nét hơn ở văn vần. Bởi bản chất trữ tình vốn là thuộc tính nổi trội của loại hình văn vần nên tự nó đã có khả năng hạn chế sự xâm lấn của sử và triết nếu so sánh tương đối với loại hình văn xuôi. Mặc dù, trong loại hình văn vần có thể loại diễn ca lịch sử được coi như là một hiện tượng văn - sử bất phân không chỉ thể hiện đặc trưng văn học trung đại mà còn có khả năng tồn tại lâu dài, ngay ở thời hiện đại. Trong loại hình văn xuôi của thời trung đại, với các thể loại của nó, có thể chia làm hai bộ phận: bộ phận thứ nhất bao gồm các loại cụ thể như chiếu, chế, biểu, bi, minh, ký, văn sách, luận thuyết, triết lý, tự, bạt… là những thể loại - nói theo thuật ngữ hiện nay là thuộc văn chính luận - đều được viết bằng tư duy khái niệm. Tư duy hình tượng nếu có thì chỉ ở cấp độ chi tiết mà thực ra cũng chẳng có nhiều. Với bộ phận này, hiện tượng văn - triết bất phân trở thành đặc trưng thể loại. Bộ phận thứ hai gồm các thể loại cụ thể như tiểu truyện, liệt truyện, tiểu thuyết chương hồi, kể cả các thể loại thuộc văn học Phật giáo như truyện truyền đăng, truyện thần kỳ, truyện các thánh, hoặc các thể loại gắn với lễ nghi tôn giáo như thần tích, thần phả… đều ít nhiều đã có yếu tố truyện, có nghĩa là đã có yếu tố văn hơn, nhưng vẫn chưa đủ để tách khỏi sử, khỏi triết. Thể liệt truyện, tiểu truyện chẳng hạn đầu tiên vẫn có mặt là trong các sách sử. Có thể nói, các thể loại này là sản phẩm của quy luật văn - sử bất phân. Bởi thế mà sau này, các sử gia vẫn khai thác nội dung các liệt truyện như khai thác bất kỳ công trình sử học nào khác. Trong khi các nhà văn học sử, nói đến sự ra đời của thể loại truyện ngắn, vẫn không quên nhắc đến tiểu truyện, liệt truyện, các loại truyện gắn với việc tuyên truyền Phật giáo, coi như là một trong những mầm mống ban đầu. Tất nhiên ngay ở thời trung đại, trong thể loại truyện cũng đã có một bộ phận về cơ bản tách khỏi sử, khỏi triết. Nhưng ngay ở đây, dấu vết của quan hệ văn - triết bất phân, văn - sử - triết bất phân không phải không còn. Thực tế, nó vẫn in dấu vết trong cơ chế nghệ thuật của tác phẩm, trong bút pháp. Xét cơ chế nghệ thuật của nhiều truyện trung đại, ở cả hai loại hình văn xuôi và văn vần (tức truyện thơ), nhiều nhà nghiên cứu từng nói đến tính chất tiên nghiệm (à priori). Điều đó không gì khác, chính là dấu vết chi phối của hiện tượng văn - triết bất phân trong cơ chế nghệ thuật của tác phẩm.
Hiện tượng văn - sử - triết bất phân trong thời trung đại, về đại thể là như trên. Nhưng ở phạm vi tác phẩm cụ thể thì sự thể hiện của nó là vô cùng sinh động, thiên hình vạn trạng. Sau đây xin nêu một số trường hợp cụ thể để bạn đọc thấy rõ vấn đề hơn.
Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn là hiện tượng văn - triết bất phân, bởi ở đây, nội dung là thuộc về triết, tư duy là luận lý nếu xét ở cấp độ tổng thể. Nhưng ở cấp độ chi tiết, tư duy hình tượng đã có mặt và kết quả đã tạo được một hình ảnh hấp dẫn bao đời nay với người đọc Việt Nam. Đó là hình ảnh về “cái thế rồng cuộn, hổ ngồi” của đất Thăng Long được chọn làm kinh đô mới của Nhà nước đang trên đường vươn tới, chuyển từ cái thế thụ động sang thế chủ động. Hình ảnh đó, về đặc tính là thuộc về văn, mặc dù nhà sử học, nhà triết học cũng có thể dựng lên hình ảnh đó như Lý Công Uẩn đã làm. Ngoài ra, như các nhà lý luận văn học từng nói, trong văn chính luận có thể có hai trạng thái: chính luận đơn thuần, nghĩa là thuần lý và chính luận có chất trữ tình mà hình thức biểu hiện không lộ rõ như trong thơ trữ tình, vì đã ẩn chìm vào bên trong lý lẽ. Bài Chiếu dời đô hẳn là thuộc trạng thái sau. Xét yếu tố văn của tác phẩm này, phải tính thêm đến điều đó.
Nam quốc sơn hà (thơ Thần) là hiện tượng văn - triết bất phân bởi ở đây nội dung cũng thuộc về triết, bốn câu là bốn ý được diễn đạt bằng tư duy luận lý không khác gì so với Chiếu dời đô, nhưng cũng ở đây, yếu tố văn đã được thể hiện trên hai phương diện. Trước hết là việc sử dụng thể loại tứ tuyệt Đường luật vốn không liên quan gì đến thể loại của sử, của triết. Thứ đến là cảm xúc trữ tình cũng trong trạng thái đã được dồn nén vào trong ý tưởng, điều mà nhiều người phân tích thơ cũng từng nói đến. Từ bao đời nay và mãi mãi về sau, người Việt Nam ta vẫn tự hào có bài Nam quốc sơn hà với tư cách là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nước nhưng cũng là một bài thơ (thơ Thần) chính là từ trạng thái đó.
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là hiện tượng văn - sử - triết bất phân. Ở đây, rõ ràng đã hội tụ đủ cả ba yếu tố văn - sử - triết. Về triết, đó là lý tưởng nhân nghĩa trực tiếp rực sáng lên trong lời mở đầu tác phẩm:
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân;
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
và tiếp tục chói lọi ở cuối tác phẩm:
Xã tắc từ đây vững bền;
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ mà lại thái;
Nhật nguyệt hối mà lại minh.
Muôn thuở nền thái bình vững chắc;
Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu. …
Về sử, đó là một bản tổng kết quá tài tình, theo tiêu chuẩn – cô đúc mà đầy đủ – thì khó trường hợp thứ hai về lịch sử khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo từ buổi đầu vô cùng gian khổ cho đến cuối cùng đại thắng vẻ vang. Về văn, trước hết là một nguồn cảm xúc trữ tình mang âm hưởng hào hùng bề thế tới mức có thể nói như vô tiền khoáng hậu, chẳng thế mà người đời sau đã mệnh danh là “thiên cổ hùng văn” (bài văn hùng của muôn thuở). Thứ đến, khả năng tư duy hình tượng này vận động ngược chiều nhau. Kẻ thù thì từ chỗ hung hăng tàn bạo đến hết chỗ nói nhưng rồi từng bước thất bại, thất bại sau nặng nề hơn thất bại trước, cuối cùng đại bại. Còn dân tộc, từ chỗ buổi đầu đầy gian truân vất vả, tưởng như thất bại đến nơi, nhưng rồi từng bước trưởng thành, chiến thắng, chiến thắng sau lớn hơn chiến thắng trước, cuối cùng đại thắng. Ở đây, cái phi thường là với mỗi tuyến, trong sự vận động, với từng sự kiện thất bại hay chiến thắng, đều đã có một hình tượng vừa sinh động, vừa phù hợp, không mảy may trùng lặp. Thứ nữa, còn là một năng lực kết cấu hoàn chỉnh, không một chút sơ suất trong một tác phẩm văn chương được viết theo thể cáo, điều không dễ có nhiều. Bình Ngô đại cáo quả là một kiệt tác văn chương kết tinh trên cơ sở của quy luật văn - sử - triết bất phân, khác Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chủ tịch sau này cũng là một kiệt tác nhưng lại là sản phẩm của một thời đại mà giữa văn và sử, văn và triết đã tách rời khỏi nhau. Có người không nhận ra điều quan trọng đó, cho nên đã cho rằng Bình Ngô đại cáo và Tuyên ngôn độc lập đều là tác phẩm chính trị trăm phần trăm.
Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái là hiện tượng văn - sử bất phân. Bởi Hoàng Lê nhất thống chí trước hết là một thành tựu sử học, chép về công cuộc nhất thống của nhà Lê diễn ra trong quãng thời gian 30 năm từ ngày Trịnh Sâm lên ngôi chúa (1768) đến lúc Gia Long lên ngôi vua (1802) trong đó nổi lên: một mặt là cuộc khủng hoảng nặng nề, triền miên, dẫn tới sụp đổ của triều đại Lê - Trịnh. Mặt khác là sự vùng dậy oai hùng của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn, nhất là thời chiến thắng thù trong giặc ngoài, thu non sông về một mối nhưng rút cục đã thất bại, để lịch sử chịu rơi vào trạng thái bi kịch oái oăm. Nhưng Hoàng Lê nhất thống chí cũng là một kiệt tác văn chương mà ở đây yếu tố văn đã được thể hiện trước hết bằng hình thức thể loại tiểu thuyết chương hồi có nguồn gốc từ Trung Hoa, đặc biệt là với tiểu thuyết Minh - Thanh. Về bút pháp, Hoàng Lê nhất thống chí là một cuộc giao duyên tuyệt đẹp giữa văn bút và sử bút. Bút pháp này thể hiện rõ việc khắc hoạ tính cách các nhân vật và trong việc miêu tả sự kiện hiếm có một tác phẩm nào trong lịch sử văn học Việt Nam xưa nay lại có một khối lượng nhân vật lớn như Hoàng Lê nhất thống chí mà hầu như nhân vật nào cũng ra nhân vật nấy, có hành động và tính cách riêng. Nếu chỉ có vai trò của sử bút như thường gặp trong các sách sử khác thì hẳn là khó có điều như vừa nói. Được như thế, phải có thêm vai trò của văn bút. Văn bút cho phép, không chỉ nắm bắt mà quan trọng hơn là thể hiện bằng nghệ thuật ngôn từ cốt cách, cá tính nhân vật, thông qua việc lựa chọn, tạo dựng những chi tiết có hàm lượng tư tưởng thẩm mỹ cao. Chúng ta đều biết, với sử học, vai trò của sự kiện là quan trọng nhất. Nhưng với văn, quan trọng hơn còn là vai trò của chi tiết của sự kiện. Bởi chính từ đó mà tạo ra tính cá thể sinh động, hấp dẫn của tác phẩm. Thử đọc đoạn văn “Kiêu binh nổi loạn” trong Hoàng Lê nhất thống chí được trích dạy trong sách giáo khoa Văn lớp 11 của bậc phổ thông trung học hiện nay, với những chi tiết trong cảnh kiêu binh đón rước Trịnh Tông vào triều cho lên ngôi chúa, những chi tiết trong cảnh kiêu binh nổi loạn chiến với quận Huy, với voi của quận Huy… sẽ thấy rõ nếu không có con mắt nhà văn, bút pháp văn thì khó tạo ra được những cảnh tượng sinh động, tỉ mỉ, hấp dẫn như thế. Hoàng Lê nhất thống chí so với tiểu thuyết lịch sử trong văn học hiện đại, bề ngoài có vẻ không khác gì nhau, nhưng cơ sở quy luật để xuất hiện tác phẩm thì hai bên khác nhau cơ bản. Bởi Hoàng Lê nhất thống chí là sản phẩm của quy luật văn - sử bất phân, nên ở đây giá trị sử và giá trị văn được coi như đồng đẳng. Các sử gia vẫn có quyền khai thác sử liệu trong Hoàng Lê nhất thống chí như ở bất kỳ tác phẩm sử học nào khác, trong khi với tiểu thuyết lịch sử của thời hiện đại, yếu tố lịch sử đã nằm ngoài sự chú ý của sử gia bởi nó có mặt trong tác phẩm chỉ với tư cách phương tiện đơn thuần của tiểu thuyết gia. Nhà tiểu thuyết trong khi viết về đề tài lịch sử, tuy có dựa vào sử liệu nhưng đã tái hiện lịch sử theo lăng kính chủ quan và cũng là theo yêu cầu của tiểu thuyết, rất khác với sử gia khi viết sử.
Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác phẩm có thể nói đã hoàn toàn thuộc về văn, cụ thể là thuộc về thể loại truyện thơ mà trong đó đã có cả yếu tố tiểu thuyết hiện đại như nhà văn Nguyễn Đình Thi từng nói. Tuy nhiên, dấu vết của hiện tượng văn - triết bất phân không phải là không còn trong Truyện Kiều. Nguyễn Du chẳng đã mở đầu Truyện Kiều bằng bốn câu thơ triết lý đơn thuần:
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh, khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Để rồi với 3250 câu Kiều tiếp theo với bao nhiêu cảnh ngộ, bao nhiêu nhân vật, bao nhiêu bức tranh thiên nhiên được dựng lên để làm nền cho cảnh ngộ, cho thân phận nhân vật, đặc biệt là Thuý Kiều… mà theo một cách nhìn không phải không có căn cứ, là sự minh hoạ cho tư tưởng triết học của Nguyễn Du đã được trực tiêp nêu lên ở bốn câu đầu trên đây. Hiện tượng này chẳng riêng của Truyện Kiều, mà phổ biến trong truyện thơ trung đại. Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, mở đầu cũng là thế:
Trước đèn xem truyện Tây Minh,
Gẫm cười hai chữ nhơn tình éo le.
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe,
Dữ răn việc trước lành dè thân sau.
Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình…
Ở đây, dấu vết tồn tại của hiện tượng văn - triết bất phân liên quan đến tính chất tiên nghiệm trong tư duy nghệ thuật viết truyện trung đại là điều khác với tiểu thuyết hiện đại về sau. Về sau, không ai mở đầu tiểu thuyết bằng nội dung triết lí như cách Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu từng làm. Mở đầu tác phẩm Chí Phèo, Nam cao viết: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng của nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra… không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế có khổ hắn không? Không biết đứa chết cha chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? …”
Cách mở đầu tác phẩm như thế, chứng tỏ ở đây, tư duy hình tượng trong sáng tác văn chương đã chiếm lĩnh hầu như hoàn toàn trận địa. Hiện tượng văn - triết bất phân đã cáo chung. Ở đây, không phải không có triết lý, ví như tác phẩm Chí Phèo, là sự tha hoá của người nông dân do nạn áp bức bóc lột của bọn cường hào ác bá ở nông thôn dưới chế độ thực dân nửa phong kiến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 gây nên, là khát vọng hạnh phúc, khát vọng trở lại lương thiện của con người dù đã bị tha hoá nặng nề. Nhưng những nội dung triết lý này đã không còn tồn tại trong tác phẩm theo kiểu trực hiện mà chúng đã tan thấm vào các hình tượng nghệ thuật. Điều này, dĩ nhiên ở Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng đã xuất hiện. Bởi trong Truyện Kiều, một bộ phận tư tưởng triết học mang tính chất siêu hình cũng đã được hình tượng hoá thành bóng ma Đạm Tiên, kể cả các nhân vật như người tướng sĩ, vãi Giác Duyên. Đúng là ở Truyện Kiều vẫn đang ít nhiều có sự giao thoa giữa kiểu tư duy luận lý liên quan đến tính chất tiên nghiệm và để lại dấu vết văn - triết bất phân trong nghệ thuật với kiểu tư duy hình tượng dù đã đắc thắng vẻ vang, nhưng chưa chiến thắng triệt để như ở tiểu thuyết hiện đại trong dạng điển hình nhất.
Trở lên là một số hiện tượng tiêu biểu cho quy luật văn - sử - triết bất phân mà chúng tôi muốn trình bày với bạn đọc để góp phần nâng cao chất lượng nhận thức văn học trung đại. Nhưng ngoài những điều đó, thực ra còn phải kể đến hiện tượng văn - y bất phân, dù là không phổ biến nhưng ít ra cũng có một tác phẩm đáng nói là Ngư tiều y thuật vấn đáp của Nguyễn Đình Chiểu. Với tác phẩm này, về mặt y học, một số nhà nghiên cứu từng cho rằng Đồ Chiểu đã làm việc phổ biến kiến thức đồ sộ được lấy từ hàng trăm bộ sách Đông y. Còn về văn, thì đó là một truyện thơ, có cốt truyện, có nhân vật, có ngôn ngữ nghệ thuật… nhằm bộc lộ tư tưởng, tình cảm, thái độ, tâm trạng của Đồ Chiểu trong cảnh ngộ đất nước bị xâm lược, lục tỉnh Nam kỳ đã mất hẳn vào tay giặc Pháp, vì mù loà, già yếu không đi tị địa được, đành ở lại trong đất giặc chiếm với một tấm lòng thuỷ chung sắt son đối với Tổ quốc nhân dân. Hình tượng Kỳ Nhân Sư trong tác phẩm văn - y bất phân này đã là một hiện tượng nghệ thuật sáng giá trong văn nghiệp Đồ Chiểu, trong văn học giai đoạn cuối của thời trung đại. Với văn học hiện đại, chắc chắn khó có một tác phẩm nào thuộc về hiện tượng văn - y bất phân như Ngư Tiều y thuật vấn đáp nữa, vì quy luật văn chương và quy luật văn hoá đã đổi khác.
Tóm lại, văn - sử bất phân, văn - triết bất phân, văn - sử - triết bất phân là hiện tượng đặc thù của văn học trung đại. Nó liên quan đến quy luật văn hoá, quan niệm văn chương ở thời trung đại. Nó thể hiện trong hệ thống thể loại văn học và trong cơ chế nghệ thuật của mỗi tác phẩm văn học cụ thể, đa dạng, biến hoá. Nó còn chi phối cách làm tuyển tập văn thơ. Ví như trong Hoàng Việt văn tuyển của Bùi Huy Bích, một tuyển tập về văn gồm: phú cổ, ký, minh, văn tế, chiếu, chế, sách, biểu, tạ, khải, tản văn, tấu, công văn. Nó thể hiện trong cách biên soạn “nghệ văn chí”, “thư tịch chí”. Trong Nghệ văn chí (thuộc Đại Việt thông sử) của Lê Quý Đôn, “nghệ văn” là gồm bốn loại: hiến chương (ví dụ: Hình luật thư, Hoàng triều quan chế, Nam Bắc phân giới địa đồ …), thơ văn, truyện ký (Ví dụ: Tam tạng kinh, Đại tạng kinh …). Trong Văn tịch chí (thuộc Lịch triều hiến chương loại chí) của Phan Huy Chú, “văn tịch” là gồm bốn loại: hiến chương, kinh sử, thi văn, truyện ký. Sau này, vào thời hiện đại, khoa Sử ra đời. Buổi đầu, cách viết văn học sử ít nhiều vẫn dựa trên quan điểm văn - sử - triết bất phân. Bởi thế mà các tác phẩm như Vạn ngôn thư của Lê Cảnh Tuân, Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn… vẫn có mặt trong Việt Nam văn học sử yếu (viết 1941, in lần thứ nhất 1943) của Dương Quảng Hàm với tư cách là đối tượng trực tiếp của văn học sử. Điều này hẳn là khác với các sách văn học sử hiện thời. Bởi một khi quan niệm văn chương hình tượng, văn chương mỹ thuật đã thắng thế, thì loại tác phẩm vừa được nhắc tới đó trong Việt Nam văn học sử yếu hoặc đã để ra ngoài, hoặc có nói tới thì cũng chỉ nói với tư các những tác phẩm thuộc môi trường văn hoá của văn học, chứ không được coi là văn học nữa.

________________________________________________

Nhập thất

Truyện ngắn của HOÀNG CÔNG DANH

Cứ đến giữa tháng chạp là sư thầy lại rời chùa, đi ngược lên phía núi chừng mười lăm phút thả bộ và ngụ tại một lán tre ở trên đó. Cái lán dành cho giới tu hành gọi là thất, và quãng thời gian ở đó gọi là mùa nhập thất. Phải hết tháng giêng thầy mới rời thất để về lại chùa. Thầy thích yên tĩnh nên có ý đi ở ẩn vào mỗi dịp tết nhất, độ này khách khứa đến viếng chùa đông lắm.
Ngày thầy chuẩn bị nhập thất, điệu Sanh nằng nặc đòi theo. Sanh nói mỗi ngày không thấy mặt thầy con chịu sao nổi. Khuyên mãi không được, thầy đành miễn cưỡng giao cho điệu Sanh nhiệm vụ đưa cơm chiều lên thất. Mấy mùa vào thất trước, thầy đều đùm gạo với muối mè lên trên ấy rồi tự lo chuyện ăn uống. Củi nhặt cành khô, lửa nhúm lá mục, nước đã có bên suối. Thầy chỉ việc kê ba hòn đá lại thành cái kiềng là có ngay bếp nấu. Nhập thất vốn là một công việc hành trì độc lập, người tu hành đến một ngưỡng nhất định mới có thể thực hiện. Lấy sự yên tĩnh làm đầu để thiền quán, dùng sự giản dị tự thân để nương tựa.
Thế mà bữa nay điệu Sanh đòi gặp thầy mỗi ngày, xem ra khó từ chối nên thầy nhủ điệu đem cơm từ chùa lên. Với lại, thời gian này thầy cũng đang hoàn thành nốt cuốn sách nên muốn toàn tâm toàn ý cho việc viết. Điệu Sanh mừng ra mặt: “Vậy con đem thêm phần cơm của mình nữa lên ăn cùng thầy cho vui”. Thầy nghẹn đi, không còn nói chi được nữa, đành lắc đầu nhẹ và cười.
Ngôi thất nằm nép dưới một hòn núi. Mấy năm trước thầy cố ý dựng ở đây để tránh gió mùa thốc vào, nhờ thế nên thất vẫn còn ở được. Mấy cột tre có yếu thì tháp thêm, vách nứa đứt lạt thì buộc lại; vào mùa hạ cỏ gianh tốt ngồng, thầy bứt đem về phơi khô rồi lợp lại cái mái. Riêng việc bện tranh thôi đã là một phương pháp tu tập, vừa gài lá vừa niệm kinh, đánh tranh như gõ mõ. Tranh phải đan khít để nước mưa không thấm qua được, khi ấy mới mong công pháp tu tập che chở được chúng sanh. Một mình thầy dựng thất, sành nghề chẳng kém gì bác thợ mộc hay người miền cao.
Tháng chạp cỏ dại chung quanh dần xanh, vài bông hoa nở trước kỳ xuân đến. Vách núi gió hong khô, trơ ra ngoài những vạt đá màu lam. Buổi sáng thầy dậy sớm, mở cửa thất sương đã tràn vào. Thầy bước ra vừa làm vài động tác thể dục vừa ngắm thiền cảnh. Xong lại vào thất, tọa nghiêm ngắn và thảo chữ.
Lần đầu đưa cơm đến thất, điệu Sanh nhảy chân sáo qua mấy cục đá thầy kê theo lối đi. Chưa tới cửa điệu đã hét toáng lên gọi thầy. Thầy không mắng điệu Sanh mà chỉ lấy giấy ra, viết năm chữ “an lạc từng bước chân” rồi nhủ điệu đem ra dán ở cây săng lẻ bên bậc đá đầu tiên. Từ bữa đó Sanh nhẹ nhàng hơn, nhưng tính ham vui trẻ con thì vẫn còn.
Một lần xách ca mèn cơm lên thất, điệu Sanh gặp mấy đứa trẻ đi bắt chim. Hồi ở nhà Sanh hay cùng trẻ con trong xóm đi bắt chim và bẫy tắc kè nên thấy thế thích lắm. Định bụng chạy đến coi, rồi Sanh nhớ ra hôm bữa học luật có một điều trong sách pháp khuyên không nên săn bắt, thế là điệu cố ý đi nhanh qua. Một đứa kêu:
- Ê, trọc lóc, tới đây chơi!
Sanh bước thêm bước nữa, thấy đi không đành nên quay lại coi chúng bắt tổ sáo. Bắt được bốn con chim non, chia ba đứa ba con, còn một con chúng cho Sanh. Sanh cầm lấy, không biết đặt ở đâu cho phải. Ba đứa kia thì có ba cái mũ lưỡi trai, chúng ngửa mũ ra cho chim vào. Còn sanh, trọc lóc không đội mũ biết lấy cái gì nựng chim. Một trong ba đứa kia góp ý với Sanh:
- Hay trọc đưa cơm cho tụi này ăn, rồi lấy cái ca mèn bỏ chim vào.
Nghĩ cũng phải, Sanh đưa ngay phần cơm cho chúng ăn. Xong, Sanh lấy ít cỏ cú khô cho vào ca mèn để đặt con chim non. Sanh xách ca mèn lên thất. Dọc đường, thi thoảng chú chim kêu rích rích khiến điệu thích thú. Đến cửa thất, Sanh đưa nguyên cái ca mèn ấy cho sư thầy. Mở nắp, thầy ngạc nhiên nhưng không trách điệu mà chỉ hỏi:
- Con đem chú chim này về rồi cho nó ở đâu?
Nghĩ một lúc, Sanh thốt lên:
- À! Con sẽ làm cho nó một ngôi nhà trên cây, giống cái túp lều tranh này. Thầy ở trong kia, nó ở trên này. Mỗi ngày con đem phần cơm lên cho cả thầy và chim.
- Rồi sao nữa? – Thầy hỏi.
- Bao giờ thầy về lại chùa thì con đem chim về. Đến mùa nhập thất năm sau con lại đưa nó lên đây.
Chiều theo ý Sanh, sư thầy cùng điệu làm một cái tổ nho nhỏ trên chãng ba cây. Điệu Sanh hớn hở vui mừng, nghĩ đến cảnh có hai “ông thầy tu” ở hai túp lều tranh, một ông suốt ngày ngồi im, một “ông” suốt ngày hót. Rộn ràng bên cạnh lặng im, đó là lẽ đời. Lấy thanh tịnh nuôi dưỡng náo nức, đó là pháp đạo.
Riêng sư thầy lại thấy khó xử, thầy biết mình đang đối mặt với một bài toán hóc búa. Cuộc đời luôn đặt ra những khó khăn buộc người ta vượt qua. Với bậc tu hành, thì điều ấy là cần thiết để luyện công án. Ngay khi thầy đang ngồi trong thất, tưởng chừng lánh đời, nhưng thực tế sự chiêm nghiệm về lẽ đời lại nhiều hơn. Còn biết bao người neo đơn đang ở trong những túp lều tranh giống thầy; họ không có cơm ăn, sống từng ngày để đón chờ cái chết. Chính quyền nào cũng có chế độ bảo trợ, nhưng việc ấy làm sao chu tất được. Ví thử cái tổ chim vừa làm xong kia là một căn nhà của người neo đơn, thầy có trách nhiệm bảo trợ. Chim không thể nghe đọc kinh mà sống. Chính thầy cũng không thể đọc kinh để sống cơ mà? Chú chim non phải được mớm mồi châu chấu. Nghĩa là vì sự sống của loài này, phải hy sinh sự sống của loài khác. Xưa có một vị sư, mỗi lần về thăm nhà đều ghé qua chợ mua cá về cho mẹ. Vị sư ấy cũng đấu tranh tư tưởng giữa hiếu đạo và luật trì. Bây giờ thầy nuôi con chim nhỏ, tức là phải phân vân giữa luật trì với luật trì. Tu là không sát sanh, nhưng không sát sanh châu chấu thì con chim non chết, tức là vô tình mà phải nhún tay sát sanh một trong hai loài. Mới chỉ một chú chim thôi đã thế. Ở ngoài đời kia còn biết bao nhiêu điều tương tự, muốn tồn tại phải đấu tranh. Vì tài nguyên mà nước này đánh nhau với nước kia, súng đạn hạ sát thân người rơi trên chiến trường. Người kinh doanh phải mẹo mực, sát phạt đến tận cùng đồng tiền của nhau, thương trường là chiến trường. Người muốn lấy vợ phải khôn ngoan, giành giật nhau chút tình cảm gái trai, tình trường cũng là chiến trường…
Vào thất, tưởng chừng xa lánh cuộc sống ồn ã của loài người dưới kia, nhưng thực chất lại vướng vào chuyện khác. Con người sẽ sống thế nào khi có rất nhiều mối bận tâm như thế. Những mối quan hệ chằng chịt có cả thói ghen tức, ganh đua, tị hiềm, dối trá lừa lọc, tham nhũng, hối lộ… Có lẽ càng cô đơn yên tĩnh, như người tu hành trong một mái thất, thì càng nghĩ ngợi nhiều. Nhưng đó là lẽ thường, bởi giác ngộ không phải lãng quên tất cả, mà đấy là sự đối mặt với thực tại để tìm ra lối. Sư thầy đang ở trong tình thế khó khăn, phải tìm ra lối thoát cho một chú chim non đã thế, huống hồ dẫn đường cho mọi người.
Ngay trong chiều hôm đó, con chim non đã chết. Không rõ lý do vì sao. Có thể trúng gió độc. Có thể thèm mồi mà chết. Và biết đâu con chim đã ý thức rằng phải hy sinh để loài châu chấu được sống, phải hy sinh để sư thầy không phải bận tâm nhiều về nó.
Sư thầy cùng điệu Sanh đào hố chôn con chim xuống đất. Xong rồi tụng một bài kinh cầu siêu cho chim. Xong rồi tụng một bài kinh sám hối cho mình. Xong rồi nhưng chưa xong. Không thể cứ sám hối chuộc lỗi lầm là hết chuyện. Trong khi ấy thầy vẫn chưa tìm ra cách xử lý bài toán đấu tranh sinh tồn.
Hai thầy trò bước vào trong thất. Bất giác điệu Sanh hỏi:
- Sao dưới kia người ta không làm cái chòi lá thế này để nghỉ ngơi hả thầy?
Ừ, giá mà mỗi người có một cái chòi đơn sơ để nghỉ ngơi và nghĩ ngợi. Một cái thất tự dựng lên trong miền tưởng tượng thôi. Như kiểu Phật tại tâm ấy! Mỗi năm chỉ cần nhập thất một lần vào mùa xuân. Có khi khỏi phải đi chùa cầu an hái lộc bẻ rụi cây, khỏi phải phóng sanh cho cá chết lềnh bềnh, khỏi phải thả rùa tai đỏ cầu may mà gây bệnh hoạn, khỏi phải chen lấn đi dự khai ấn phát lương đền Trần đến mức giẫm đạp lên nhau. Thế thôi.

_____________________________________________________

Những chấn động nhục cảm trong văn học gần đây

Đoàn Minh Tâm

Sau năm 1975, khi hoàn thành sứ mệnh cao cả trên mặt trận văn hóa tư tưởng, góp phần quan trọng vào công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi, nền văn học Việt Nam đã có những bước chuyển mình sang giai đoạn phát triển mới. Những đề tài, nhân vật, lối viết… trước kia vốn thuộc vùng “ngoại biên” nay có điều kiện xích lại dần vào “trung tâm” của đời sống văn học, trong đó những yếu tố liên quan đến tình dục, nhục cảm có bước dịch chuyển mạnh mẽ nhất. Nếu như ở những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước – thời điểm đánh dấu sự đổi mới tiểu thuyết Việt Nam, những yếu tố này còn xuất hiện một cách khá dè dặt trong các tác phẩm của Bảo Ninh, Lê Lựu… thì tại thời điểm này nó đã phát triển với tất cả những gì đáng kinh ngạc nhất, tạo nên không ít những cú sốc tâm lý cho những độc giả vẫn giữ tâm lý tiếp nhận văn học hình thành từ thời văn học chống Mỹ. Sau khi xuất bản năm 2005, tập truyện ngắn Bóng đècủa nhà văn Đỗ Hoàng Diệu đã gây nên nhiều cuộc tranh cãi gay gắt giữa các nhà chuyên môn, các bạn đọc về những trang viết về sex có tính chất loạn luân. Tiếp theo Bóng đè, văn đàn Việt liên tiếp chứng kiến sự đổ bộ ào ạt của các nhà văn trẻ vào địa hạt nhạy cảm này. Các tiểu thuyết Blogger của Phong Điệp, Họ vẫn chưa về của Nguyễn Thế Hùng, Sát thủ online của Nguyễn Xuân Thủy, Sự trở lại của vết xước của Trần Nhã Thụy…đều có những trường đoạn miêu tả cảnh ái ân, nhục cảm trực diện và táo bạo. Nhưng nổi đình nổi đám hơn cả trong số tiểu thuyết viết về sex của các cây bút trẻ phải kể đến Nháp của Nguyễn Đình Tú và Song song của Vũ Đình Giang. Ở Nháp có những đoạn miêu tả cụ thể, tỉ mỉ đến mức sống sượng về dụng cụ khoái cảm của con người, đầy rẫy những cảnh phòng the. Những suy nghĩ, mặc cảm, dằn vặt của các nhân vật trong Nháp phần lớn cũng xoay quanh vấn đề tình dục… Tất cả làm cho không ít bạn đọc bị ngợp trong một bầu không khí toàn những da những thịt, những ái ân, dục vọng mà quên khuấy mệnh đề tư tưởng “Cuộc đời nháp tôi bằng những số phận” xuyên xuốt tác phẩm được tác giả khéo léo gợi ý ngay ở câu đề từ. Song Song lại gây sốc cho độc giả vì những câu chuyện xoay quanh đề tài đồng tính được kể lại bằng một giọng văn lạnh lùng như muốn chạm đến giới hạn tột cùng của sự vô cảm. Tuy nhiên các nhà văn trẻ không phải là những người duy nhất tạo nên những chấn động nhục cảm trong văn học thời gian gần đây. Những bậc tiền bối, đàn anh của họ cũng không hề thua kém ở lĩnh vực này.

Cách đây hai ba năm, nhà văn Nguyễn Bình Phương trình làng cuốn tiểu thuyết thứ 5 có cái tên là lạ Ngồi. Sách vừa ra nhiều bạn đọc cũng choáng vì thay cho một Nguyễn Bình Phương huyền ảo đến quái dị trong Những đứa trẻ chết già, Thoạt kỳ thủy, một Nguyễn Bình Phương mơ màng, lãng mạn trong Trí nhớ suy tàn, một Nguyễn Bình Phương chặt chẽ, khúc triết trong Người đi vắng là một Nguyễn Bình Phương đầy nhục cảm bản năng trong Ngồi. Cùng độ tuổi với Nguyễn Bình Phương, nhà văn Nguyễn Đình Chính cho xuất bản cuốn Ba lô online. Sách được đăng tải từng phần trên mạng và bạn đọc nhiều phen mướt mát với những trường đoạn mô tả tội lỗi nguyên thủy của loài người. Gần đây nhất, lão nhà văn Bùi Bình Thi vừa xuất hiện với tiểu thuyết Dại tìnhviết về đời sống tình dục của những cô gái trẻ. Cuốn tiểu thuyết có những cảnh nóng “ác liệt” đến mức không chỉ bạn đọc mà cả cơ quan chức năng cũng phải lên tiếng. Với sự “đồng hành” của mấy thế hệ cầm bút rõ ràng đây không còn là những sự kiện mang tính chất cá nhân mà đã là một trào lưu viết của một bộ phận cộng đồng văn chương Việt.

Vậy nguyên nhân nào dẫn đến trào lưu trên? Theo chúng tôi còn có nhiều nguyên nhân khác đến từ yếu tố văn học và phi văn học. Theo nhiều chuyên gia xã hội học và tình dục học, xã hội Việt Nam đang ngấm ngầm diễn ra một cuộc cách mạng tình dục. ÔngNguyễn Thiện Trưởng, Phó chủ tịch Hội Kế hoạch hóa gia đình Việt Nam trong một lần trả lời phỏng vấn[1] đã cho biết, thanh niên có xu hướng quan hệ tình dục ngày càng sớm. Tuổi quan hệ tình dục lần đầu tiên của thanh niên Việt Nam hiện là 17,8 tuổi (kết quả điều tra cách đây 5 năm cho thấy, tuổi quan hệ tình dục là 19,6 tuổi). Mặt khác, quan niệm của xã hội đối với vấn đề này không còn khe khắt như trước. Những diễn đàn giới tính, những cuốn sách nói về kiến thức tình dục xuất hiện ngày càng nhiều. Mọi người đã bước đầu cởi mở và nghiêm túc hơn trong những câu chuyện liên quan đến tình dục. Và khi xã hội đã có sự chuyển mình như vậy, văn học – vốn nhạy cảm với những thay đổi trong xã hội – viết nhiều về tình dục cũng việc dễ hiểu. Tuy nhiên nguyên nhân chính theo chúng tôi nằm ở sự phát triển nội tại của đời sống văn học. Những nguyên nhân này có thể tóm lược như sau.

Thứ nhất, về tâm lý sáng tác. Sau một thời gian dài không được và không nên nói đến tính dục, khi được sáng tác trong bầu không khí thoải mái hơn, không ít nhà văn có tâm lý viết bù, viết cho thỏa thích những điều trước kia mình muốn nhưng chưa viết được, trong đó có vấn đề tính dục. Ngoài ra, trong quá trình hội nhập như hiện nay, có không ít các nhà văn – nhất là các nhà văn trẻ - chịu ảnh hưởng từ các cây bút nước ngoài, trong đó có những tác giả viết về tính dục với mật độ dày đặc như Michel Houellebecq, Elfriede Jelinek, Murakami Haruk… Bên cạnh đó, dòng văn học trẻ lingleng và những tác phẩm vừa đậm chất sử thi vừa đậm chất tính dục của Mạc Ngôn, Giả Bình Ao ở Trung Quốc kề bên cũng có tác động ít nhiều đến giới cầm bút Việt Nam. Do đó, viết về tính dục vừa nằm trong nhu cầu giải tỏa sự bức xúc kìm nén bấy lâu nay vừa như một cách thể hiện sự hội nhập vào văn học thế giới của một bộ phận nhà văn Việt Nam.

Thứ hai, về tiếp nhận văn học. Không thể phủ nhận một thực tế rằng với việc viết về tính dục, nhà văn dễ “lôi kéo” được bạn đọc đến với tác phẩm của mình hơn. Độc giả muôn đời vẫn luôn tò mò và hào hứng với những câu chuyện liên quan đến tính dục. Với tầng lớp bạn đọc phổ thông, không ít người chỉ chịu bỏ tiền ra mua sách khi nghe biết rằng tác phẩm này đề cập tới vấn đề “nhạy cảm” nhiều lắm, hay lắm. Tầng lớp bạn đọc này chiếm số đông trong số bạn đọc và khi họ đã thích, đã tìm đọc nhiều thì “nấc thang lên thiên đường” của nhà văn chẳng mấy chốc mà thành hiện thực. Tuy nhiên chúng tôi tin rằng số nhà văn có suy nghĩ như vậy không nhiều.

Thứ ba, và cũng là nguyên nhân chính yếu nhất, nằm ở yếu tố nghệ thuật.
Như đã trình bày ở trên, tuy xã hội ta hiện tại đã cởi mở hơn về chuyện tính dục, tình dục đã được “giải thiêng”, được nghiên cứu dưới ánh sáng của khoa học, nhưng chúng tôi cho rằng trong “vô thức tập thể” của mỗi người dân Việt Nam tính dục vẫn là một điều gì đó vừa thiêng liêng, cao cả, vừa trần tục, thô thiển; vừa là một đặc ân vừa là một tội lỗi; vừa đem lại khoái cảm bậc nhất vừa đem lại mặc cảm lớn lao nhất. Đến giờ, mặc ngày thường phóng túng thế nào nhưng trước những ngày trọng đại, người Việt Nam thường vẫn không (dám) quan hệ để giữ gìn thân thể và tinh thần được trong sạch. Đến giờ không ít người Việt vẫn có quan niệm giải đen, giải xui, chữa bệnh bằng việc quan hệ với trinh nữ…Đối với người Việt tính dục không đơn thuần chỉ là tính dục. Nó còn ẩn chứa trong đó nhiều giá trị văn hoá, tinh thần, quan niệm về đạo đức, cuộc sống... Và các nhà văn - bằng sự nhảy cảm thiên bẩm – đã ý thức được vị trí đó của tính dục trong vô thức người Việt. Vậy nên họ không ngừng khai thác tối đa tính dục với tư cách mộtcông cụ nghệ thuật tiện ích và hiệu quả. Tính tiện ích thể hiện ở chỗ chỉ với một hành vi tính giao tùy từng ý đồ sáng tác nhà văn có thể lồng trong đó nhiều tư tưởng khác nhau, một kiểu n trong 1. Ở khía cạnh này, tính dục được nhà văn sử dụng với tư cách cái biểu đạt. Mỗi hành vi tính giao được quan niệm như một đoạn mã nơi các nhà văn gửi gắm vào đó những tư tưởng sâu kín nhất mình muốn chia sẻ cùng người đọc. Đằng sau hành vi khoái lạc có thể là mặc cảm giống nòi, mặc cảm thân phận, những chấn thương tinh thần tuổi ấu thơ, hoặc giả là sự đê tiện, những toan tính của con người, là hạnh phúc, là tình yêu hoặc thậm chí là sự trống rỗng, vô định hoang hoải….Dường như tất cả các trạng huống cảm xúc của con người đều được các nhà văn dồn nén trong hành động nguyên sơ bản năng nhất này. Tính dục như một giọt nước để qua đó người ta nhìn thấy cả biển cả tâm hồn.

Tính hiệu quả thể hiện ở chỗ các tư tưởng không chỉ được truyền đạt đến độc giả bằng hình thức quyến rũ nhất mà còn tác động mạnh mẽ đến họ trên dải tình cảm rộng lớn trải dài từ hiện tại đến những xúc cảm ngủ vùi trong chốn sâu thẳm xa xưa. Sức mạnh đó không phải một công cụ nghệ thuật nào cũng có được. Và để tăng thêm tính hấp dẫn, tính hiệu quả, nhiều nhà văn cũng đã khai thác tính dục ở khía cạnh cái được biểu đạt. Tính dục được họ coi là một đối tượng nghệ thuật cần phải chinh phục. Việc miêu tả tính dục sao cho hay, khéo được xem như một trong những thước đo tài năng của nhà văn. Có thể thấy, các nhà văn đã huy động đến mức tối đa vốn từ vựng của mình vào việc miêu tả hành vi tính dục và chúng ta có thể bắt gặp tất cả sự phong phú, đa dạng, tinh tế, linh hoạt, biểu cảm của ngôn ngữ Việt trong việc miêu tả này.

Về mặt lý thuyết, khi cả hai phương diện cái biểu đạt và cái được biểu đạt của tính dục được nhà văn miêu tả hài hòa, ăn khớp tạo nên một nhịp hô ứng cộng hưởng thì lúc đó hiệu quả nghệ thuật sẽ đạt đến mức tối đa, có sức ảnh hưởng, lan tỏa sâu rộng. Ngược lại, nếu có độ vênh giữa hai yếu tố trên sẽ tạo ra những nghi vấn, hoài nghi và dẫn đến những tranh cãi liên miên không có hồi kết xung quanh tính dục như nghệ thuật hay khiêu dâm; truyền đạt “tư tưởng” hay “câu khách rẻ tiền”, có tác động xấu hay tốt đến hưởng đến thẩm mỹ bạn đọc, có làm băng hoại đến đạo đức, truyền thống dân tộc hay không… Những tranh cãi tạo nên sự mệt mỏi cho người được và bị tranh luận, gây hoang mang cho số đông bạn đọc vì không rõ mình đang đọc cái gì.

Dù chưa có điều kiện khảo sát kỹ lưỡng, toàn bộ nhưng chúng tôi cho rằng nhiều tác phẩm văn học đương đại chưa đạt được sự toàn bích nên những cuộc tranh luận như trên trong tương lai vẫn sẽ diễn ra dài dài. Do vậy, điều chúng tôi mong muốn nhất lúc này là các nhà văn khi viết về tính dục hãy cân nhắc kỹ càng, hãy để tác phẩm của mình khi ra đời là một “chấn động nghệ thuật” chứ đừng là một “chấn động nhục cảm”.

(Bài đã đăng Văn nghệ Trẻ)
______________________________________________________

Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2011

Bạn văn ở chiến trường

Hồi ức của Khổng Minh Dụ

Nhân dịp kỷ niệm lần thứ ba mươi sáu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tôi viết bài này để nhắc lại kỷ niệm của lớp chúng tôi, những người đã từng sống chiến đấu và công tác ở chiến trường đồng bằng Nam Bộ giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Dùng từ bạn văn, e rằng không chuẩn. Bởi thời đó, giai đoạn trước Mậu Thân (1968) giới văn chương ở chiến trường hiếm lắm, gặp họ còn khó hơn gặp nguyên thủ quốc gia bây giờ. Lớp chúng tôi, những người viết nghiệp dư thì đâu dám xếp vào hàng bạn với họ. Song, cũng xin thưa, còn một cách biện minh mà ngày nay chúng ta vẫn thường nghe: Bạn nghe đài, bạn xem truyền hình, bạn viết… chẳng hạn. Cố nhiên sau này có nhiều người trong số đó như Nguyễn Trọng Oánh, Nguyễn Thanh Giang, Thu Bồn, Thạch Cương… trở thành bạn vong niên của tôi; những Phạm Tiến Duật, Trần Ninh Hồ, Nguyễn Duy, Nguyễn Ngọc Mộc, Đỗ Kim Cuông… trở thành bạn văn cùng trang lứa.

Nhà văn chiến trường đầu tiên tôi gặp

Tính từ ngày tôi rời miền Bắc, vượt Trường Sơn vào chiến trường miền Đông Nam Bộ, bao năm lang bạt khắp các địa bàn từ Tây tới Đông Bắc Sài Gòn, từ Bến Súc, Bến Cát, Trảng Bàng, Củ Chi, tạt sang Châu Thành, ngược lên Bình Cơ, Bình Mỹ cửa ngõ chiến khu "D", rồi vòng trở lại, cho tới khi tất cả những miền quê yêu dấu ấy đã tan hoang, bình địa do cái kế hoạch hủy diệt của Mỹ - ngụy bằng tất cả các loại bom, pháo, xe tăng, xe ủi, tới chất độc hóa học, nhằm biến nơi đây thành vùng đất chết, thành vành đai trắng để bảo vệ vững chắc đô thành Sài Gòn.
Để bảo tồn lực lượng, duy trì liên lạc với các lưới điệp báo nội thành, đơn vị H67 chúng tôi (Cụm Tình báo chiến lược thuộc J22, Cục Tình báo - Bộ Quốc phòng, có bí số là H67) được lệnh của cấp trên, chuyển địa bàn hoạt động về xứ dừa Bến Tre thuộc miền Trung Nam Bộ (khu 8) để đánh lạc hướng kẻ địch. Tính tới thời điểm đó tôi đã có trên 4 năm gắn bó với chiến trường ác liệt. Là người yêu thích văn học, có lúc tôi bần thần suy nghĩ, cả quãng thời gian dài dằng dặc ấy, chúng tôi chưa một lần được gặp ai gọi là nhà văn, nhà thơ.
Duy nhất một lần, khoảng đầu năm 1969 tại căn cứ Cụm Tình báo B49 ở khu vực Bến Chùa, Thanh An được tiếp xúc 2 vị khách trong đoàn văn nghệ địa phương, trong đó có một người quê miền Bắc. Anh giới thiệu tên là Cương, quê ở Hải Phòng, tuổi lớn hơn tôi cả nửa con giáp, hiện làm công tác văn hóa, văn nghệ ở khu Sài Gòn - Gia Định. Tôi reo lên "Trời ơi! Mấy năm mới gặp được một người đồng hương. Mong sao còn sống tới ngày đất nước hòa bình, nhất định tôi sẽ tìm về thành phố Cảng quê anh. Tôi có ông chú công tác ở đó" - "Ở cơ quan nào vậy?" - "Công ty hợp doanh Thống nhất. Địa chỉ ở 122 phố Ngô Quyền. Tên là Đặng Hữu Trí".
Thạch Cương mở bòng rút ra một tờ báo Văn nghệ đưa cho tôi: "Tặng cậu cái này làm kỷ niệm". Tôi vồ lấy tờ báo, khẽ reo lên: "Trời ơi! Hơn 3 năm nay mới nhìn thấy, mới được cầm một tờ báo như thế này". Tôi vội mở từng trang, lướt qua tít bài, tên tác giả và dừng lại ở trang truyện ngắn có cái tên thật dân dã: "Xóm Bàu" của tác giả Thạch Cương. Tôi ngước nhìn anh, ngập ngừng: “Anh ơi! Có phải cái này…" - "Ờ… Cái đó mình viết từ dạo đầu năm. Vòng vèo thế nào mà gần đây mới tới tòa soạn". Tôi vội đứng dậy, nắm chặt tay anh, lại thốt reo lên: "Trời ơi! Thật may mắn, thật không ngờ lại được gặp nhà văn ở đây! Tiếc quá, nếu được gặp anh sớm hơn để… nhờ thầy đọc và sửa giúp mấy cái…" - "Cha! Vậy là Thái Dương (tên thường dùng của tôi ở chiến trường, đồng thời cũng là bút danh) cũng làm công tác văn nghệ?" - "Dạ không, làm công tác nghiệp vụ, nhưng thích văn nghệ, viết được mấy cái truyện, nhưng èo uột lắm, chả dám đưa ai đọc, chả dám gửi đi đâu. Giá được gần anh thì hay quá…" - "Cứ viết đi, viết những cái đang diễn ra ở chiến trường. Đừng tự ty với mình. Ngày mới cầm bút, mình cũng thế".
Cuộc tiếp xúc quá ngắn ngủi rồi phải chia tay anh. Mấy tuần sau, tôi nhận được quyết định đi triển khai một cụm mới, trở lại chiến trường Đông Bắc Sài Gòn, phía cửa ngõ chiến khu "D". Phải dừng lại ở An Phú, Củ Chi mấy ngày, chờ vượt sông Sài Gòn về Nam Bến Cát. Tình cờ gặp một cán bộ khu Sài Gòn - Gia Định, hỏi về nhà văn Thạch Cương, người đó quá rành, kể rất chi tiết: "Ông này viết hay và viết khỏe lắm. Ở chiến trường bom đạn tối ngày mà viết và in tới mấy tập truyện rồi đó. Thạch Cương quê miền Bắc. Hình như ở Hưng Yên, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Văn ở Hà Nội, rồi về dạy học ở Hải Phòng. Năm 1965 vô chiến trường. Đã công tác ở Báo Văn nghệ Quân giải phóng, rồi về đây…".
Chiến trường Đông Bắc quá căng thẳng, không tìm được địa bàn bám trụ, toàn đơn vị lại chuyển về Tây Bắc. Do yêu cầu đột xuất, tôi lại nhận quyết định về cụm H67, căn cứ bám trụ tại rừng Bời Lời - Tây Ninh, thay nhiệm vụ của một cán bộ nghiệp vụ bị thương phải chuyển về "R". Cuối năm đó đơn vị chuyển vùng hoạt động về Bến Tre. Tôi xa chiến trường miền Đông Nam Bộ từ đó. Cũng có nghĩa là xa người đồng chí, người anh - một nhà văn đồng hương vừa quen biết mà không hy vọng có ngày gặp lại.

Dọc đường hành quân

Từ căn cứ Bời Lời về Bến Tre, đường chim bay chẳng bao xa, nếu đi đường bộ bằng xe đò (khách) cũng chỉ hơn một trăm cây số. Cao lắm cũng chỉ hết 4 giờ đồng hồ, kể cả qua Bắc (phà) Rạch Miễu. Ấy vậy mà chúng tôi phải đi mất hơn 1 tháng. Số là phải đi vòng vèo, phải "mua" thêm nhiều quãng đường hết sức phi lý. Rồi thêm cái nạn tắc đường giao liên do địch càn quét.
Từ Bời Lời, phải vượt qua mấy huyện của tỉnh Tây Ninh để lên biên giới Campuchia, rồi cập theo biên giới xuôi phía Nam về Ba Thu, Tăng Lèo. Dừng chân ở đó tới gần 2 tuần lễ để chờ chuyến giao liên. Đó là một vùng an toàn trên đất Campuchia, cách xa biên giới Việt Nam. Thời đó, dọc theo biên giới từ Sa Mát, Thiên Ngôn tới Ba Thu, Tăng Lèo… là vùng an toàn, yên tĩnh, nên rất nhiều cơ quan, đơn vị của ta tạm lánh lên đây. Đối với tôi, đó là những ngày thanh thản nhất sau bao năm căng thẳng ở chiến trường.
Một chiều Tăng Lèo yên ả. Chúng tôi đang ngồi uống trà trước lán nghỉ thì có một vị khách "không hẹn mà tới". Đó là một trung niên, tầm thước, da mai mái, tóc hớt cao, tướng mạo dễ gần. Chúng tôi mừng quýnh, chắc là lãnh đạo đơn vị giao liên tới thông báo chuyến đi. Nhưng rồi không phải.
Khách tự giới thiệu là thành viên trong đoàn cán bộ Cục Chính trị đi thực tế. Tôi thốt reo lên: "A! Chắc các anh cùng về chiến trường Bến Tre" - "Không! Mình ở Văn nghệ Quân giải phóng. Chỉ được về tới đây thôi. Mình là Thanh Giang". Tôi như muốn reo lên: "Vậy anh là nhà thơ, tác giả bài "Cô em gái". Khách khẽ gật đầu, ngước nhìn tôi: "Cha!... Ở chiến trường ác liệt vậy mà theo dõi tình hình văn nghệ kỹ đó". Đối với tôi, thật không ngờ lại có một cuộc gặp gỡ tình cờ như thế.
Nghe tôi nói rất mê văn nghệ, đang tập tọe viết, gương mặt khách rạng ngời: "Tốt, tốt lắm! Trên này rất cần những bài viết sôi động từ chiến trường gởi về. Cho coi mấy cái đi". Đắn đo giây phút, tôi mở bòng, lôi ra một mớ thập cẩm bản thảo gồm truyện ngắn, ký sự, thơ, lựa mãi mới "liều mạng" rút ra cái truyện "Cu Tèo và cái giàn thun" đưa cho anh. Lướt qua bản thảo, khách gật gật khen: "Tốt! Viết tốt đó, đúng là "giặc vẫn còn, trẻ con cũng đánh". Vậy mà không gởi về. Cái này có thể in ngay được".
Biết đoàn tôi đi Bến Tre, nhà thơ Thanh Giang bùi ngùi tâm sự: "Mấy anh về đúng quê mình đó. Thèm về chiến trường lắm mà không được đi. Trên Ban, chỉ có 2 người, mình làm phó cho anh Nguyễn Thành Vân (Nguyễn Trọng Oánh), nên có muốn cũng kẹt. Thái Dương về Bến Tre nhớ viết được cái gì cứ gởi về trên này. Cái nào chưa in thì bọn mình giữ hộ. Chiến trường sông nước, bom đạn ác liệt, để mất mát thì uổng lắm".
Lời khuyên của 2 nhà văn bậc đàn anh, trở thành nguồn cổ vũ, động viên tôi trên bước đường sáng tác của mình. Về Bến Tre, đơn vị chúng tôi tạm thời tập kết tại xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm. Ba ngày sau, tôi được phân công cùng một tổ trinh sát, do cụ Phó Năm Tuyến phụ trách, tìm đường về xã An Phước, huyện Châu Thành, để xây dựng căn cứ bám trụ. Đó là một địa bàn nằm phía Đông - Bắc thị xã Bến Tre. Đường chim bay từ Giồng Trôm sang chắc cũng chỉ mười mấy cây số. Vậy mà phải 4 đêm hành quân mới tới nơi. Phải sọc về xã Châu Bình thuộc Giồng Trôm, từ đây, cặp sông Ba Lai, đi ngược lên qua Phong Mỹ, Phong Mẫm, rồi vượt kênh Chẹt Sậy mới về được An Phước.
Một chuyến đi với biết bao cảm xúc về tình cảm quân dân, về tinh thần bất khuất kiên trung của đồng bào, đồng chí chúng ta. Ở Châu Bình, tôi đã ghi lại tư liệu để viết truyện ngắn "Vùng tử địa", in trên Văn nghệ Quân giải phóng năm 1972. Ngày đầu đặt chân tới An Phước, tôi đã cảm hứng sáng tác bài thơ "Mùa dâu chín", gửi in trên Văn nghệ Đồ Chiểu của tỉnh Bến Tre năm 1970 và Văn nghệ khu 8 năm 1971, cùng nhiều bài viết in trên báo và tạp chí địa phương.
Tôi thầm cảm ơn hai bậc đàn anh văn chương của tôi và vẫn thắc thỏm mong chờ sẽ có ngày... Vậy mà, thăm thẳm mười mấy năm sau tôi mới có may mắn gặp lại. Thật không ngờ, nó diễn ra giữa "Sài Gòn hoa lệ", nơi mà cả 2 anh đều đã trở thành công dân ở đó. Niềm xúc động đối với tôi là cả 2 người đều nhận ra tôi ngay. Hai anh là người thầy của bao lớp học trò. Còn tôi, chỉ là một cậu học trò trong chốc lát, vậy mà...
Ôi! Nghĩa tình đồng đội, đồng chí của một thời máu lửa, nó đậm đà, thiêng liêng, thắm đượm như vậy.

Hà Nội, tháng 4/2011
_________________________________________________

Cái tôi trữ tình trong trường thơ Loạn

Nguyễn Thị Quyên


1.1. Trường thơ Loạn manh nha từ nhóm thơ Bình Định với những tên tuổi như Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên. Đến năm 1936, nhận thấy tính khuynh hướng nổi trội trong sáng tác của từng người, Hàn Mặc Tử đã chủ trương thành lập trường thơ Loạn cùng với Yến Lan, Bích Khê và Chế Lan Viên. Từ đó mà trường thơ Loạn thực hiện cuộc hành trình đi từ âm vang Đường thi đến thung lũng đau thương, tràn bờ sang cả những bóng ma Hời trên tháp Chàm u uẩn, rồi chọn cho mình điểm dừng ở cuộc duy tân của Bích Khê. Trường thơ Loạn đã tạo ra những luồng xung lực trái chiều, con đường để họ gia nhập thi đàn Thơ mới cũng có không ít những chông gai. Kinh qua những bước thăng trầm, trường thơ Loạn vẫn khẳng định được vị trí của mình một cách vinh quang nhất.
1.2. Sự ra đời của cái Tôi cá nhân (individu) là một thành tựu rực rỡ của văn học Việt Nam. Cái Tôi cá nhân chính là hình tượng của chủ thể trữ tình trong tác phẩm thơ. Thông qua cái Tôi, nhà thơ giãi bày tâm tư, tình cảm, thế giới quan, tư tưởng của mình. Nhìn từ góc độ phản ánh luận thì cái Tôi lại chính là đối tượng phản ánh của nhà thơ, là kết quả của sự miêu tả, tự đánh giá, tự ý thức của chính nhà thơ. Đặt trong tương quan với tác giả, cái Tôi của nhà thơ cũng là đối tượng thuộc phạm trù khách thể và được Vũ Tuấn Anh xác định: “Cái Tôi trữ tình vừa là một cách thế nhìn và cảm nhận thế giới của chủ thể, lại vừa là một điểm nhìn nghệ thuật của chủ thể. Đồng thời, cái Tôi trữ tình cũng đóng vai trò sáng tạo, tổ chức các phương tiện nghệ thuật (thể thơ, hình tượng, vần, nhịp…) để vật chất hóa thế giới tinh thần thành một hình thức văn bản trữ tình”([1]). Có thể nói rằng, tiến trình thơ trong lịch sử văn học nói chung luôn luôn đồng hành với sự vận động của các kiểu cái tôi trữ tình. Theo cách diễn giải của G. F. Heeghen, mỗi thời đại đều định hình một kiểu cái tôi văn học riêng: “Mỗi thời đại đều có lối cảm xúc tế nhị hay cao siêu, hay tự do của nó. Tóm lại, mỗi thời đại đều có lối quan niệm riêng về thế giới của nó. Cái này được biểu hiện rõ ràng nhất và hoàn toàn nhất vì tiếng nói dùng để diễn đạt tất cả những gì diễn ra trong tinh thần con người”([2]). Cái Tôi trong thơ thời nào cũng có nhưng khái niệm, nội hàm và sắc thái biểu hiện của cái Tôi qua các giai đoạn văn học là khác nhau. Theo Đỗ Lai Thúy, lịch sử hình thành cái Tôi cá nhân là một tiến trình vận động trải qua các hình thái: “Cái Tôi cá nhân với tư cách vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của nền văn hóa mới xuất hiện. Một mặt, nó vừa nối tiếp cái Tôi tập đoàn (hay cái Tôi đại diện) của xã hội cổ truyền đã phát triển qua các hình thái như cái Tôi làng xã, cái Tôi vô ngã Lý- Trần, cái Tôi quân tử và cái Tôi tài tử”([3])
2.1. Cái Tôi của các nhà thơ Loạn bị đẩy vào bờ vực cái chết thì khát vọng sống lại càng trở nên mãnh liệt. Cái Tôi ấy luôn mong manh bên bờ vực cuộc đời trần thế và cõi siêu nhiên. Đó là những đối cực không thể vượt thoát. Thơ Loạn là những vần thơ được viết ra từ những tâm hồn khát sống đến mãnh liệt. Khi cuộc sống bị thu ngắn lại thì họ càng thấm thía giá trị của những khoảnh khắc hiện tại để họ khao khát được sống, được yêu. Càng khao khát thì càng tuyệt vọng, đó chính là những đối cực nhưng lại thống nhất biện chứng trong mạch cảm xúc của các nhà thơ Loạn.
Khi khổ đau lên đến tột cùng, con người thường tìm đến với một vùng trời bình yên trong mơ ước. Chỉ ở đó, họ mới có thể quên đi nỗi đau của mình để sống với trọn vẹn tình yêu, năng lực sống của mình. Song thực tại không bao giờ buông tha họ để cho họ phải điên cuồng hối hả tận hưởng sự sống đang úa tàn dần trước mắt họ. Thơ Loạn bật lên từ cõi chết mà chống lại chính cái chết đang bủa vây. Đôi lúc nó quay về quá khứ nhưng để tìm trong đống đổ nát hoang tàn một mầm sống âm thầm lặng lẽ nhưng xanh mướt vô cùng. Người nghệ sĩ khó kìm nổi mãnh lực của chính mình, bùng cháy nổ tung thành những trang viết toàn những hồn, máu, tủy, những tinh huyết hiến dâng cho đời. Những khi ấy, con người không còn là mình nữa nó phân thân thành một thực thể khác, trong trẻo hơn, tinh khiết hơn để hòa mình vào thiên nhiên, miên man trong cõi huyền diệu.
2.1.1. Trần thế và siêu nhiên là hai đối cực trong thơ Loạn. Từ trần thế chỉ cần với tay nháy mắt, chỉ cần phiêu du một chút, ta có thể lạc ngay vào cõi tiên huyền diệu. Nơi ấy, hạnh phúc hiện hình giữa thời gian vô tận và không gian vô cùng: Lên Kim tinh xác bằng thanh khí/ Đất lưu ly không khí xạ hương/ Cây du dương lâu đài song sóng/ Trên biển châu trời lộn kim cương([4]) (Bích Khê). Trong không gian ấy, cái gì cũng ngất ngây huyền diệu. Không gian như sợi tơ giăng mắc, khẽ chạm đường tơ đã réo rắt những cung đàn. Cõi siêu nhiên được phôi thai trong nỗi cô đơn tuyệt vọng của con người. Cuộc đời dồn đuổi, hạnh phúc lùi xa, cái chết ám ảnh, các nhà thơ Loạn tìm sự hoàn mỹ ở cõi vô thường. Thơ họ là liều thuốc vuốt ve, vỗ về những niềm đau. Nhưng họ luôn rơi vào mâu thuẫn giữa thực tại khổ đau và khát vọng được dung hòa, đưa con người vào nỗi u sầu đến ngất ngư, hối hả đến điên cuồng để bám riết lấy sự sống: Anh đã thoát hồn anh ngoài xác thịt/ Để chập chờn trong ánh sáng mông lung/ Để tìm em đưa hai tay ràng rịt/ Mảnh tình thiêng ngả ngốn giữa không trung (Hàn Mặc Tử). Càng bị đẩy sâu vào khổ đau tuyệt vọng con người lại càng khám phá ra những miền đất hoang sơ với hạnh phúc ngọt ngào. Những chiều kích của tâm hồn con người được thăng hoa tột độ, không phải bằng lý trí, vượt hẳn ra ngoài lý trí để đi vào chiều sâu con người ở thế giới vô thức, đưa con người vào trạng thái mơ hồ lâng lâng, ngây ngất: Lam nhung ô! Màu lưng chừng trời/ Xanh nhung ô! Màu phơi nơi nơi/ Vàng phai nằm in ôm non gầy/ Chim yên neo mình nương xương cây/ Đây mùa hoàng hoa, mùa hoàng hoa/ Đông nam mây đùn nơi thành xa (Bích Khê). Họ loãng tan hồn mình để hòa lẫn vào không gian trong trẻo với niềm hạnh phúc vô biên: Chúng ta biến em ơi thành thanh khí/ Cho tan ra hòa hợp với tình anh/ Của trời đất và muôn vàn ý nhị/ Và tình ta sáng láng như trăng thanh (Hàn Mặc Tử). Cõi siêu nhiên đôi khi lại là một thế giới cuồng loạn nơi người nghệ sĩ gửi vào đó những khao khát bị kìm nén, những nỗi tuyệt vọng đến vô cùng:Chiều hôm nay bỗng dưng ta lạc bước/ Vào nơi đây thế giới vạn cô hồn (Chế Lan Viên). Ở đó, người nghệ sĩ có thể thỏa sức gào rú, rên xiết, nức nở khóc than. Họ có thể cười phá lên vỡ òa cả vũ trụ. Nỗi đau có khi nâng cánh người ta lên thiên đường, nhưng có có thể nhấn chìm người ta xuống địa ngục rờn rợn hơi ma, hoảng sợ và đầy mộng mị, ảo giác: Tôi ngồi dưới bến đợi nường mơ/ Tiếng rú ban đêm rạn bóng mờ/ Tiếng rú hồn tôi xô sóng vỡ/ Rung tầng không khí, bạt vi lô (Hàn Mặc Tử).
Thơ Loạn là cõi siêu hình ngập ngụa những máu, đôi khi quay cuồng trong vũ điệu của thần chết, phả ra mùi tanh nồng của thịt rã, xương tan, đôi lúc chan chứa nỗi chán chường không sao cứu vãn nổi. Họ điên cuồng nhảy múa, la hét và cười sằng sặc, bởi họ yêu cuộc sống này đến phát điên, đến rồ dại cả người. Bệnh tật đã dồn đuổi họ ra ngoài lề xã hội, họ đứng bơ vơ lạc lõng giữa dòng đời. Họ hoảng hốt đi tìm những hình ảnh thân quen, những ánh mắt những nụ cười giờ bỗng nhiên thành xưa cũ, quá khứ lùi lại sau lưng họ, tình yêu thì tan vỡ trong hố thẳm không cùng. Họ tuyệt vọng nên muốn đập phá cả vũ trụ, làm đảo lộn cả càn khôn, muốn quay ngược thời gian trốn mình vào dĩ vãng, vào tình yêu đã mất. Họ nức nở khóc than cho ước mơ đang tan biến từng giờ nên khao khát kiếm tìm sự cảm thông: Hiểu gì không ý nghĩa của trời thơ/ Của hương hoa trong trăng lờn lợt bảy/ Của lời câm muôn vì sao áy náy/ Hiểu gì không, em hỡi! Hiểu gì không? (Hàn Mặc Tử). Ngay cả cái chết cũng không ngăn được tình yêu sống trong họ, thậm chí còn làm cho tình yêu đó thêm thăng hoa thành những giá trị nhân bản nhất. Nỗi đau có lúc nhấn chìm họ quăn quại trong vũng đau thương, có khi lại nâng họ phiêu du giữa chốn cung hằng. Hơn tất cả những gì đang sống họ thiết tha yêu sống, yêu cõi trần tục này. Tình yêu ấy được gửi vào hoa cỏ đất trời vào tất cả những gì gắn bó với cuộc đời. Càng yêu sống họ càng lưu luyến với những tháng ngày đã qua: Để nếm lại cả một thời xưa cũ/ Cả một dòng năm tháng đã trôi qua (Chế Lan Viên). Không được yêu thương ở cõi trần, thi sĩ ngây ngất với các tiên nương ở chốn mộng ảo, đào nguyên ở chính lòng nàng: Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi/ Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi/ Tìm đâu đào nguyên cho xa xôi/ Đào nguyên trong lòng nàng đây thôi (Bích Khê). Quá khứ đã tuột khỏi tầm tay, tình yêu giờ chỉ là muôn năm sầu thảm, dù có ngất ngây với tiên nương nhưng vẫn nhớ thương đến quắt quay một dáng hình nơi trần thế. Những tin yêu ấy họ đã gửi vào những mỗi tình tuyệt vọng giờ lại càng cháy bỏng đến thiết tha. Càng bị phụ rẫy thì con tim lại càng lên tiếng yêu thương: Dẫu đau đớn vì điều phụ rẫy/ Nhưng mà ta không lấy làm đều/ Trăm năm vẫn một lòng yêu/ Và còn yêu mãi rất nhiều em ơi (Hàn Mặc Tử). Dù chỉ còn một chút hy vọng nhưng các nhà thơ Loạn vẫn cứ bám riết vào đời để sống để chắt chiu từng chút hơi ấm tình người. Chốn cung hằng có thể làm dịu mát những cơn đau nhưng chính cõi trần mới là sự níu kéo họ ở lại. Dù cho có lúc chìm vào siêu thực nhưng trên hết họ không muốn rời bỏ cuộc đời để tìm những cái hư ảo, những hình tượng siêu nhiên nhạt thếch. Họ say sưa bắt nắng ngừng, nắng reo, nắng cháy, họ rình nghe niềm ý bâng khuâng. Thơ Loạn đã dìu hồn người tan cùng vạn vật. Được tan vào thiên nhiên là cái khao khát trú ẩn trong cõi vĩnh hằng, là ước mơ được sống khi ý thức về cái chết đang đến từng ngày. Thi sĩ kiếm tìm khắp không gian hương thơm đê mê của cuộc sống. Nếu được sống, dù một phút nhỏ nhoi thôi họ vẫn yêu thương: Ta còn trìu mến biết bao người/ Vẻ đẹp xa hoa của một thời/ Đầy lệ đầy hương đầy tuyệt vọng/ Ôi! Giờ hấp hối sắp chia phôi (Hàn Mặc Tử). Đó không phải là tiếng kêu từ cõi chết, đó là tiếng nói cất lên từ khát vọng sống để yêu thương. Những con người ấy đã sống mãnh liệt và đầy đủ cuộc sống. Có thể có những lúc đau thương, luyến tiếc, hờn giận chất đầy những nhà thơ Loạn đã xa lánh cõi trần tục ấy để đi tìm chút an ủi ở cõi siêu nhiên, song thơ Loạn vẫn lấp lánh tình đời. Chất đời ấy đã kéo thơ Loạn về mặt đất vững chãi, mặt đất quen thân của chính mình. Và cõi đời trần tục ấy, con người đã hận đã yêu, đã quên đã nhớ đến khánh kiệt linh hồn. Bên bờ vực thẳm của cái chết thi nhân đã kêu lên đau đớn sự luyến tiếc của thời gian: Tôi khát vô cùng/ Tôi riết thời gian trong năm tay/ Tôi vo tiếc mến như vo lụa (Hàn Mặc Tử). Thời gian chảy mãi như sông trôi về với biển, đối với các nhà thơ Loạn thời gian không là dòng sông êm dịu nhiều ghềnh, lắm thác, để từ trong nỗi đau một sức sống mãnh liệt dâng trào, tung mình thành bọt trắng để hòa vào đất trời cỏ cây. Có thể cuộc đời còn những vũng đau thương, những mối sầu vạn cổ… nhưng với các nhà thơ Loạn nó vẫn là khúc nhạc Nghê Thường, là giấc mộng ngàn đời để được sống, để được yêu thương. Thi sĩ như thể trích tiên bị đày đọa ở cõi trời nhưng lại yêu thiết tha nơi đã mang đến cho họ những nỗi đau đớn điên cuồng về tâm hồn và thể xác. Dù có trở lại cõi trời thì họ cũng xót xa luyến tiếc: Đấy là tất cả người anh tiêu tán/ Cùng trăng sao bàng bạc xứ say mơ/ Cùng tình em thiết tha như văn thơ/ Ràng rịt mãi cho đến ngày tận thế (Hàn Mặc Tử).
Thơ Loạn là đối cực giữa tình yêu trần thế và cõi siêu nhiên. Thật ra cõi siêu nhiên ở đây được ánh xạ từ cõi thực, từ tình yêu thiết tha của con người đối với cõi thực và làm thăng hoa nó, bao phủ lên nó sắc màu mộng ảo liêu trai tùy vào tư duy của người nghệ sĩ. Nhưng trên hết, thơ Loạn cũng là những vần thơ của tâm hồn yêu đến cuồng dại cuộc sống trần tục cõi đời đã nuôi lớn họ đã ôm ấp và cho họ một tâm hồn để yêu để giận. Thơ Loạn vẫn ăm ắp tình người. Cõi siêu nhiên chẳng qua là cuộc sống đã được những linh hồn nhạy cảm ấy hiểu đến tận cùng. Từ cái phi thường trong cuộc sống đã thúc ép cái phi thường trong từ tưởng từ đó những vần thơ ra đời đầy khát vọng và tình yêu.
2.1.2. Thơ Loạn thể hiện những đối cực giữa khát khao và tuyệt vọng. Thi nhân bước vào vườn tình ái với tất cả sự thèm muốn rạo rực: Anh tính ôm cầm lấy mắt mơ/ Lấy môi lấy má… lấy ngây thơ/ Để anh nút ớn mùi hương ấm/ Của một tình yêu giận hững hờ (Bích Khê); Bóng hằng trong chén ngả nghiêng/ Lả lơi tắm mát làm duyên gợi tình/ Sóng xao mặt nước rung rinh/ Lòng ta khát miếng chung tình từ lâu/ Uống đi cho bớt khô hầu/ Uống đi cho bớt cái sầu mênh mang/ Có ai nuốt ánh trăng ngàn/ Có ai nuốt cả bóng nàng tiên nga/ Đã thèm cái giấc mơ hoa (Hàn Mặc Tử). Các nhà thơ Loạn yêu một cách điên cuồng đến rồ dại bải hoải cả chân tay nhưng lại phải tự kiềm chế vì: Thưa tôi không dám si mê/ Một mai tôi chết bên khe Ngọc Tuyền (Hàn Mặc Tử). Tình yêu đã làm cho thi nhân muốn được kề môi say ân ái, muốn ôm, muốn uống. Tình yêu ấy khi thì như con sóng ngầm có lúc lại dâng trào mãnh liệt: Khoan đã em, nép mình vào bóng lá/ Riết lấy anh cho chặt kẻo hồn bay (Chế Lan Viên). Tình yêu có lúc đẩy thi nhân xuống vực thẳm tuyệt vọng nhưng cũng có lúc làm cho sự sống hồi sinh. Có lúc tình yêu bỏ thi nhân đi để lại nỗi uất ức: Làm sao giết được người trong mộng/ Để trả thù duyên kiếp lỡ làng (Hàn Mặc Tử). Thi sĩ bám riết lấy sự sống lấy tình yêu để quên đi thực tại đau buồn. Chế Lan Viên tự ru mình bằng tình yêu mộng ảo cùng Chiêm nương xinh đẹp, nhưng cũng nhanh chóng tuyệt vọng: Lời chưa dứt bóng đêm đã vụt biến/ Tình chưa nồng đã sắp phải phôi pha. Khát khao để mà tuyệt vọng, tha thiết đến cuồng si để mà đớn đau đến rồ dại, thi nhân thơ Loạn đã vượt qua ngưỡng bình thường mà vươn tới tình yêu tuyệt đích: Hạnh phúc ngoài đời nhiều vẻ đẹp/ Em đừng bận bịu ái ân xưa/ Lòng anh chẳng muốn cho em phải/ Lẻ tẻ chân trời bóng nhạn thưa (Bích Khê).
2.2. Cái Tôi trữ tình trong thơ Loạn không phân ly tuyến tính mà phân lập bản thể một xác thân thành nhiều nhân cách đồng hiện. Cái Tôi trữ tình trong thơ Loạn phân li thành muôn mảnh: xác - hồn – máu – trăng - giai nhân… mà mỗi mảnh vừa là sự thu nhỏ của cái nguyên Tôi vừa là một cái Tôi khác. Thi nhân vừa là con người bằng xương bằng thịt giữa cõi trần lại vừa cùng với những bóng ma Hời sờ soạng dắt nhau đi. Thi nhân là người có thể ngủ trong sao, trốn trong một tinh cầu lạnh lẽo. Hồn thơ đã được đẩy đến một vùng đất lạ, một cõi huyền hoặc mà thi nhân là người phải gánh chịu những cơn đau: Trong thơ ta dân Chàm luôn sống mãi/ Trong thơ ta xương máu khóc không thôi (Chế Lan Viên). Cái nguyên Tôi phân thân thành nhiều dạng thức: là người, là ma, là yêu, là tinh, vẩn vơ giữa hiện tại và quá vãng, thực và mơ, âm và dương, cõi trần và tiên giới trong sự xáo trộn khôn lường. Cái Tôi ấy tự rợn ngợp tách mình: Lụa trời ai dệt với ai căng/ Ai thả chim bay Quảng Hàn/ Và ai gánh máu đi trên tuyết/ Mảnh áo da cừu ngắn nở nang (Hàn Mặc Tử). Trong khát khao và tuyệt vọng, cái Tôi phân ly thành cái Tôi đau thương xác và hồn.
2.2.1. Thân xác quẩn quanh trong bệnh tật và cái chết chỉ có linh hồn là có thể bay lên. Đây là sự vượt thoát mãnh liệt khỏi nỗi cô đơn: Hồn say sưa vào khắp cõi trời Mơ (Chế Lan Viên). Thân xác thì hữu hạn đang bị hủy hoại từng giờ còn linh hồn thì lại khao khát cái tuyệt đích. Xác và hồn rơi vào cuộc quyết đấu: Hồn theo tôi như muốn cợt tôi chơi… Hồn đã cấu đã cào đã nhai ngấu nghiến… Day dứt trong cơn đau thân xác đã tự vấn linh hồn: Hồn là ai? Là ai? Tôi chẳng biết/ Hồn theo tôi như muốn cợt tôi chơi/ Môi đầy hương không dám ngậm cười/ Hồn vội mớm cho tôi bao ánh sáng (Hàn Mặc Tử). Không chịu nổi sự bức bối của nhân gian hồn tìm đến một cõi khác: Cho hồn ta vụt bay lên vòi vọi (Chế Lan Viên). Thân xác càng bị vây hãm thì linh hồn càng thăng hoa đi vào một thế giới đầy trăng, hoa, nhạc, hương: Tôi nhập hồn tôi trong khúc hát/ Để nhờ không khí đẩy lên trăng (Hàn Mặc Tử).
2.2.2. Có khi cái Tôi đớn đau mà tan chảy thành máu. Máu là cái chết, là hội tụ nỗi đau khủng khiếp: Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa/ Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô/ Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy/ Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra (Hàn Mặc Tử). Thơ Loạn ứa ra những giọt máu phẫn uất đau thương: Máu cuồng vẫn chảy điệu mê tơi… Máu cuồng run khắp trong thân thể…(Bích Khê); Ta sẽ uống máu lan cùng tủy chảy/ Ta sẽ nhai thịt nát với xương khô…(Chế Lan Viên); Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết (Hàn Mặc Tử). Có khi khối đau thương ấy tan ra thành cả một biển máu: Khí ồ ạt như muôn năm không dứt/ Ồ ạt trôi nguồn máu chiến trường xa (Chế Lan Viên); Máu tim ta tuôn ra làm biển cả…Trong lòng và đang tắm máu sông ta (Hàn Mặc Tử). Muốn thoát ra khỏi máu và hồn, cái nguyên Tôi phải trải qua một quá trình sinh nở đầy đau đớn: Ta mửa ra từng búng huyết/ Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra…Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết…(Hàn Mặc Tử). Riêng trong thơ Bích Khê, cái Tôi phân li thành hồn và giai nhân. Nhà thơ dẫn hồn đến với giai nhân để cùng vui đùa quấn quýt. Cái Tôi phân ly để thăng hoa trong cõi huyền diệu cùng sống với người đẹp trong cõi huyền diệu của lưu ly, ngọc thạch, trân châu, mã não: Nàng ơi! Hồn say trong mơ màng/ Hồn ta? Hay là hồn tình lang? (Bích Khê).
2.2.3. Có khi cái nguyên Tôi ấy phân ly thành trăng với niềm kinh dị. Trăng lan tỏa ánh sáng khắp nơi xen lẫn cả nội tâm và ngoại giới với đầy đủ mọi cung bậc và sắc thái. Trăng trong thơ Loạn vừa lạnh lẽo võ vàng, vừa kì dị ma quái lại vừa mênh mông, êm dịu. Trăng kỳ ảo ma quái: Mở cửa nhìn trăng trăng tái mặt (Hàn Mặc Tử); Tôi muốn ngồi trăng cứ đè tôi xuống (Chế Lan Viên). Trăng biến hóa muôn hình vạn trạng mang theo những ánh sáng kỳ ảo đến lạ thường. Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử là một linh hồn vừa bình dị lại vừa kinh dị: khi nằm sóng soãi, khi choáng váng ngã ngửa, nước hoá trăng, trăng hoá nước…Bóng dáng con người cũng được ánh trăng bao bọc. Có khi trăng cũng trần tục leo song sờ sẫm gối. Hàn có thể nghe được trăng đi, cảm được trăng thở, thấy được con trăng điên cuồng quẫy đạp. Với Bích Khê, trăng ánh lên thứ ánh sáng rực rợ và sang trọng, tinh khiết. Trăng biến thành ngọc: Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành. Trăng là người yêu người yêu là trăng: Lò mò đường lên mây/ Chén trăng vừa tầm với/ Chàng ơi vàng ròng đây/ Kề môi say ân ái. Con người trong thơ Loạn cũng bị trăng hóa như thế: Không gian dày đặc toàn trăng cả/ Tôi cũng trăng và nàng cũng trăng/ Người trăng ăn vận toàn trăng cả (Hàn Mặc Tử). Các nhà thơ Loạn đã thổi hồn vào trăng, nên nó quằn quại trong nỗi đau thể xác của con người. Nó điên, nó kêu gào đến tuyệt vọng, nó tự tử nhưng cũng có lúc dịu dàng làm duyên con gái: Mới lớn lên trăng đã thẹn thò/ Thơm như tình ái của ni cô (Hàn Mặc Tử); Chẳng vang lên ngập suối trăng êm (Chế Lan Viên).
Xác, hồn, trăng trong thơ Loạn phân ly để hòa nhập thành một cái nguyên Tôi kì dị: Xác ta sẽ hút bao nguồn trăng loạn/ Ngấm vào trong cơ thể những hoa hương/ Và sẽ thở ra toàn hơi thở sáng/ Để trên cao hồn khỏi lộn màu sương (Hàn Mặc Tử). Trăng biến ra tất cả những gì tinh túy nhất: Ôi nắng vàng thơm rung rinh điệu ngọc…Màu trăng không gian như gờn gợn sóng (Bích Khê); Ta ngậm hương trăng đầy lỗ miệng….Như bông trăng nở bông trăng nở (Hàn Mặc Tử); Trong nhạc trăng vang nổi khắp cung mây (Chế Lan Viên). Cuộc giằng co giữa khát vọng và hủy diệt đã buộc cái Tôi phải phân thân để vượt thoát những nỗi đau. Sự hoảng loạn đã sản sinh ra một thế giới nghệ thuật kỳ dị. Thế giới trăng của Chế Lan Viên hoang tàn đổ nát với thứ ánh sáng nhợt nhạt và lạnh lẽo để đồng lõa với cái chết: Sương xây mồ bạc dấu trăng vàng. Trăng trong thơ Loạn đẹp lạ lùng và đầy ám ảnh. Nó được người hóa đến tinh vi: trăng ngủ bên đường, trăng ôm niềm tóc bạc, trăng nằm sóng soãi, trăng quỳ sấp mặt, trăng ghì riết làn da, trăng điên, trăng sầu héo hắt, trăng nghiêm nghị…Cái Tôi thơ Loạn phân thân thành những hình tượng đầy ám ảnh với những biến thái tinh vi nhưng thống nhất. Thi nhân khạc hồn ra miệng, ngậm cả miệng trăng để nhả ra vô số gái hồng nhan để rồi òa vỡ thành một thế giới kì dị lẻ loi và chứa đầy bí mật. Thơ Loạn càng tuyệt vọng thì lại càng yêu cuộc sống đến mãnh liệt. Khát khao và tuyệt vọng không chỉ là một tư thế trữ tình mà đã trở thành một dạng thức cảm xúc của cái tôi. Cả hai dạng thức ấy luôn song song tồn tại mâu thuẫn và bổ sung để làm nên sự phức điệu trong cái tôi trữ tình thơ Loạn.
2.3. Định mệnh nghiệt ngã đã xô các nhà thơ Loạn đến với tôn giáo để mở cánh cửa giải thoát khổ đau, tuyệt vọng. Tôn giáo như một sự cứu rỗi một niềm hứng khởi cho thơ ca. Cái Tôi trữ tình trong trường thơ Loạn thể hiện sự hòa hợp đạo và đời. Hàn Mặc Tử hòa hợp được cả Thiên chúa, Khổng giáo và Lão giáo. Chế Lan Viên đi từ yêu Chúa đến yêu Phật. Tôn giáo đã tạo ra một quầng sáng siêu hình và huyền ảo cho thơ Loạn. Cuối đời Bích Khê, Hàn Mặc Tử đều đọc kinh và ngâm thơ. Thơ Loạn là sự hòa hợp giữa nghệ thuật, tôn giáo và cuộc đời.
2.3.1. Nghệ thuật chân chính là nghệ thuật cứu vớt con người, vỗ về những nỗi đau và làm bùng cháy những niềm khát vọng. Và như thế nghệ thuật đến rất gần với tôn giáo. Bích Khê đã tìm đến với Phật giáo như một chốn tựa nương để cứu rỗi linh hồn khổ đau, sầu thảm. Những vần thơ đề trên mộ chí của Bích Khê mang đậm triết lý luân hồi. Tinh anh con người dường như vẫn còn lẩn khuất giữa làn ranh giới hư- thực, sau phút giây thể phách giã từ cõi sống để đến với một thế giới nhiệm màu được mà hồn chàng sẽ cư ngụ trong ánh trăng thanh: Thân bệnh: ngô vàng, mưa lá rụng/ Bút thần: sông lạnh, bóng sao rơi/ Sau nghìn thu nữa trên trần thế/ Hồn vẫn về trong bóng nguyệt soi. Bích Khê có một thời gian dài tiếp xúc với Phật giáo ở Huế, ở Phan Thiết và đặc biệt là ở quê nhà Thu Xà. Bích Khê sớm nhuốm mùi thiền, đặt chân vào địa hạt của Phật giáo một cách hết sức tự nhiên. Nhà thơ chọn cho mình cuộc sống thanh tịnh bên trên núi Thiên Ấn. Ở đó tiếng chuông chùa mỗi buổi chiều về làm tấm lòng thi sĩ được thanh tịnh. Đó là nơi mà chàng có thể tu tâm dưỡng tính, dinh dưỡng tâm hồn. Từ khi phải chịu một trong những “tứ chứng nan y”, cuộc sống bị cái chết dồn đuổi gấp gáp, nỗi tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm thì cõi Niết Bàn đã trở thành niềm ám ảnh khôn nguôi trong tâm trí Bích Khê. Niết Bàn với chàng là một thế giới “tinh hoa” và “tinh huyết”. Đó là thế giới linh thiêng “Thác là thể phách còn là tinh anh” như quan niệm của Nguyễn Du. Trong thế giới ấy, Bích Khê đắm say cùng hương thơm, thanh sắc và nhạc điệu. Thi ca sẽ đưa chàng đến với thế giới nhiệm màu để hóa giải những niềm đau. Dù nói thế nào đi nữa thì Bích Khê cũng không phải là một tu sĩ. Phật giáo trong cảm nhận của Bích Khê không phải là một tôn giáo khô cứng đơn thuần. Có lần chàng đã giãi bày cùng người bạn thơ là Quách Tấn: “Thiên đường và Niết Bàn theo tôi là những cái tên chỉ một chốn và đạo Phật, đạo Thiên Chúa…là những con đường để đi đến cực lạc và vĩnh cửu đó vậy”([5]). Thế giới mới của nhà thơ là thế giới hoà trộn giữa Thiên đường, Niết bàn và Thiền tông. Đó còn là sự hoà trộn giữa chủ nghĩa tượng trưng phương Tây và Mật tông của Phật giáo trong một thế giới nhị nguyên luận thần bí. Bích Khê hòa nhập bản ngã của mình vào trong cái vô thủy vô chung của tự nhiên để kiếm tìm sự siêu thoát. Trước khi từ giã cõi trần chàng niệm kinh Di Lặc và đợi chờ đức Phật đến đưa mình đi: Ta trên đài Vọng Hải/Chỉ nhượng Phật Như Lai. Với ông, Phật Như Lai chính là vương quốc của mọi sự giải thoát con người khỏi kiếp trần ai. Bích Khê nằm bất động lắng nghe từng tiếng kinh đều đều điểm vào không gian tĩnh lặng của các nhà sư đang tụng để siêu thoát cho mình. Chàng đã được gột rửa lòng trần, bước chân sang cõi vô biên bằng tâm thế thanh thản: Liêu Trai trở lại lánh vòng trần/ Ma phật mơ hồ mộng với thân. Bích Khê cảm nhận thiền vị trong từng hương thơm cây cỏ, trong từng hơi thở của tự nhiên: Mây trắng bay về núi Thạch chưa/ Ngồi bên gò mả nghe chuông vọng/ Chùa ông chim hót ở ngoài mưa/ Sắc cỏ thơm mùi kinh sách xưa. Tuổi thơ đầy thăng trầm với nỗi đau bệnh tật đã khiến cho Bích Khê luôn rơi vào những trạng thái chập chờn nửa mơ nửa tỉnh. Trước bóng đen của lưỡi hái tử thần chàng vẫn không thôi mơ mộng. Chàng vẫn đắm say trước thiên nhiên và ngộ ra những quy luật của vòng luân hồi, để rồi một lần đến với Ngũ hành sơn là một lần đạt đạo để hồi hương quy y cùng Phật Như Lai: Sực nức lò hương xông/ Trập trùng màu xiêm áo/ Lác đác trổ mưa bông/ Phật Như Lai thoạt hiện/ Trên bảy sắc cầu vồng/ Quái thay hòn non nước/ Nghe giảng đủ mười tông/ Muôn năm lòng đá rắn/ Nhuần thấm giọt từ bi. Chế Lan Viên kể lại sự kiện Kinh Di Đà thấm vào hồn mình từ đêm giao thừa 1937. Chế đã khao khát từ bi, hỉ xả để thoát khỏi luân hồi. Điêu tàn đã trở thành một niềm kinh dị ở lối tư duy tôn giáo siêu hình, hòa hợp giữa Phật giáo và Đạo giáo: Ta lắng nghe những thế giới bao la/ Tụ họp lại trong lòng muôn hột cát/Dòng tư tưởng dần trôi trong lầm lạc/ Hồn say sưa vào khắp cõi trời mơ/ Ai kêu ta trong cùng thẳm hư vô. Chịu ảnh hưởng của Thiên chúa khiến Chế Lan Viên ám ảnh đến ngày tận thế: Ngày mai đây muôn loài rồi tan vỡ/ Vũ trụ kia rồi biến ra hư không. Đó là nỗi băn khoăn mang màu sắc triết học, siêu hình về sự tồn tại: Ai bảo giùm ta có, có ta không?
Hàn Mặc Tử đã tự xưng là thi sĩ của đạo quân thánh giá, nhưng vẫn tìm về với Phật giáo: Nhớ khi xưa ta là chim Phụng hoàng/ Vỗ cánh bay trên chín tầng trời cao ngất/ Bay từ Đao Ly đến trời Đâu Suất. Hàn cũng muốn tìm đến nơi Cực Lạc để giải thoát khỏi bến trần ai: Sáng vô cùng sáng láng cả mọi miền/ Không u ám như cõi lòng ma quỷ. Thi nhân lạc vào đạo Phật để thưởng thức những cái đẹp khác thường trong vườn hoa ngập tràn hương sắc. Hàn đã thừa nhận: “Tôi dùng văn chương và triết lý nhà Phật để làm thơ mà thôi. Tôi lợi dụng cả hai thể văn tôn giáo: Thiên chúa và nhà Phật. Đó là muốn làm giàu cho nền văn chương chung”([6]). Theo Trần Thị Huyền Trang, Hàn Mặc Tử là “người ca ngợi thánh nữ đồng trinh Maria và chúa Jesu bằng thơ trước nhất ([7]). Sự tuyệt vọng đã đẩy thi nhân lại gần với Chúa để được đọc kinh và ngâm thơ cho giải tỏa những ẩn ức và khát vọng. Đức mẹ đã rộng mở vòng tay đón nhận Hàn, mở ra lối đi cho tâm hồn chàng trú ngụ. Nhà thơ đã tìm thấy trong kinh thánh những lời giải cho những đau thương. Thơ được chàng đặt ngang với kinh thánh. Trên hành trình thơ, Chúa là nguồn động viên lớn nhất với chàng: Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy/ Cơn lâm nguy vừa trải qua dưới thế…/ Tôi van lơn thầm nguyện chú Jesu/ Ban ơn xuống cho mùa xuân hôn phối… Trong cơn đau quằn quại, Hàn Mặc Tử đã tự tìm đến với Chúa để được xoa dịu. Thơ Hàn là dòng hợp lưu của rất nhiều tư tưởng khác nhau: Thiên Chúa, Phật giáo và Đạo giáo. Thảm kịch cuộc đời đã dẫn ông đến với Đạo giáo mong ước được bất tử trong cõi thần tiên. Thơ Hàn không thuộc về riêng một tôn giáo nào nó là một cuộc hôn phối tinh vi. Hàn Mặc Tử đã tôn vinh thơ lên ngang hàng tôn giáo.
2.3.2. Chế Lan Viên bước lên thi đàn với Điêu tàn như hình ảnh một tháp Chàm u huyền ngả bóng xuống cánh đồng thơ Bình Định gây ra bao niềm kinh dị. Khúc ruột miền trung với Đồ Bàn hoang liêu, tháp Chàm bí ẩn và biển khơi vừa mặn mòi vừa vô tâm nhởn nhơ đã khiến Chế rơi vào mặc tưởng triền miên: Đây những tháp gầy mòn vì mong đợi/ Những đền xưa đổ nát với thời gian/ Những sông vắng lê mình trong bóng tối / Những tượng Chàm rên rỉ khóc than. Điêu tàn của Chế Lan Viên đưa ta vào một không khí Liêu Trai ma quỷ, âm u, huyền bí, nghẹn ngào tiếng khóc than. Thế nhưng, thơ Chế vẫn thấm đẫm chất đời với tiếng pháo nổ rộn ràng vui đón xuân sang, tiếng chim ríu rít trong hương hoa ngào ngạt: Pháo đã nổ đưa xuân về vang động/ Vườn đầy hoa ríu rít tiếng chim trong/ Cỏ non biếc giãi mình chờ nắng rụng…/ Đây, pháo đỏ lập lòe trong nắng chói/ Đây, hoa đào mỉm miệng đón xuân sang. Nhà thơ chỉ mượn chuyện của dân Chàm để ký thác tấm lòng với cuộc đời: Chiêm nương ơi cười lên em hỡi/ Cho lòng anh quên một chút buồn lo. Dù Chế đã quay về dĩ vãng nhưng không phải là quay lưng với cuộc đời: Thu đến đây chừ mới nói năng?/ Chừ đây buồn giận biết sao ngăn/ Tìm cho những cánh hoa đang rụng/Tôi kiếm trong hoa chút sắc tàn.
Nỗi đau thương làm nhói buốt con tim nhà thơ khi chàng phải đối diện với hoàn cảnh trớ trêu của mình. Tôn giáo trong thơ Bích Khê không tách biệt khỏi cuộc đời. Phật bà Quan âm hiện diện ở ngay bên chàng trong hình ảnh của người mẹ và người chị. Nụ cười của người chị đã thăng hoa thành hình ảnh rất đẹp: Lầu ai ánh gì như lưu ly/ Nụ cười ai trắng như pha lê. Như thế, không chỉ có Xuân Diệu mới yêu sống khát sống mà Bích Khê cũng khao khát bám riết lấy cuộc đời đến mãnh liệt. Bích Khê tìm đến Huế trong nỗi khao khát tình đời: Người viễn khách lòng sầu vạn cổ/ Dặm mòn muốn gặp một người quen. Trong thơ Bích Khê, những hình ảnh thực như Ngọc Kiều, Xuân Hương, Huế đa tình… luôn luôn tồn tại. Cho dù phải sửa soạn cho chuyến đi vĩnh viễn nhưng ông luôn khao khát được tắm trong ánh trăng cõi trần: Sau nghìn thu nữa trên trần thế/ Hồn vẫn về trong bóng nguyệt soi.
Yến Lan cho rằng: “Khi nói đến Hàn Mặc Tử, tôi không lướt qua việc giới thiệu anh là một người ngoan đạo làm thơ, nhưng đồng thời cũng làm rõ chất đời trong thơ anh vừa riêng biệt tưởng không hình dung ra nổi, lại vừa rất thực rất chung có thể sờ mó được”([8]). Hàn viết về thánh nữ đồng trinh với lòng thành kính như một con chiên ngoan đạo. Thơ Hàn là tâm sự của một con người về thời thế: Mặc ai khanh tướng công hầu/ Không thèm chung đỉnh lưng bầu gió trăng. Có khi đó là nỗi đau trước cảnh đời cơ cực: Sao tôi thấy cuộc đời máu me lênh láng/ Như bãi sa trường trong lúc hỗn loạn/ Dưới bóng mặt trời đầy rẫy hào quang/ Sao tôi thấy dân chúng lầm than/ Ngán thay! Cuộc đời sống khổ. Gam màu cuộc sống trong thơ Hàn Mặc Tử là bức tranh sinh động. Cảnh quê, tình quê gắn với tre già, nắng mới, vườn cau, gốc đào, vườn cam… và cả bóng hình thôn nữ: Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời/ Bao cô thôn nữ hát trên đồi. Thi nhân yêu tha thiết mùa xuân nhưng bệnh tật đã hủy hoại, cái chết đã gần kề nên sớm rơi vào bi kịch: Này đây nước mắt giọng cười theo nhau. Chất đời đã giúp thi nhân khao khát được cưới xuân, cưới vợ trong xốn xang hạnh phúc. Đạo và đời trong thơ Hàn, như nhận xét của Mã Giang Lân, “vẫn là những mặt nhỏ trên một viên kim cương, mặt này ánh xanh, mặt kia ánh vàng, mặt khác lại tỏa lên ánh đỏ, tím đều làm cho viên kim cương có sức ngời chói lóng lánh”([9]).¬
3. Cái Tôi cá nhân trong phong trào Thơ mới đã thực sự có những đóng góp to lớn trong việc tạo nên những giá trị nghệ thuật sáng tạo cho thơ, đẩy nhanh cỗ xe văn học Việt Nam lăn bánh trên hành trình hiện đại hóa. Mỗi nhà thơ là một chủ thể bộc lộ cá tính sáng tạo đến tận cùng đường biên giá trị của nghệ thuật. Cái Tôi nội cảm cộng hưởng với cảnh đời riêng, tâm thế sáng tạo riêng đã hình thành kiểu tư duy kỳ lạ của thơ Loạn. Thơ Loạn ra đời dựa trên sự thăng hoa nghệ thuật của những nỗi đau, sự bung phá những giới hạn, sự phân ly và hòa hợp những đối cực, sự hợp lưu của nghệ thuật, tôn giáo và cuộc đời. Thế giới nghệ thuật trường thơ Loạn là ánh xạ đầy biến ảo của những cái Tôi trữ tình đau thương và khát vọng./.

________________________________________
(1) Vũ Tuấn Anh: Sự vận động của cái tôi trữ tình và tiến trình thơ ca. Tạp chí Văn học, Số 1- 1996, tr.36.
(2) Trần Đình Sử, Nguyễn Hữu Sơn,…: Vấn đề con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam. Nxb.Văn Học, H, 1997, tr.15.
(3) Đỗ Lai Thúy: Mắt thơ. Nxb.Văn hóa - Thông tin, H,2000, tr.30.
(4) Những trích dẫn thơ chúng tôi đều rút ra từ Lại Nguyên Ân: Thơ Mới 1932 - 1945, tác giả và tác phẩm. Nxb. Hội Nhà văn, H, 1999.
(5) Bích Khê: Tinh hoa, tinh huyết. Nxb. Hội Nhà văn, H, 1995, tr.27.
(6), (7) Trần Thị Huyền Trang: Hàn Mặc Tử- Hương thơm và mật đắng. Nxb. Hội Nhà văn, H, 1997, tr.203; 192.
(8), (9) Mã Giang Lân: Thơ Hàn Mặc Tử và những lời bình. Nxb. Hội Nhà văn, H, 2000, tr. 172; 173.

____________________________________________________