Thứ Ba, 29 tháng 3, 2011

Ai là Chí Phèo, Thị Nở?

Đỗ Hữu Lực


Cũng như lão Hạc, nhà văn Nam Cao đã trộn lẫn hai con người trong cuộc sống để sáng tạo nên một hình tượng nhân vật trong văn học. Anh Chí và Thị Nở cũng có nhưng nguyên mẫu và cảnh đời xót xa…

Chí Phèo: có ba số phận

Ông Trần Hữu Đạt, em trai nhà văn hồi tưởng về anh trai mình một cách hóm hỉnh, ông cho hay tính cách nhà văn Nam Cao rất ít nói, nhưng khi “bốc chuyện” thì cũng phải biết, ông dí dỏm lắm và rất ít khi uống rượu, nhưng đã uống thì phải uống thật say, say còn hơn cả Chí Phèo trong truyện, chỉ hơn anh Chí là ông không quậy, Nam Cao uống xong là… tìm chỗ ngủ!
“Làng Đại Hoàng không có vụ án mạng nào như vụ anh Chí đâm Bá Kiến”, đó là khẳng định không những của ông Đạt mà là rất nhiều các cụ cao niên ở làng Đại Hoàng hiện đang còn sống. Theo ông Đạt, để có nhân vật Chí Phèo thì có đến… ba người hợp lại.
Ông Đạt hồi tưởng, làng Đại Hoàng trước những năm 40 có một người đàn ông tên là Chí, anh ta không phải là người họ Trần mà là dân ngụ cư ở vùng khác xiêu bạt tới. Anh Chí mưu sinh bằng nghề mổ lợn thuê cho ông Trương Pháo và có nghề phụ là… đòi nợ thuê. Như đã nói, làng Đại Hoàng lúc đó có năm phe phái kình địch nhau để chèn ép nông dân. Tuy là dân ngụ cư, nhưng anh Chí sống ngang tàng, hay rượu khướt. Với nghề mổ lợn, anh có tài “bắt phèo”, chế biến món ruột non của lợn rất tài nên dân làng gọi anh là “Chí phèo”. Những năm đói 1944 – 1945, cả làng đói, không có ai thuê mổ lợn và đòi nợ, anh Chí cũng bỏ làng đi biệt tích.
Ngày ấy, vì đói khổ làng Đại Hoàng không ít những nông dân khoẻ mạnh bị đẩy vào con đường lưu manh hoá. Theo ông Đạt, ngoài anh Chí ra còn có một người đàn ông khác nữa. Một người tên là B. cũng là dân ngụ cư, anh này không có nhà ở, sống ở một cái lò gạch cũ mưu sinh bằng nghề thả ống lươn và… ăn cướp. Cái lò gạch cũ, nơi anh B. trú ngụ là nơi đi qua thường xuyên của những người đàn bà đi chợ sớm buôn trầu vỏ sang chợ Bến và chợ khác của vùng Nam Định. Một lần, anh B. đã làm nhục một người đàn bà có chồng ở làng Đại Hoàng, người đàn bà này đã có bảy đứa con, bà này sau đó có sinh ra một người con. Sau vụ ấy, anh B. cũng bỏ làng đi biệt tích, và người đàn bà kia vì xấu hổ cũng bỏ chồng con, bỏ làng đi xa. Họ đi đâu không ai rõ và cũng không ai quan tâm vì năm 1945, làng Đại Hoàng có 857 người, gần 30 gia đình chết đói bỏ làng đi biệt tích. Đau thương này nối tiếp đau thương kia, có nhiều nỗi đau, nỗi nhục còn tột cùng hơn nên người làng cũng coi chuyện đó là nhỏ.
Ông Đạt cho hay, hình dáng ngang tàng của anh Chí trong tác phẩm của nhà văn lại là một ông đi lính cho Pháp. Ông này hay mặc áo tây vàng mất cúc, ngực có xăm ông tướng cầm chuỳ, hay rượu khướt ở làng và không sợ phe cánh nào, ông này có vợ con đàng hoàng và hiện nay con cháu cũng đang sinh sống ở làng Đại Hoàng. Từ những nhân vật có thật ở làng mình, Nam Cao đã hư cấu và nhào nặn nên nhân vật Chí Phèo điển hình cho một nông dân tha hoá trong xã hội cũ.

Thị Nở… có chồng

Chẳng riêng gì bạn đọc tác phẩm của Nam Cao, ai cũng muốn biết người đàn bà xấu như ma chê quỷ hờn ấy có thực ở trong đời hay không? Ông Trần Hữu Vịnh, người trông coi khu tưởng niệm Nam Cao kể cho tôi hay, câu chuyện giữa anh B. sống bằng nghề thả ống lươn và một người phụ nữ đi buôn trầu vỏ bị B. làm nhục sau có con, cũng là một hình mẫu của nhà văn Nam Cao. Người đàn bà này nghe nói khi còn sống khá xinh đẹp và mặn mà.
Theo nhà giáo Trần Văn Đô, 58 tuổi, giáo viên dạy văn ở trường THCS Nhân Hậu, ngụ tại làng Đại Hoàng cho hay thuở Nam Cao sáng tác, ở làng có một bà tên thật là Trần Thị Thìn, con của cụ phó Thả, cụ Thả cũng được gọi là cụ đồ Thả vì biết và dạy chữ Nho. Cô Thìn không có chồng và người đàn bà này có tính nết hơi kỳ. Thời trang của cô là tứ mùa diện váy, đầu bịt khăn vuông và gặp ai cũng cười.
Người đàn bà thứ ba mà Nam Cao lấy hình mẫu để nhào nặn nên Thị Nở là một người đàn bà có chồng hẳn hoi và cô này cũng có tên đích thực là Trần Thị Nở. Cô Nở có chồng rất hiền lành nhưng không bao giờ nấu được bữa cơm ngon cho chồng, giai thoại ở Đại Hoàng hiện nay vẫn truyền tụng câu chuyện “cô Nở nấu cơm”. Cô Nở hàng ngày chỉ quanh quẩn ở nhà và làm việc vặt nhưng chẳng việc gì ra việc gì. Một bữa, chồng cô đi làm cả ngày, dặn cô ở nhà nấu cơm. Cô Nở đem gạo ra thổi và nấu cơm như hàng ngày chồng cô vẫn làm. Trưa về, vợ chồng bê nồi cơm ra ăn, anh chồng nhận ra là cơm vẫn chưa chín và hỏi cô rằng: “Cơm sống thế này, làm sao ăn được”. Cô Nở trả lời: “Sống đâu mà sống, chỉ sường sượng thôi, ăn đi”. Ông chồng chỉ biết giơ tay kêu trời.
Ông Trần Hữu Đạt cho hay, một chi tiết thú vị là trong tác phẩm của Nam Cao khi viết về Chí Phèo, Thị Nở, hai con người “gớm ghiếc” ở làng Vũ Đại, ông lại tả một nhân vật đàn bà khác rất hay, người này chỉ có vài dòng thôi nhưng cũng đủ để nói lên phẩm chất của đàn bà làng Đại Hoàng. Đó là vợ Đội Tảo – tên thật là Đội Tụ, ông này có một người vợ rất ngoan hiền, hát ả đào rất hay, chính bà là người lấy tiền giấu chồng để đưa cho Chí Phèo trả nợ cho Bá Kiến. Và Nam Cao đã viết “đàn bà vốn chuộng hoà bình”.
Ông Đạt cho hay, Nam Cao rất ít khi ở làng nhưng chuyện làng ông rất tỏ vì ông có người vợ là bà Sen cả đời tần tảo, làm lụng nuôi chồng con. Mỗi bận Nam Cao về nhà là bà Sen lại đem những chuyện ở làng kể lại cho chồng nghe. Và với óc tưởng tượng phong phú, nhà văn đã hư cấu và nhào nặn nên những hình tượng văn học để đời.

________________________________________________________

Đừng phá rừng nữa, hỡi các nhà thơ!

A SÁNG

Văn chương không phải của riêng ai, tất cả những ai khát khao vươn tới Chân - Thiện - Mỹ đều có quyền tìm đến văn chương. Nhưng hãy biết tôn trọng chính mình khi ngồi xuống bàn viết. Vì khi đó, bạn đang “bóc vỏ” mình ra trong một thế giới lớn lao - thế giới tinh thần với hàng triệu con mắt đang dõi vào bạn… Mà kể cả như thế, chưa chắc bạn đã chạm tới văn chương. Thế đấy!...

Người ta cứ phàn nàn rằng, bây giờ văn hóa đọc bị xuống cấp, đặc biệt là sách văn học. Rồi người ta cũng đưa ra nhiều nguyên nhân, đại loại như: sự xuất hiện ngày càng nhiều của các loại hình giải trí khác; cuộc sống hiện đại quá bận rộn nên ít thì giờ đọc… Và cuối cùng là sự xuất hiện quá nhiều sách - những cuốn sách văn học vô giá trị cứ ầm ầm ào ào xuất hiện làm “nhiễu sóng”, hay “tàn phá” một cách không thương tiếc khu vườn văn chương vốn dĩ được coi là nơi bồi bổ cho tâm hồn con người.

Từ những nguyên nhân kể trên, tôi thấy cái nguyên nhân cuối cùng là chính xác nhất. Nói cho rõ hơn, những cuốn sách sáng tác văn chương vô bổ, thậm chí phản cảm ấy ra đời quá nhanh và quá nhiều cùng những chiêu PR của giới truyền thông đã làm người đọc bị choáng, bị lừa, bị xúc phạm… Vậy, nguyên nhân cuối cùng vẫn tại những người sinh ra chúng - những người vẫn tự coi mình là nhà văn, nhà thơ, nhà gì gì đó ấy. Bây giờ cơ chế xuất bản rất thông thoáng, bất cứ ai cũng có thể xuất bản sách cho mình. Tất nhiên, không vi phạm pháp luật là được.

Thế là rất nhiều người đã xuất bản sách mà không cần biết nó nên được ra đời hay không? Tôi có quen biết một nhà thơ (cứ gọi như thế cho tiện vì ông ta là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam mà), phải nói là ông ta có tốc độ sáng tác nhanh nhất thế giới. Chỉ trong vòng một năm, riêng bản thân tôi, đã được ông ta tặng đến ba tập thơ. Tập nào tập nấy nặng trình trịch. Không hiểu ông ta viết như thế nào, chỉ biết lúc nào cũng có thể làm thơ. Những câu thơ, bài thơ ra đời như kiểu người ta sản xuất gạch. Khỏi phải bàn đến chất lượng, chỉ cần xem số lượng thì người đọc cũng đã choáng rồi.

Từ lâu người ta vẫn coi thơ là Nữ Hoàng của nghệ thuật. Theo tôi hiểu đó phải là tầng tư duy đỉnh cao, nó cao hơn tất cả các loại hình nghệ thuật khác, vì thế nó được gọi là Nữ Hoàng. Ấy thế mà vị “nhà thơ” nọ lại cho ra đời đến vài tập “nữ hoàng” trong một năm thì quả là siêu việt. Hay ông ta chính là Nữ Hoàng của những Nữ Hoàng? Điều này chỉ có ông được gọi là nhà thơ kia mới biết.

Đã có nhiều nhà thơ danh tiếng của thế giới thừa nhận, họ không thể viết được nhiều vì họ tôn trọng thơ. Mỗi lần viết như một cuộc chiến thực sự, có thể chúng ta chiến thắng nó, nhưng thường là chúng ta thất bại vì thơ là Nữ Hoàng… Vì thế những nhà thơ thực thụ thường chỉ được người đời nhớ tới một chương, một bài, thậm chí chỉ một câu thơ đã mãn nguyện rồi. Nói như vậy không phải những nhà thơ kia không viết, hoặc viết rất ít. Không! Thiên tài thơ ca viết rất nhiều - lúc nào họ cũng viết - với họ, nếu không làm thơ thế giới chẳng có gì đáng quan tâm. Chỉ có điều, họ không dám công bố khi chưa thấy bài thơ của mình ổn mà thôi. Đó là những con người biết tôn trọng người khác và tôn trọng chính mình. Hay người là biết tôn trọng cái đẹp của thi ca. Bởi vậy, họ là những nhà thơ.

Quay lại với cái gọi là nhà thơ của chúng ta thì sợ vô cùng. Một biên tập viên thơ của nhà xuất bản đã kêu lên: “Người Việt Nam yêu thơ nhất thế giới!”. Rất đúng, không có gì nghi ngờ điều này. Chúng ta có Ngày thơ Việt Nam, có Làng thơ Việt Nam, và vô vàn những câu lạc bộ người yêu thơ… Nhưng chúng ta có quá ít các nhà thơ thực thụ. Chúng ta chỉ có những tay “phá rừng” bằng những cái gọi là thơ mà thôi.

Hãy hình dung ở một khu rừng linh thiêng - ở đó chỉ có những cái cây thật đẹp, nở những bông hoa rực rỡ, kết thành những quả ngọt lịm… Nơi này dành cho tất cả những sinh linh yếu đuối, biết khát khao vươn tới cái đẹp, khát khao hoàn thiện mình… vì thế luôn rực rỡ hào quang. Bỗng đến một ngày, từ dưới đất mọc lên vô vàn những cái cây xấu xí, độc hại, nở những bông hoa cũng độc hại, kết những chùm quả càng độc hại. Chúng mọc khắp nơi, quấn quanh những cái cây linh thiêng đó, chiếm mất ánh sáng, giành mất diện tích… Rồi chúng làm tắt dần ánh hào quang linh thiêng đó. Chúng trở thành những kẻ phá rừng không thương tiếc. Và những sinh linh kia bắt đầu rời bỏ khu rừng nọ vì biết rằng rất khó để tắm mình trong anh hào quang kỳ diệu kia.

Tôi chỉ muốn nói ẩn dụ như vậy vì bây giờ bất cứ ai yêu thích văn hóa đọc cũng bị cái cảm giác nghi ngờ khi mua một cuốn sách văn chương mới xuất bản (tất nhiên của những tác giả rởm núp dưới bóng những cuốn sách đẹp mã). Bao giờ người ta cũng nghĩ: liệu có hay không nhỉ, có nên đọc nó không, hay lại bị lừa như cuốn trước…
Đã rất nhiều người mê đọc sách văn chương đã kêu lên mình bị lừa. Số là anh ta đọc báo, thấy một bài giới thiệu về một cuốn sách, của một tác giả X hay quá. Anh ta liền tìm bằng được để đọc. Nhưng rồi anh ta thất vọng, bực tức vì bị lừa. Những cụm từ của bài báo đó đã lừa anh ta. Thứ anh ta vừa đọc được vài trang đã thấy không phải văn chương, chỉ là cái gì đó gần giống với văn chương. Thế mà người ta dám viết về nó như thể là một tác phẩm văn chương thực thụ.

Có lần tôi vinh dự được một “nhà thơ” tặng một tập thơ mới. Ở phần giới thiệu là một bài viết khá dài với những câu cú sướt mướt, thiết tha. Tôi nhớ mãi câu cuối cùng, người viết cho rằng tác giả đã luyện thành công thần dược thi ca. Và rất ngạc nhiên tác giả của lời giới thiệu đó lại là một nhà thơ khá danh tiếng.

Thế là tôi đọc. Nhưng đọc mãi vẫn không thấy cái được gọi là thần dược thi ca đâu. Cả một tập thơ chỉ những bài lằng nhằng, bằng bằng, tàm tạm, nếu không muốn nói là quá dở. Ban đầu tôi hơi hoang mang, nghi ngờ chính nhận thức của mình. Tôi lại đọc, lại nghiền ngẫm… vẫn không thấy đâu cả. Tức mình, tôi đưa cho người khác đọc, vị ấy cũng lắc đầu: không hay, không phải thơ, chỉ là văn vần… Bực quá tôi gọi điện cho cái anh nhà thơ khá nổi tiếng viết lời giới thiệu kia để hỏi. Anh ta ngẩn ra một lúc rồi bảo, có phải tôi viết đâu, chính nó viết đấy chứ, rồi nó gọi cho tôi là đề tên tôi vào đó. Hay thật! Nghĩa là mượn tên à? Anh không đọc những gì của người ta viết sao? Anh nhà thơ kia nói luôn: “Tôi chưa kịp đọc thì nó đã in rồi…”. Thế đấy, thế mới biết sự đời nhiều khi thật giả lẫn lộn. Vừa buồn cười vừa bực, chẳng biết đường nào mà lần với thi ca bây giờ.

Việc bị lừa vì những thứ giới thiệu giả dối, cùng những câu thơ giả dối không làm tôi sợ. Việc này cũng không ảnh hưởng đến văn chương đích thực: của rởm bao giờ cũng là của rởm. Trách làm sao được các nhà xuất bản, họ có quyền cho ra đời những cái gọi là tác phẩm ấy vì có vi phạm luật pháp đâu. “Hữu xạ tự nhiên hương”- cái gì hay rồi cũng được biết đến, không thành vấn đề gì. Chỉ có điều, những “tác phẩm” kiểu đó làm nhiễu loạn thế giới văn chương, làm người đọc khó khăn hơn trong việc tìm kiếm cái cần đọc. Nói cho đơn giản, mất thời gian.

Tôi chỉ sợ nhất khi chứng kiến một nhà thơ bán sách. Không phải bán sách của mình mà bán những cuốn sách được tặng. Chuyện là anh ta chuyển nhà, nhưng trong nhà có quá nhiều sách được tặng, ở đó người ta ghi rất rõ, kiểu như: thân tặng anh M.. và gia đình… rồi ký tên vào đó. Những cuốn sách này chưa một lần vị nhà thơ đó mở ra đọc. Thế là anh ta gọi ngay một bà đồng nát đến vừa bán vừa cho. Việc đầu tiên anh ta bắt cái bà đồng nát ấy xé tất cả những trang có chữ đề tặng kia. Bà đồng nát ngẩn ngơ không hiểu, anh ta trừng mắt nói: “Không xé trang ấy đi để người viết biết tôi bán sách cho bà à…”.

Đây là cách phi tang tàn bạo nhất mà tôi từng thấy. Ở trường hợp này ai là người tàn ác với văn chương? Nhìn những cuốn sách còn mới tinh, đẹp mã cứ lần lượt bị bàn tay chai sần của bà đồng nát xé toàng toạc tôi thấy rùng mình. Đây là hành động gì!? Tại sao chúng ta có thể đối xử với những cuốn sách kia như thế? Chúng còn mới tinh, thơm nức mùi giấy mới. Cái mùi giấy thơm nức ấy đã là điều xa xỉ của những năm tháng xa xưa.

Cuốn sách không có tội, chỉ những người viết ra chúng là có tội mà thôi. Tất nhiên chúng là những cuốn sách vô giá trị, nhưng ít nhất vẫn là sách cơ mà… Thấy tôi ngạc nhiên, vị nhà thơ nọ cười hề hề rồi kết luận: "Đó không phải là sách. Đó chỉ là những trang giấy được đóng lại và in chữ lên mà thôi! Không bao giờ tôi đọc loại sách này, người ta tặng nên phải nhận. Mà ông biết không, từ chối khi được tặng sách còn vô văn hóa hơn…”.

Tôi cũng không biết nghĩ về những cuốn sách kia như thế nào. Anh nhà thơ kia có lý, vì chúng vô giá trị nên không cần phải giữ làm gì. Nhưng như thế có phải xúc phạm những người viết ra chúng? Khi nghe tôi thắc mắc như vậy, nhà thơ kia giải thích: Chính những người tặng mới xúc phạm tôi, họ cứ bắt người khác đọc sách của họ trong khi thừa biết chẳng ra gì, có phải là sự xúc phạm không? Nói cho cùng, họ xúc phạm chính họ khi cho xuất bản những cuốn sách như thế.

Ừ, cái việc họ xúc phạm chính họ xem ra có lý hơn cả. Hóa ra những người tự nhận là nhà văn và khát khao trở thành nhà văn kia không có nhân cách? Không hẳn như thế. Có những người thật sự ngây thơ, họ có một niềm tin chủ quan vào những câu văn, câu thơ của họ, rồi họ cho xuất bản. Họ tặng những ai họ yêu quý và họ nói về tác phẩm của họ một cách say sưa - đấy là những người đáng thương, có những lúc trở thành đáng yêu. Còn những kẻ tham lam, háo danh, bất chấp mọi thứ, cả nhân cách của mình thì cho công bố những “tác phẩm” không ra gì với bề ngoài hào nhoáng, với những lời giới thiệu lừa lọc mong loè bịp thiên hạ. Để từ đó hòng trục lợi cho bản thân họ và chẳng cần quan tâm tới hậu quả của nó.

Ở các tòa soạn báo thỉnh thoảng vẫn xuất hiện những kẻ như thế. Họ lân la tìm đến gửi bài, gửi thơ, gửi sách… rồi họ tìm mọi cách để được xuất hiện trên mặt báo. Đến nỗi nhiều biên tập viên chỉ cần thấy mặt họ là lỉnh đi cho xong chuyện. Phải nói, họ là nỗi kinh hoàng cho những biên tập viên. Mỗi lần họ “chộp” được biên tập viên là họ nói và nói về tác phẩm của họ. Nào là tôi đã đau đáu viết ra nó… Rồi thì tôi viết với tất cả những gì mình có… Tôi yêu văn chương, tôi… Cứ thế họ diễn, họ nói không biết xấu hổ. Có những kẻ còn bặm trợn hơn, cứ khăng khăng anh X, anh Y, anh Z đã nói là đưa cho anh để đăng (ý nói là tổng biên tập bảo đăng), tôi đã gặp anh ấy, anh ấy bảo đưa cho anh… Nói chung họ cứ lằng nhằng làm biên tập viên phát ớn phải nhận bài. Thế rồi hàng ngày họ cứ gọi điện hỏi han - hỏi đến nỗi nhiều biên tập viên nhắm mắt đăng bừa cho xong chuyện. Mệt kinh khủng!

Văn chương không phải chuyện đùa, càng không thể dựa vào đó để tìm kiếm lợi ích vật chất. Có những nhà văn thực thụ, có đóng góp quan trọng cho văn học nước nhà và cũng là người viết rất khoẻ, sách của ông ta bao giờ cũng được chào đón. Nhưng mỗi lần nói về văn chương của mình bao giờ cũng tâm sự rất thật rằng, trong những tác phẩm đó, cái làm ông ưng ý rất hiếm hoi, còn lại vẫn chỉ ở tàm tạm được. Và bao giờ ông ta cũng nghĩ tác phẩm tuyệt vời nhất vẫn chưa ra đời, có thể không bao giờ đạt đến. Nói chung là thất vọng về chính mình!

Đó là một quan niệm nghiêm túc trong văn chương. Lúc nào cũng nghiêm túc với chính mình. Vì thế văn chương của họ trước hết là sự cẩn trọng, nghiêm cẩn, chỉn chu… chỉ có như thế mới có thể vươn tới cái đẹp của nghệ thuật. Vậy mà những “nhà thơ”, “nhà văn” tự nhận khác đã viết ra rất nhiều - nhiều đến cẩu thả - nhiều đến coi thường người khác - coi thường chính mình - coi thường cả văn chương. Nếu bảo họ là những kẻ “phá rừng” bằng cái gọi là tác phẩm cũng không có gì quá đáng. Họ chưa bao giờ yêu văn chương, trừ những dục vọng (có những người mù quáng) của họ. Họ rất giống những anh hề gian trá.

Văn chương không phải của riêng ai, tất cả những ai khát khao vươn tới chân - thiện - mỹ đều có quyền tìm đến văn chương. Nhưng hãy biết tôn trọng chính mình khi ngồi xuống bàn viết. Vì khi đó, bạn đang “bóc vỏ” mình ra trong một thế giới lớn lao - thế giới tinh thần với hàng triệu con mắt đang quan sát bạn… Mà kể cả như thế, chưa chắc bạn đã chạm tới với văn chương. Thế đấy!

Nguồn: Lethieunhon.com
______________________________________________

Những mùa trăng ướt

Nguyễn Ngọc Tư

Sanh cùng tuổi Nhêm, xuống tóc thọ giới cùng một ngày, lúc loay hoay vận y cà sa, Sanh bất ngờ thò tay vào sờ soạng giữa hai đùi Nhêm rồi cười tí tởn, “Nhỏ xíu. Vậy tui làm anh nghen”.
Nhêm đỏ mặt, gật đầu, vì Sanh khôn ngoan, dữ dằn và già dặn hơn. Những đứa trẻ như Sanh luôn già trước tuổi. Cha hứng nước thốt nốt rơi từ ngọn cây xuống đất gãy cổ, mẹ nó đi cõng hàng lậu thuê qua biên giới, chết đuối giữa dòng nước lũ, chỉ một năm sau. Sanh tựa cửa nhìn những người thân mình bước đi vào sớm mai và cũng trong những buổi sớm mai ứa nắng trên đồng, họ về bằng chiếc cáng với hơi thở đã tắt. Sanh sống với chú. Nhà chú cũng nghèo, thím chia thức ăn cho con mình trước, tới Sanh chỉ còn miếng cơm cháy với chút nước cá kho. Sanh vào chùa để “kiếm ăn”, như lời nó nói, là chọn lựa giữa đói triền miên và đói nửa buổi.
Tui còn cha mẹ đâu mà tu báo hiếu, Sanh nói thẳng. Vào những buổi chiều đói rã rời, long đầu óc, đã có lúc Nhêm rủ Sanh lén lút ăn cái gì đó, Sanh lắc đầu, tui phải giữ giới để trả ơn buổi sáng và trưa Phật cho tui ăn no. Và Sanh để mặc Nhêm lăn lộn với cái bụng trống rỗng cồn cào, nó ngáy pho pho. Đói cũng là một thói quen của Sanh, từ tuổi lên mười.
Nhêm thì nghĩ mình không bao giờ có thể quen được những cơn đói buổi chiều tà. Khi nhà hàng bên kia đường bắt đầu có khách. Gió từ mé biển cứ đòng đưa mùi thức ăn trên đầu, làm nó nghẹt thở như thể đó là dây thòng lọng. Cái vòng rào loang lổ nước sơn và cánh cổng rơi vài mảng gạch không thể chặn lại mùi dầu cháy tỏi trong chảo. Sanh nhìn Nhêm suốt buổi tối cứ thều thào nhỏ dãi, nó giễu cợt, “Nhắm có ở chùa được tới năm sau không, ê ?”.
Nhưng Nhêm đã ở chùa ba năm. Thời gian đủ để nó bình tâm, thôi quay quắt trước những ngọn gió trần tục ban chiều. Ba năm cũng đủ cho những nhà hàng, quán ăn phục vụ khách du lịch kịp quây kín, như bóp nghẹt ngôi chùa. Hành trình khất thực có chút thay đổi, Sanh và Nhêm không còn đi trên lộ nhựa, dọc bờ cát ven biển, dưới những hàng cây thốt nốt im lìm. Phum sóc đã dạt xa lên đồng, co cụm gần chân núi Cóc. Và những thức ăn mà bà con dâng thường không có những mùi thơm của những quán xá bên đường.
Nên thỉnh thoảng, khất thực xong, bọn Sanh vòng về con đường bắt đầu ướp nắng để thưởng thức sự vương vất của những món ăn xa lạ. Các cô gái với những bộ trang phục buông tuồng trễ nải tụm lại ngó hai nhà sư trẻ cười cợt, “Lục ơi, tu chi cho khổ vậy, về nhà ôm em sướng hơn nhiều…”. Nhêm cúi đầu bước đi, chân líu ríu. Sanh ung dung đằng sau, mắt lại đầy giễu cợt, “Thấy chịu không nổi thì về nhà đi, Nhêm”.
Lần về thăm nhà gần nhất, mẹ Nhêm cũng nói vậy, sau khi chắp tay vái nó ngoài sân, “sư về nhà luôn đi, ba năm rồi còn gì…”. Giọng bà mỏng, ríu dần lại khi cha nó bước ra, cha muốn nó tu đạt tới tỳ kheo, muốn nó được cả sóc kính nể và trọng vọng, điều mà cho dù có nhiều đất ruộng và trâu, cha Nhêm cũng không có được. Ông đành đặt hy vọng vào Nhêm.
- Na Thi vẫn chưa về đâu - Cha nói.
Cha biết cách để Nhêm tự nguyện ở lại chùa, học kinh kệ. Na Thi chưa về. Cô nhận lời phụ bán quần áo cho thím A Phò khi Nhêm vào chùa được hơn năm. Trưa cuối gặp nhau bên hè, đá chân vào đám cỏ mần trầu, cô bần thần vuốt mãi mớ tóc xoăn tít, Nhêm đi rồi em ở lại đây buồn lắm, ngang qua nhà Nhêm em nhớ quá. Em đi vài năm em về, lúc đó Nhêm cũng hoàn tục rồi. Ngoéo tay, ngón tay cũng run, nóng bỏng. Rồi Nhêm lại khăn gói tới chùa xa, không gặp Na Thi lần nào, về nhà thấy mẹ Na Thi buông nón chắp tay lạy đằng xa, bà nói ngay, Na Thi có về, nó hỏi thăm sư có khỏe.
Trong lúc Nhêm trông Na Thi về thì biết đâu Na Thi cũng chờ đợi nó, ý nghĩ đó làm những câu kinh Phạn cứ vuột khỏi môi, trôi tuột. Lục Cả hơi buồn. Vài đệ tử nhập thế, chùa chỉ còn Lục Cả, Nhêm và Sanh. Hai sa di cứ loay hoay với những bài tụng sơ đẳng nhất, nên Lục Cả cô đơn với những kiến thức Phật pháp sâu sắc, bao la, cô đơn với những pho kinh thư đồ sộ. Ông hầu như không kỳ vọng vào đám trẻ, một vô thần, níu Phật để trốn chạy cái đói, cái ghẻ lạnh, một ngóng mãi phía cổng chùa.
Khuôn viên chùa rộng mênh mông, người ít, mà lá cây rụng vô kể, cỏ cũng nhiều. Suốt ba tháng nhập hạ, sư trẻ dường như chỉ tụng niệm và làm cỏ. Cỏ lớn nhanh, mãnh liệt đến nỗi họ phạt cỏ đằng trước thì sau lưng đã lún phún mầm xanh. Tưởng tượng, chỉ một tháng họ không cầm dao làm lụng, cỏ sẽ vươn tận thềm chính điện, lút đầu người. Vậy nên lúc cắm đầu thổi lửa vào đống cỏ khô, Sanh nhằn, sao mà tui ghét trời mưa quá.
Nhêm cũng ghét. Giữa lễ nhập hạ cho tới xuất hạ, chỉ là những cơn mưa dài, lướt thướt. Hai đứa quẩn quanh trong chùa, cắm mặt vô những trang kinh, mắc chán. Sanh học lóm được nghề làm tranh kiếng, nên xin Lục Cả ít tiền mua vật liệu, mày mò làm. Những lúc ấy Nhêm thật sự cô đơn, Sanh bỏ quên Nhêm để cắm mặt vẽ bức chân dung cha mẹ nó. Vài lần Sanh đã ném cọ đi khi phác thảo hình ảnh cha mẹ mình ngồi thảnh thơi, an nhàn trong căn nhà gạch khang trang. Nó dằn vặt vì đấy không phải là chân dung của những người thân, không giống họ chút nào, cả căn nhà, cả nếp áo phẳng phiu, tươi rói. Rốt cuộc bức tranh thờ dang dở, vì trong ký ức Sanh đã không còn lưu giữ những khuôn mặt cũ. Điều đó làm nó tuyệt vọng. Sanh hay rủ Nhêm xách cuốc chim đi làm cỏ ở gần rào sau, từ đó nhìn lên cánh đồng dưới chân núi là những phum nhỏ nằm quẩn dưới chòm cây xanh rì, khói bếp len qua những tầng lá thành những sợi lam mỏng vờn, phai mãi vào nền trời. Thốt nốt dọc theo các con đường nhỏ ngoằn ngoèo vẽ vào cánh đồng những nét cô đơn, vết mực đậm và đầy đặn ở phía này và bắt đầu mỏng vút cuối tầm nhìn. Dưới trăng chiều, vài con trâu quay tít cái đuôi xua những con ruồi xanh lè, to bằng đầu ngón tay cứ chực xông vào. Thấy Sanh níu vào rào, Nhêm hỏi, “Nhớ nhà hả ?”. Dứt mắt khỏi sóc Tà Cóc đang im lìm dưới làn mưa mỏng, quay vào sala, giọng Sanh quạu quọ, “Có nhà đâu mà nhớ”.
Nhêm sợ Sanh, nó có thể rất hiền lành, tử tế, nhưng Nhêm nói điều gì đó nhắc nhớ tuổi thơ buồn bã, và Sanh nổi khùng lên. Nhưng làm sao Nhêm biết chuyện nào buồn, chuyện nào không ? Bởi vậy, hai đứa hay hục hặc nhau vì những chuyện không đâu, thí dụ Nhêm buồn tình lấy hơpâm gõ bài “chim sáo”, hai gáo dừa mới lộp cộp đã bị Sanh đá văng lông lốc, ai mà biết lúc người ta khiêng cha Sanh từ ngoài đồng về, ông chủ lò nấu đường vẫn dửng dưng ngồi gõ hơpâm cho hết bài, rồi mới thủng thẳng phủi đít đứng lên, “Chết rồi hả? Thôi, tiền còn nợ tao coi như xóa bỏ”. Những chiều Sanh ngồi trước sala, lặng lẽ nhìn bồ đề rụng lá, Lục Cả thở dài, có lẽ ông thất vọng vì nhà chùa không làm lành được những khối tổn thương trong lòng Sanh, cũng như bất lực trước một xã hội tổn thương, những giá trị luân lý đục ngầu bên ngoài cánh cổng.
Ở đó cũng có đám người đang ghét cay ghét đắng mưa rơi. Khách du lịch thưa thớt. Gió biển ướt rượt thổi qua dãy nhà hàng, khách sạn vắng người, những cô gái không lượn lờ ngoài sân nữa mà co cụm trong nhà, hết giũa móng tay tới sơn móng chân, hết tỉa chân mày đến se lông mặt. Rồi sự lười nhác trễ nãi biến mất, họ tản đi khi người đàn bà cho vay tiền góp, lăn cái thân nặng chịch vì mang cả ký lô son phấn trên mặt đứng trước nhà hàng tru tréo gọi Lan Huệ, Sầu, Ai ơi. Mấy chục chiếc vòng chất gần đến cổ tay kêu leng keng mỗi khi bà chuyển động.
Nhờ âm thanh đó, cùng với dáng người thấp lé đé các con nợ luôn phát hiện bà từ xa, và họ biến mất. Cô cũng tạt vào chùa vào một bữa âm thanh những chiếc vòng xủng xẻng đã quá gần. Te tái vào ngồi ở thềm sala, cô dáo dác nói, cho ngồi chút chơi nghen. Nhưng mặt cô không có vẻ là chơi, căng ra khi bóng người qua cổng. Sanh mỉa mai, có trốn nợ thì trốn chỗ khác, ở đây là chỗ tu hành. Cô độp ngay, giọng cố kìm lại nên nhỏ mà rắn đanh.
- Ủa, đây là chỗ từ bi mà, mắc gì tôi không được vô. Ừ, trốn nợ đó. Hay là Lục… cho tiền đi, trả nợ xong tôi không ghé đây nữa.
Nói rồi cô phủi đít dợm đứng lên, nhưng mớ âm thanh leng keng vẫn còn quanh quẩn ngoài kia. Cô trùng trình ngó Sanh, “chùa này đâu phải của Lục, mắc gì tôi sợ”. Cô ngồi lại, điệu bộ lỳ ra, vẻ thách thức.
Những ngày sau, cô lại tới. Cô nhận ra một chỗ nương náu an toàn, nơi mà mọi lời mắng chửi rủa sả không vọng đến, hoặc hoặc vói theo một cách yếu ớt. Chùa không hẳn là thiêng liêng với họ nhưng là sức mạnh tinh thần của tộc người. Ai cũng biết điều đó. Họ đã chứng kiến những cái sroc nghèo xơ xác, những ngôi nhà cột cặm trống trước trống sau nhưng ngôi chùa thì luôn luôn rực rỡ. Đó là lý do Nhêm ở đây, cha muốn nó là một con người rực rỡ. Đó là lý do Sanh ở đây, nó không bao giờ đói dưới sự rực rỡ này. Đó là lý do cô ở đây, cộng đồng người trong sroc kia sẵn sàng thấm máu vào áo mình để giữ cái rực rỡ tồn tại trong thế giới đức tin của họ.
Cũng không tìm được lý do khác cho việc cô gái lui tới chùa. Cô chẳng hề yêu thích ai ở đây, cái cách nói chuyện khinh khỉnh, sấn sổ, ngạo ngược của cô nói lên điều đó. Nhưng Lục Cả luôn bất an, ông luôn sai sư trẻ làm lụng mỗi khi cô nhẩn nha lại. Và ba tháng hạ của năm mười bảy tuổi, họ đã làm rất nhiều việc, lợp lại mái sala, sơn một số chi tiết trong chính điện, cuốc đất mảnh vườn sau để gieo cải, quét lá khuôn viên chùa. Cô luôn lẽo đẽo đi theo, hỏi những câu ngớ ngẩn, thí dụ, sao không đốn bỏ cây bồ đề luôn để khỏi quét lá cho mắc công? Sao bức tranh này không sơn màu xanh mà là màu vàng? Sao nền chính điện cao dữ vậy? Lục Cả nhiều lúc cũng buồn cười, ông nói, tụi tôi làm không mệt bằng nghe cô hỏi. Cô rụt cổ cười. Nhêm cảm giác, nếu bóc mảng son phấn ra, mặt cô sẽ lành và trong như em gái nó.
Chắc cô cũng bằng tuổi ấy, mười sáu, hoặc nhỏ hơn. Sanh hỏi tuổi, cô vặt vẹo, “Lục rảnh quá thì đi tụng kinh, xoi mói chuyện của tôi làm gì?”. Sanh xúi Nhêm hỏi thăm tên, quê quán cô gái này, Sanh nói “con nhỏ đó ghét sư, tại hôm trước sư đuổi…”.
Nhưng Nhêm cũng không khá hơn, hỏi, cô chỉ vào khoảng sân, châm chọc:
- Cỏ.
Người nhà chùa xem đó là tên của cô. Cỏ bằng tuổi Na Thi, mười bảy. Đương nhiên là từ nơi khác đến. Lục Cả nói, những đứa con gái làm nghề này chỉ đổi chỗ cho nhau. Con gái ở đây thì bôn ba xứ người mua vui cho thiên hạ bằng đuôi mắt cuối mày, và ngược lại. Chúng làm nên một cuộc nổi trôi buồn bã. Nhêm bỗng liên tưởng tới Na Thi mỗi khi nhìn Cỏ cố che mảng da thịt bằng cách kéo cái áo ngắn ngủn nằm vắt vẻo nửa lưng trên.
Nỗi nhớ Na Thi đã lạt đi rất nhiều, Nhêm áy náy lắm. Sau lễ xuất hạ, trời vẫn còn nhập nhòa mưa. Nhưng bọn Nhêm không bỏ bất cứ buổi khất thực nào, dù là đi dưới mưa. Không hẳn vì những thức ăn cúng dường hai sư có được sau một buổi vòng tay ôm bát, mà vì nỗi nhớ những nẻo đường, hàng cây, bờ đá… Ba tháng quẩn chân vườn chùa, bỗng dưng thấy mọi thứ đều thay đổi, lạ lẫm, và trò đùa của các cô tiếp viên rảnh rỗi ngày càng tai quái hơn, có lần qua quán “Duyên Quê”, một cô môi đỏ trút vào bát họ ít thức ăn. Quay lưng đi một quãng, Cỏ lao theo giằng lấy bát, hắt xuống đất. Mớ thịt đã bị băm nát nằm vãi trên sân. Cỏ hằn học hỏi :
- Thịt rắn đó. Muốn phá giới sao?
Các cô khác đấm vào lưng nhau cười ngặt nghẽo. Sanh ngó sững cô, cái nhìn ánh lên chút dịu dàng, hàm ơn. Về tới cổng chùa rồi Nhêm vẫn còn ngơ ngác. Nó sợ. Những người không có đức tin sẵn sàng báng bổ đức tin. Nhưng Sanh vẫn thích đi trên con đường đang còng lưng gánh những quán bia, nhà hàng, nên ngày nào nó cũng kéo Nhêm vòng lại. Ngày nào cũng thấy Cỏ ngồi chán chường ở quầy bar trong quán, nét mặt, khóe môi, bàn tay… tất cả chi tiết trên người cô buông lơi, trễ nãi, cảm giác mọi thứ đang rời nhau và trôi đi. Cả nụ cười mỉm khi nhìn thấy người nhà chùa cũng là nụ cười đang trôi vô định. Nhưng hành trình đột ngột thay đổi, Sanh không đi qua đó thêm một lần nào, vì một buổi trưa ngang qua cuộc tiễn đưa, thấy Cỏ đang chèo kéo quấn vào đám đàn ông sắp lên xe, trong cái khói nắng mùa hạ. Mắt còn đậu lại trong khi chân vẫn liên tục bước, sư trẻ thấy Cỏ ngó theo, thoáng chênh chao.
Cô không ghé chùa nữa, vì mùa khô bắt đầu quay lại, khách lác đác đến tắm biển, uống bia. Buổi chiều, sư trẻ đi nhổ những dây mướp đã chết khô trên bờ rào, dáo dác ngó về phía cổng, ai bước vào hai đứa cũng thất vọng thở hắt ra.
Ngày cuối cùng của mùa hạ, người trong sroc mượn sân chùa làm lễ cúng trăng. Cỏ ghé chơi lúc sắp khuya rồi. Khỏi nói Nhêm mừng như thế nào, đến nỗi, nó tự hỏi, gặp Na Thi, nó có mừng được bằng cỡ đó không. Sanh không tỏ thái độ gì, dửng dưng ngậm ngọn cỏ vung vinh trên môi, “ủa, tối nay không ở nhà chơi với tụi nhà giàu?”, Cỏ cười, “mắc mớ gì tới Lục?” rồi lảng đi, lại gần Nhêm, coi người ta bắt mấy đứa nhỏ ăn cốm dẹp, theo thông tục. Hồi nhỏ, Nhêm cũng được đút cốm dẹp, khi người ta vuốt lưng, hỏi, năm nay muốn gì, nó gần như òa khóc, “mắc tiểu quá, con muốn đi tiểu”. Năm đó nắng dai, lúa bị khô háp trên đồng, hành không đặng củ, cả sroc cứ đổ thừa tại Nhêm.
Giờ thì mấy đứa nhỏ cũng trợn trạo ngốn cốm dẹp và nói thích lúa, thích gạo. Điều đó làm Nhêm buồn cười, trẻ con không thích đồ chơi đẹp, quần áo đẹp thì thôi, lúa gạo mà làm gì. Chắc là cha mẹ chúng đã dạy trước, Nhêm cũng từng buộc phải học thuộc lòng. Chỉ là tụi nó bây giờ khôn ngoan hơn, và không bị mắc tiểu giữa chừng, như Nhêm. Đang kể chuyện vẩn vơ thì sương trên đuôi lá bồ đề rụng xuống trán, Nhêm giật mình.
Không thấy Cỏ ngồi bên cạnh nữa. Sanh đã kín đáo lôi xểnh cô ra phía sau sala, chỗ những dây bìm bìm leo xum xuê trên mái chuồng gà bỏ hoang. Nỗi nhớ, sự ghen hờn, xót xa, niềm kiêu hãnh giày bừa trong lòng Sanh làm nó như mê đi. Cỏ chỉ cười nhẹ, xấp xãi bước theo, vẻ mặt không ngạc nhiên chút nào. Hoặc cô đã chờ đợi điều này lâu, nên chỉ thở cồn cào như một con sóng nhỏ khi tay và môi Sanh bắt đầu uống ngấu lấy cô. Thằng con trai đó đi qua những cơn đói nhưng chưa bao giờ ngưng sống, như cỏ của những mùa trăng ướt.
Nhêm tìm thấy Sanh đang đứng đối mặt với khoảng tường, y cà sa căng tròn, bọc lấy thân thể Cỏ. Cô chỉ còn đôi chân, và khuôn mặt, phần còn lại của cơ thể đã tan biến. Bóng trăng lấp ló chồm vào đôi người lấp ló. Nhêm chết sững và nỗi tức giận nào đó ứa ra bưng mắt, buốt những đầu ngón tay, nó hồng hộc chạy về phía chánh điện, chỗ Lục Cả đang tụng khúc cầu an.
Sanh rời khỏi chùa vào chiều hôm sau, hoàn toàn không có một nghi lễ hoàn tục nào đưa tiễn. Ngang qua quán rượu, Sanh dừng lại chờ rất lâu mới thấy Cỏ ơ hờ bước ra, Sanh chụp níu lấy tay :
- …Đi với tôi nghen ?!
- Đi với Lục thì lấy gì ăn? - Cỏ hắt tay Sanh, lạnh lùng hỏi lại.
Không biết, ngay việc bây giờ đi về đâu Sanh còn không biết. Có thể đi làm thuê, làm mướn ở một nơi xa xôi nào đó, đào đất, trèo thốt nốt lấy nước, làm cửu vạn hay vác những bộ tranh kiếng bán dạo khắp nẻo đường. Sanh nuốt thất vọng quay đi. Đám con gái trong quán thò đầu ra cửa sổ, nhìn theo cái lưng gù gù như cõng đá, tru lên thảm thiết, trời ơi, Lục đừng đi, Lục mà đi thì tụi tui phải chung tiền cho con quỷ sứ này, phải biết Lục dễ dụ dỗ vậy, tụi này không đánh cuộc… Sanh khựng lại một vài giây, rồi nó gần như bỏ chạy, nó cảm thấy mình tắt thở rồi. Chết trước khi những cơn đói ập đến trừng phạt nó, vì sự bội tín, vô ơn với Đức Thích Ca.
Những ngọn gió cuối mùa Nam còn sót lại đưa tin thắng cuộc của cô tiếp viên đi nhanh. Người đàn bà cho bạc góp hể hả đòi được món nợ cũ, ghé chùa nói với Lục Cả, “Riết rồi không thấy người nữa, chỉ thấy mấy thứ giống người...”, rồi day mắt về phía sư trẻ đang quét lá giữa sân chùa vắng, “may nhờ lục Nhêm tu tập tử tế…”.
Nhêm nghe được, cười khan, nỗi buồn cào cấu rát lòng, sao người ra đi lại là Sanh mà không phải nó, sao cô gái đó chọn Sanh? Hỏi hỏi và hỏi. Trời thì cao và xanh xao.

_____________________________________________________

Chủ Nhật, 27 tháng 3, 2011

LẠI MỘT NGƯỜI VĂN TỬ TẾ NỮA RA ĐI

Vũ Ngọc Tiến

Thi sĩ - nhà văn - nhà biên khảo - nhà lý luận phê bình văn học Hoài Anh đã đi thật rồi, đi vào cái đêm dư chấn động đất từ Malaysia lan tới Hà Nội (24/3/2011) làm căn hộ tầng 11 của tôi rung rinh chao đảo. Cơn chấn động trong tôi lần này dường như cũng là một dư chấn sau sự ra đi của thầy Hoàng Ngọc Hiến vào trước tết âm lịch.

Hai Người Văn tử tế mà tôi yêu mến, kính trọng đã ra đi chỉ cách nhau thiếu 2 ngày là đầy 2 tháng! Nhớ lại hôm lễ tang thầy Hiến, tôi bảo với Đặng Thân và Phạm Xuân Nguyên rằng cũng muốn viết đôi dòng về thầy, nhưng vì thầy quá nổi tiếng, lại có bài của Thân viết quá hay rồi nên thôi. Với Hoài Anh thì khác, ngày mai (26/3/2011) sẽ làm lễ đưa tang, đường xa cách trở, vài tuần nữa tôi mới có dịp vào Sài Gòn, đến căn phòng nhỏ ở phố Trần Đình Xu thắp cho ông nén nhang. Thôi đành đêm nay tôi nén đau viết vài dòng tản mạn về ông thay nén tâm nhang từ Hà Nội bái vọng một Người Anh lành hiền, một Người Văn tử tế, một Cây Bút đa năng và cần mẫn suốt nửa thế kỷ tận hiến…

Là người quê gốc Hà thành lâu đời, với Sài thành tôi chỉ là khách trọ, nhưng nghĩ cũng lạ, bạn văn trong đó lại nhiều hơn ở chính quê mình. Mỗi lần ghé thăm, chỉ cần một cú phôn cho nhau là bạn bè quây quần ở quán cà phê Bông Giấy (53 Trần Quốc Thảo) hàn huyên mọi chuyện trên giời dưới bể. Dẫu thế, nếu không gặp mặt trò chuyện được với Hoài Anh và Hà Văn Thùy, kể như chuyến đi Sài thành của tôi vơi đi một nửa niềm vui. Đơn giản vì hai người đồng hương đất Bắc ấy có đời người, đời văn lận đận như tôi, lại có chung một đam mê về lịch sử và minh triết phương Đông. Đêm nay, trong nỗi đau mất bạn vong niên, tôi ngồi hồi tưởng vài kỷ niệm nhỏ về ông. So với Thùy, tôi gặp và trở nên thân thiết với Hoài Anh muộn hơn, nhưng trong gia đình từ nhạc mẫu năm nay 92 tuổi đến vợ tôi đều đã đọc thơ và tác phẩm của ông từ cuối những năm 60 của thế kỷ trước. Nhạc mẫu tôi còn bảo, trong số các nhà văn hiện đại bây giờ, có lẽ người hiểu sâu và dịch thơ Đường đạt nhất là Hoài Anh. Khoảng năm 2006, sau khi hoàn thành bộ ba tiểu thuyết lịch sử “Ba nhà cải cách’, tôi tình cờ đọc bài của các anh Triệu Xuân, Đông La giới thiệu bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ hơn 6.000 trang (16 tập) của Hoài Anh, tôi nôn nao muốn gặp và đàm đạo cùng ông. Nhiều năm kiên trì viết hàng trăm bài về giáo dục, tôi luôn canh cánh một nỗi buồn vì trẻ thơ bây giờ chán học văn, không thuộc sử nước Nam mình bằng sử Trung Hoa. Lỗi ở các nhà giáo dục, tất nhiên rồi, nhưng lũ Người Văn có tâm không thể thoái thác một phần trách nhiệm. Hoài Anh muốn góp phần gánh đỡ bạn văn, sao số phận các bản thảo của ông cứ long đong trôi dạt qua nhiều cơ quan xuất bản để rồi nằm xếp xó, ố vàng cho đến khi Triệu Xuân bới tìm trong gầm giường ra, biên sọan lại? Tại cơ chế hay tại lòng người còn lắm nhỏ nhen, đố kỵ đây?... Lạ thay! Cơ duyên Trời- Phật lại xui khiến Hoài Anh lại chủ động tìm gặp tôi trước. Lần ấy, tôi nhớ vào một buổi sáng mùa thu se lạnh, mưa bụi lay phay, Lê Mai ào vào nhà, dắt theo một ông lão tròm trèm 70 tuổi, mặc chiếc áo kẻ sọc xanh đã sờn chỉ, chân đi dép nhựa vẹt mòn cả gót, điệu bộ ngơ ngác như người mất sổ gạo thời bao cấp. Thấy tôi lúng túng chưa biết chào hỏi ra sao, Lê Mai cười ngả ngớn, vỗ vai bảo: “Cúi chào cây đại bút, nhà hiền triết và sử gia có ngạnh đi, ông bạn! Người mà ông đang đọc bộ sách cao gần ba tấc, luôn miệng xuýt xoa muốn gặp đang đứng trước mặt chúng ta.” Hoài Anh nắm tay tôi cười hiền như Bụt. Ông từ Sài Gòn ra, đang tìm đường về quê Nam Định, Lê Mai túm được “báu vật” vội rước ngay đến nhà tôi trò chuyện lan man suốt nửa ngày không dứt. Lúc chia tay, Hoài Anh nhìn tôi hồi lâu rồi thủ thỉ: “Đời văn gặp được bạn tri kỷ thế này không dễ. Mình sẽ cố hoàn chỉnh thêm 4 tập nữa cho đủ bộ tiểu thuyết lịch sử 20 tập xuyên suốt chiều dài 2 thiên niên kỷ. Cậu đọc của mình rồi, có gì tâm đắc thì viết cho một bài ngắn thôi…Nói là nói vậy chứ viết về mình thì chưa chắc ngoài này chúng nó chịu đăng đâu… Đời mà!...”

Từ buổi sáng mùa thu ấy, tôi với ông thành đôi bạn vong niên. Nhớ lần vào Sài Gòn, tôi rủ Hoài Anh, Hà Văn Thùy đi Bến Tre thăm nhà văn lão thành Trang Thế Hy thật vui và cảm động. Hôm ấy tôi và Thùy được nghe hai cây bút đàn anh bàn luận về Bình Nguyên Lộc, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền… rất say sưa mới vỡ ra nhiều điều, càng thêm trân trọng nền văn học miền Nam trước năm 1975. Sức đọc của Hoài Anh thật khủng khiếp và kiến văn của ông cũng rất thâm hậu. Lại nhớ một lần Hoài Anh ra Hà Nội, ngồi xe ôm đến thăm tôi dưới trời mưa tầm tã. Cái số ông khổ thế, lần nào đến tôi cũng gặp mưa. Hai anh em ngồi nhâm nhi hết chai rượu suốt cả buổi chiều bàn về Phật giáo ở Viêt Nam. Nhờ có ông tôi mới hiểu thêm về Mật tông chứ trước đó tôi chỉ chú tâm tìm hiểu nhiều về Thiền tông. Có được bạn văn như thế mới hạnh phúc làm sao! Giữa cuộc rượu ông khoe: “Lần này mình ra làm nốt thủ tục nhận tiền tài trợ của Hội in tập thơ cuối đời. Tranh thủ đến Vũ Từ Trang và cậu rồi tối nay xuôi tàu về quê Nam Định ngay.” Nghe giọng ông hể hả, nét mặt tươi hớn tôi ái ngại, xót xa thầm nghĩ, mấy đồng bạc còm ấy, ông anh chỉ cần ngồi nhà trong đó phôn cho thằng em này một tiếng cũng thừa sức lo đủ. Sao Hội nỡ để ông vác cái thân già đi mấy nghìn cây số tàu hỏa ra làm thủ tục nhiêu khê đủ thứ. Nghĩ vậy, nhưng tôi nào dám nói, sợ ông anh mình tủi thân!… Đưa Hoài Anh ra ga, lúc ngồi đợi tàu, hai anh em lại quay về với đề tài lịch sử. Tôi bùi ngùi, the thắt lòng nhìn theo bóng một ông lão nhầu nhĩ, có bàn chân nứt nẻ như người nhà quê ra tỉnh bước lên toa tàu xập xệ, cổ lỗ. Bên tai tôi còn vẳng nghe những điều tâm huyết dặn lại cây bút đàn em về tiểu thuyết lịch sử: Nhớ nghe em, anh quan niệm có hai phần xác và hồn của tiểu thuyết lịch sử. Xác là cái khung xương niên đại, sự kiên lịch sử; còn hồn ấy là cái tư tưởng, tình cảm, kể cả máu thịt tác giả đắp vào trang viết. Milan.Kundera nói: “Tiểu thuyết không phải là thằng hầu của lịch sử.” Còn Georges.Lukas (triết gia người Hung) cũng viết: “Các nhân vật của tiểu thuyết lịch sử phải sinh động hơn chính các nhân vật lịch sử vì chúng được tác giả trao cho sự sống, còn các nhân vật lịch sử thì đã sống.”…

Bẵng đi 2 năm không gặp, Tôi thảng thốt nghe tin ông nằm viện rất nguy kịch qua thông báo của anh Triệu Xuân trên mạng, mới chỉ kịp hỏi thăm ông qua Nguyễn Hòa chủ Web “Văn Chương Việt”, chưa gửi được tiền lo thuốc thang thì ông đã đi xa, xa mãi! Mai trong lễ tang, chắc sẽ có ai đó thay mặt Ban lãnh đạo Hội đọc điếu văn với những lời có cánh. Mấy ai trong số họ biết và cảm thông sinh thời những lúc ông run tay không cầm nổi cây bút, vi tính lại không biết, phải lọ mọ gõ cái máy chữ cổ lỗ đã cùn mẫu tự lên từng trang bản thảo. Vậy mà ông vẫn phải chồn chân đi bộ khắp Sài thành tìm kiếm nơi in tác phẩm của mình không được?... Lại một Người Văn tử tế nữa ra đi để lại dư chấn mãi trong tôi. Quên hết sự đời, thanh thản mà đi về nơi cực lạc, bác Hoài Anh của em ơi!...

Hà Nôi đêm 25/3/2011
VNT
_________________________________________________

Nhà thơ Yến Lan: Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng...

Phạm Khải


Cùng với Quách Tấn, Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên, Yến Lan là một trong bốn thành viên của nhóm "Bàn thành tứ hữu" (bốn người bạn thơ đất Bình Định). Nhóm thơ này nổi tiếng kỹ lưỡng về sự đẽo câu, gọt chữ.

Trong đó Yến Lan - với một sự tỉ mẩn chẳng kém cạnh ai - ở giai đoạn trước Cách mạng cũng đã ít nhiều gây được ấn tượng cùng bạn đọc bởi những câu thơ chạm khắc công phu: "Sầu tam giác buồm cô về lặng nghỉ/ Nhịp hoãn hòa đến vỗ đảo xa khơi" (bài "Xa xanh"); "Chiều ngui ngút dài trôi về nẻo quạnh/ Để đêm buồn vây phủ bến My Lăng" (bài "Bến My Lăng")…
Đó là những câu thơ cùng khơi gợi được cái sầu mênh mang sóng nước luôn ăm ắp trong hồn tác giả, và là những câu cô đúc đến độ khó có thể… cô đúc hơn.
Nói vậy song cái gì cũng có hai mặt. Bởi quá cầu kỳ trong việc dùng chữ (nhất là lại lạm dụng Hán ngữ) nên ở bài "Bình Định 1935" - một bài được xem là chồng chất những câu thơ khó hiểu của Yến Lan, ý thơ do bị… rán kỹ quá nên có chỗ hoặc là bị… cháy, hoặc là… khô kiệt.
Có những câu bản thân tác giả phải nhiều lần giải thích với người đọc, mà càng giải thích càng… rối. Như trong bức thư Yến Lan gửi ông Khổng Đức Đinh Tấn Dung ngày 5/4/1988, hai câu thơ "Ôi Bình Định hương phong trường cách biệt/ Những bâng khuâng trong đức hạnh sương hoa" được ông giải thích như sau: "Ý chung muốn nói: Cái phố nghèo nàn này, thế nhưng là mảnh đất đầy phong vị ngọt ngào cao thượng, nó (trường vượt thời gian) bị phong kín thành cõi cô liêu, xa cách với mọi nơi khác, nhưng cái vòng vây phong kín ấy đầy hương hoa, đầy tâm tư hoạt bát…(trường ở đây như nông trường, lâm trường)".
Thật là một cách giải thích lòng vòng, đến độ người được giải thích chẳng những không nghe lời tác giả mà sau đó lại có cách giải thích riêng của mình, rằng "Hương phong trường cách biệt" là "phong cảnh của trường thi hương Bình Định thời xa xưa giờ có còn chăng chỉ là sương hoa đức hạnh với nỗi niềm bâng khuâng nhớ lại những gì đã mất". Đây quả là một trường hợp hiếm gặp: Đến độc giả cũng muốn hiểu ý câu thơ khác với tinh thần của tác giả, chỉ bởi câu thơ quá… "kín nghĩa".
Hẳn là nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã nhớ tới những câu thơ kiểu này của Yến Lan khi viết trong "Thi nhân Việt Nam": "Xem thơ Yến Lan, tôi mơ màng như đi trong mây mù. Khi đầu thì cũng hay hay, nhưng dần lâu cơ hồ ngạt thở".
Vẫn biết, thơ hay không nhất thiết phải bài nào, câu nào cũng ý tứ rõ ràng, song nhìn chung, thơ Yến Lan thời kỳ trước Cách mạng hiếm bài đi vào tâm trí bạn đọc chính bởi tác giả quá nệ vào kỹ thuật, "già nhân tạo" mà "át thiên chân". Ông quá chú trọng tới sự chạm khắc, tỉa tót trong câu mà ít để ý tới mạch chung toàn bài (là điều mà cả Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên đều không dám buông lơi).
Chính bởi vậy mà nhớ tới thơ Yến Yan thời kỳ này, độc giả nhớ nhất bài "Bến My Lăng", một bài thơ tạo được "không khí là lạ nhưng nhẹ nhàng dễ khiến người ta thích" như Hoài Thanh từng nhận xét. Bản thân "Bến My Lăng" cũng là thi phẩm có điệu thơ thanh thoát, với những hình ảnh và cách cấu tứ gợi phong vị cổ:

Bến My Lăng nằm không thuyền đợi khách
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu
Trăng thì đầy, rơi vàng trên mặt sách
Ông lái buồn để gió lén mơn râu.
Ông không muốn run người ra tiếng địch
Chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao
Vì đìu hiu, đìu hiu, trời tĩnh mịch
Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao.
Trôi quanh thuyền, những lá vàng quá lạnh
Tơ vương trời, nhưng chỉ giải… trăng trăng
Chiều ngui ngút dài trôi về nẻo quạnh
Để đêm buồn vây phủ bến My Lăng.
Nhưng đêm kia đến một chàng kị mã
Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả
Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi.
Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách
Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng
Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách
Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng.
Bến My Lăng còn lạnh, bến My Lăng
Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng.

Cảnh trí yên ắng, tưởng như chỉ cần ông lão… thức dậy là hỏng cả bài thơ, là làm rạn vỡ bầu không khí thần tiên được thêu dệt bằng ánh trăng. Cứ thế, ông lão chìm dần vào cơn mơ không biết đâu trời đất, không còn ngày tháng, ngỡ như không gian, thời gian pha trộn vào nhau, hòa trộn vào bài thơ không thể nào gỡ ra được. Việc xuất hiện chàng kị mã ở khổ thứ tư của bài thơ cũng không làm đảo lộn nhịp yên bình của bến sông trăng…
"Bến My Lăng" là bài thơ từ ngữ cứ buông hờ, rất tạo không khí. Nó đưa ta, ru ta vào một thế giới mộng ảo thấm đẫm ánh trăng và rất đỗi ám ảnh. Sự "ám ảnh" này có lẽ còn được hỗ trợ bởi cách dùng ngôn ngữ của tác giả: Tất cả những chữ cuối của các câu chẵn (có trách nhiệm đỡ vần) đều là thanh bằng, lại gần như toàn không dấu (buông câu, mơn râu, trăng cao, trăng trăng, lưu ly, chưa đi, My Lăng, bao trăng…) khiến câu thơ đọc lên nghe rất… trong, rất gợi không khí đêm trăng.
Đọc "Bến My Lăng" của Yến Lan, tôi luôn liên tưởng tới một đêm thần diệu giữa chàng chăn cừu xứ Provence và cô chủ nhỏ trong kiệt tác "Những vì sao" của nhà văn Pháp A.Daudet, nhất là nhớ tới đoạn văn đầy khơi gợi sau đây: "Quanh hai chúng tôi, ngàn sao vẫn tiếp tục cuộc hành trình trầm lặng ngoan ngoãn như một đàn cừu lớn, và đôi lúc, tôi tưởng đâu một trong những ngôi sao kia, ngôi sao thanh tú nhất lạc mất đường đi đã đậu xuống vai tôi và thiêm thiếp giấc nồng".
Kể từ khi "Bến My Lăng" ra đời, đã có nhiều bạn đọc, vì sức hấp dẫn của cảnh trí do tác giả dựng lên trong bài thơ đã tò mò hỏi tác giả: Bến My Lăng ở đâu? Và nhà thi sĩ đã trả lời: "Bến My Lăng ở trong lòng tôi, và cũng có thể là ở trong lòng bạn…".
Có thể qua cách trả lời đó, tác giả muốn "bảo toàn" được sự thi vị của bài thơ, song chắc chắn còn một lý do: Bến My Lăng là một cái tên do tác giả tưởng tượng ra, tương tự trường hợp lá… Diêu Bông của thi sĩ Hoàng Cầm.
Yến Lan là người khá điêu luyện trong việc phác họa cảnh trí thiên nhiên. Bài "Về làng" (viết năm 1937), chỉ bằng đôi nét vẽ: "Ở đây nắng bãi võ vàng/ Dừa cao lểnh khểnh, cành xoan ngoằn ngoèo/ Con đường thì khuất cheo leo/ Mình đi chỉ bóng cùng theo với mình", ông đã ghi lại được những nét đặc trưng của một vùng đất vốn từ lâu gắn bó với mình. Ở bài "Lại về tỉnh nhỏ" (viết sau Cách mạng), thi nhân càng bộc lộ rõ khả năng này qua những nét bút thần diệu, vừa rất khơi gợi vừa giàu tính khái quát.
Trước đây, trong bài "Nhớ" của Hồng Nguyên, tôi từng bắt gặp một câu thơ tả cảnh mặt trời lúc về chiều rất ấn tượng: "Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau". Mặt trời bất ngờ trở lại, khiến những hàng cau phải… đổ bóng, như thể nó bị nắng chiều… đột kích, hạ gục. Đó là một sự liên tưởng thú vị. Cũng sáng tạo như vậy là câu thơ của Yến Lan: "Tỉnh nhỏ/ Đìu hiu/ Mặt trời ngủ giữa chiều/ Trở mình trên mái rạ".
Thoạt đọc nhưng câu thơ này, hẳn có bạn sẽ thắc mắc: Nói "mặt trời ngủ" tức là mặt trời đã khuất bóng, ta không nhìn thấy, chứ sao lại có thể nói "Mặt trời ngủ giữa chiều" được? Theo tôi, tác giả viết vậy là chính xác. Có những thời điểm, mặt trời vẫn hiện diện, vẫn treo lơ lửng trước mắt ta, nhưng im lìm, "bất động", không khiến ta phải chú ý.
Thế rồi, chiều về, gió nổi lên, ánh mặt trời như được lay động sau những cành lá, nó xôn xao thức dậy, "trở mình trên mái rạ", gây xốn xang hồn người. Huy Cận chẳng đã từng viết về cái phút "chuyển ca" này đó sao:"Cát phừng ngoài bãi, bóng trong vườn/ Gió cũng theo sông tự nước nguồn/ Có phải đã vào trong giấc trẻ/ Làm ra xao động của hoàng hôn"?
Cũng trong "Lại về tỉnh nhỏ", bạn đọc còn bắt gặp những câu thơ rất ấn tượng, gợi cái không khí, nếp sống buồn tẻ một thời: "Tỉnh nhỏ/ Cô em/ nằm xem/kiếm hiệp/ Sân bàn cờ - cửa trường gài líp/ Mòn thước gõ đầu trò/ ông giáo đã hoa râm/Môi mùa hè đỏ bầm/ Rụng theo hoa cành gạo".
Nhân đây cũng cần nói thêm: Vừa rồi, tôi có đọc tập thơ "Cởi gió" của nữ thi sĩ trẻ Nguyễn Phan Quế Mai. Tập thơ có những liên tưởng táo bạo. Tuy nhiên, khi đọc đến câu "Giật mình nghe môi tháng Tư là nụ hoa gạo đỏ/ Những nụ hoa run rẩy gửi nụ hôn về phía chân trời", đối sánh với mấy câu thơ nói trên của Yến Lan, tôi nhận thấy nữ tác giả trẻ đã… chậm chân hơn lão thi nhân tới mấy chục năm.
Với những câu thơ tài hoa, ấn tượng, nêu lên được sự tù đọng, quẩn quanh, buồn tẻ của nhịp sống nơi tỉnh nhỏ, bài thơ đáng ra sẽ là một thi phẩm đặc sắc, nếu như nó không "mọc" thêm phần hai, nói về cuộc đời đổi thay, để rồi độn thêm vào đó những câu thơ gượng gạo, kiểu như: "Áp phích rao hai tối kịch/ cô em đứng xem/ lòng đầy tiếng nhạc", khiến chất thơ bị rơi rụng khá nhiều.
Cũng tương tự "Lại về tỉnh nhỏ", bài "Uống rượu với bạn đồng hương" là bài vẫn thường được nhắc tới của Yến Lan giai đoạn sau Cách mạng. Bài thơ có những câu châng lâng mà sâu sắc, như từ men rượu chắt ra: "Nào rót nữa, uống đi/ Nguồn say còn lai láng/ Chén nhớ hẵng rót đầy/ Chén mừng đừng để cạn".
Tiếc là, bên cạnh những câu thơ thăng hoa như thế, có lẽ để thể hiện sự "cứng vững", uống mà vẫn… tỉnh táo của mình, tác giả đã phải chêm vào một đôi câu thơ liệt kê việc đời rất... loàng xoàng, khiến bài thơ không chốt lại được thành một bài hay trọn vẹn. Ai cũng biết, trong các thể thơ, tứ tuyệt là một thể thơ khó.
Xuân Diệu từng nhận xét: "Tứ tuyệt là một thể thơ rất khó, phải tập trung, hàm súc, và cần có một sáng tạo gì như là một sự bất ngờ, một uẩn khúc trong 4 câu". Sinh thời, Yến Lan được xem là người sở trường về thơ tứ tuyệt. Cho tới khi mất, ông đã viết tới cả ngàn bài.
Với Yến Lan, có cảm tưởng những bài thơ tứ tuyệt nhỏ nhỏ xinh xinh gần gũi với ông như những bao diêm. Nó va đập, cọ xát trong suy nghĩ, tình cảm của ông, giúp ông lưu lại những tia sáng của ý tưởng cùng những khoảnh khắc ấm áp của cõi lòng.
Trong số này, bài thơ "Cầm chân em, cầm chân hoa" là một thi phẩm đã tạo được sự bất ngờ như yêu cầu mà nhà thơ Xuân Diệu đặt ra: "Em đến xin hồng, hồng chửa nụ/ Hôm nay hồng nở bóng em xa/ Cầm em bữa trước em không ở/ Giờ biết làm sao cầm được hoa".
Trong lời giới thiệu tập "Thơ Yến Lan" (NXB Văn học, 1987), nhà thơ Chế Lan Viên tâm sự, ông "rất thèm" viết được một bài "Lại về tỉnh nhỏ", một bài "Mùa xuân lên cao", một bài "Uống rượu với bạn đồng hương" như Yến Lan. Theo tôi, đây không phải là một lời an ủi, động viên người bạn thơ mà là sự thật. Chí ít hai bài thơ "Lại về tỉnh nhỏ" và "Uống rượu với bạn đồng hương" của Yến Lan đã cho tôi ý niệm như vậy.

____________________________________________________________

Đời con bọ

truyện ngắn của Hồ Anh Thái

Cánh Hà Nội bảo nhau: anh Năm sắp ra đấy.

Anh Năm từ Sài Gòn ra Hà Nội là một sự kiện. Người ta truyền nhau thông tin. Người ta náo nức. Người ta rục rịch chuẩn bị. Sẽ tổ chức một buổi sinh hoạt câu lạc bộ, các thành viên ở Hà Nội sẽ có mặt để chào mừng anh Năm.
Nói là chào mừng e có vẻ khách khí. Thực ra là thêm một dịp để anh em thành viên gặp nhau, thăm hỏi nhau. Và hơn hết thảy, đem khoe con xe của nhau. Như là đem khoe con, nó xinh tươi khoẻ mạnh ra sao, nó có áo mới áo đẹp thế nào.
Tuổi sáu mươi, dịp ngàn năm Thăng Long, anh Năm đã lái xe con bọ từ Sài Gòn ra Hà Nội, rồi đi tuốt lên Điện Biên, qua đường Phong Thổ Lai Châu mà sang Sa Pa. Hai ngàn rưỡi cây số đi. Hai ngàn rưỡi cây số về. Chuyến caravan lữ hành của câu lạc bộ xe hơi Volkswagen, loại Beetle, còn gọi là xe con bọ. Đúng là xe con bọ. Cả một đoàn như một dây bọ cánh cứng. Gần hai chục chiếc xe xênh xang trên đường. Như một đám rước diễu hành. Như một đám cưới tưng bừng sặc sỡ. Mỗi xe mỗi màu, diêm dúa và lộng lẫy. Mỗi xe mỗi kiểu, mảnh mai và yểu điệu. Mỗi xe mỗi phong cách, cổ kính tôn nghiêm mà trẻ trung bóng bẩy. Mỗi xe mỗi chủ, luật sư và bác sĩ, quân nhân và dân sự, nhà ngoại giao và giảng viên, kỹ sư cơ khí và thợ điện thợ máy… Cả đoàn xe tưng bừng khắp khu Bắc bộ phủ, nối đuôi nhau dung dăng dung dẻ quanh hồ Gươm, thêm sắc màu cho cái đại lễ ngàn năm.
Anh Năm không phải là người sớm gia nhập câu lạc bộ. Không hề sớm. Nhưng anh lại chính gốc là thợ máy của hãng Volkswagen từ trước năm bảy lăm. Người cha là biệt động thành, ông gửi đứa con trai vào gia đình một cơ sở. Cơ sở này là ông chủ của một hãng Volkswagen ở Sài Gòn. Thế là chàng thanh niên được học nghề sửa chữa đám xe hiện diện khắp miền Nam thời ấy. Rồi người cha biệt động Sài Gòn hy sinh trong một trận đánh. Chú thợ cũng trưởng thành dần trong cái nghề định mệnh của mình. Gọi là nghề định mệnh vì nó là kế sinh nhai, cuốn vào đấy mọi đam mê, mọi gửi gắm, mọi kỳ vọng cứ như có thể ăn đời ở kiếp. Nhưng rồi mọi thứ thay đổi. Sau năm bảy lăm, xe mới không nhập vào, xe cũ tàn tạ, dần dần chỉ còn là kỷ niệm, là bóng dáng xưa, ì ạch kéo lê thân già trên đường rồi chết già xó cửa lúc nào chẳng rõ. Anh Năm cũng thôi nghề lúc nào chẳng rõ. Lên vùng kinh tế mới, làm ăn không được, lại bồng bế nhau về. Trải bao thứ nghề kiếm sống. Rồi mở mày mở mặt trở lại. Rồi làm ăn phát đạt trở lại. Con cái gửi đi học Âu Mỹ đều đã trưởng thành. Bắt đầu nghĩ chuyện hai ông bà thảnh thơi ngồi nhìn nhau dưỡng già.
Đùng một cái có ông luật sư trẻ tìm đến. Anh Năm, câu lạc bộ xe cổ mới thành lập không thể thiếu anh. Không thể thiếu. Thì ra từ lâu nay anh em vẫn có người âm thầm chơi xe Volkswagen, đặc biệt là xe con bọ. Họ mua lại nó từ chủ cũ. Họ lôi nó ra từ bãi rác từ đống sắt vụn. Họ tân trang mông má lại, thay máy và chỉnh sửa mọi chi tiết. Thực sự là một cuộc phục sinh. Thực sự là cải lão hoàn đồng. Bà già tưởng đã chết già xó cửa bỗng hoá thành một nàng lộng lẫy diêm dúa khiến ai đi đường cũng phải ngoái nhìn. Khiến anh Năm tưởng đã nguôi quên bỗng một ngày rộn rực khắp người. Anh nhận lời đến chơi với anh em câu lạc bộ một buổi. Gặp gỡ các bọ nhân. Hôm ấy vài chục con xe đến, đỗ chói chang khắp một công viên sinh thái. Con màu ngọc thạch, con màu đỏ cờ, con xanh lá cây, xanh dương, con vàng chanh vàng dứa, con màu bạc màu đồng. Chỉ nhìn thấy thế là anh Năm cầm lòng chẳng đậu. Bao nhiêu đam mê trỗi dậy. Bao nhiêu ký ức ùa về. Bao nhiêu xúc cảm trào dâng. Anh gật đầu chỉ nói một tiếng. Được. Zậy thôi.
Các bọ nhân trong câu lạc bộ bảo thời nay không thể tìm được một người thợ sửa xe Volkswagen. Thợ sửa xe hiện đại không dám mó tay vào. Và không muốn. Sửa xe bọ phải tà tà từ từ. Không ăn xổi ăn gỏi ăn nhanh fast food được. Một con xe ngâm nga bao lâu trong xưởng. Và chờ đợi bao lâu mới có một con đến sửa. Thu nhập không ai trông chờ được vào đó. Chỉ có người thợ chính hãng ngày trước mới đủ tình cảm và đủ kiên trì.
Xe hồi sinh. Người cũng hồi sinh một đam mê. Đời con bọ. Anh Năm đã xem cái phim hoạt hình Mỹ A Bug’s Life về một xã hội loài bọ cánh cứng. Đây thì đời xe cũng như đời bọ. Đời bọ như đời người. Nhiều ái ố hỉ nộ. Nhiều thăng trầm. Anh nhớ một ông bạn công chức trước bảy lăm có con xe đời ngàn mốt, ông này đã định cư ở Mỹ nhưng con xe vẫn còn bỏ đâu đó trong nhà cũ. Anh Năm tìm đến nhà ông bạn. Bãi đất để xe ngày trước mênh mông giờ không còn lối vào. Con cháu ông bạn đã chia đất phân lô xây nhà, đã bán bớt đất cho người khác đến xây nhà. Những bức tường quây kín cái nhà để con xe vào giữa. Hỏi đám họ hàng, ai cũng bảo trong cái phòng ấy có một con xe, nhưng ai cũng không biết nó là xe gì, đời nào, hình dáng màu sắc ra sao. Con xe trở thành tù biệt giam cấm cố vài chục năm rồi. Anh Năm mua lại con xe. Đúng là mua mèo trong bị, chẳng ai biết mặt mũi nó ra làm sao. Nhưng anh Năm thì nhớ. Thời trước, tay anh đã chăm sóc thăm khám cho nó nhiều năm trời. Thoả thuận mua bán xong rồi mới thấy không có đường để đưa xe ra. Phải đập tường cái phòng biệt giam con xe. Phải đập tường thêm một căn nhà nữa để đưa xe đi qua. Phải khiêng. Mười chú thợ khiêng xe qua căn nhà đập tường rồi đi ra ngõ. Ngõ hẹp. Xe động cơ không vào được. Phải bỏ con xe lên một chiếc xe bò. Xe bò chở bọ. Cứ thế anh mua được con xe về. Người nhìn xe như gặp lại cố nhân. Một cố nhân sa sút tàn tạ. Người nhìn xe mà rơi nước mắt. Ngày xưa nàng vốn đầy vẻ bắc bậc kiêu sa. Giờ thì ra nông nỗi này.
Anh gia nhập câu lạc bộ xe con bọ. Con xe đã được cải tử hoàn sinh, không chỉ hoàn sinh mà còn trở thành một tiểu thư óng ả. Những con xe óng ả trong câu lạc bộ cũng đều là xe nhập trước bảy lăm, cũng đều được lôi ra từ nơi cấm cố hoặc bãi rác bãi sắt vụn như vậy. Cuộc đời xuống cẩu lên voi dường như cũng chỉ trong chớp mắt. Người ta ôn lại lịch sử loại xe nghe đâu ra đời từ những năm ba mươi thế kỷ hai mươi ở tận nước Đức. Ngày ấy chính quyền chủ trương một chương trình ôtô cho nhân dân, ôtô cho mọi nhà và ông kỹ sư Bosche được giao nhiệm vụ thiết kế một loại xe giá bình dân, chừng dăm trăm đôla thời đó. Con xe ấy một thời tung hoành khắp châu Âu, sang tận châu Mỹ. Con xe ấy giờ đây ở ta hầu như chỉ còn là những con xe cổ. Ở câu lạc bộ, anh Năm thành hạt nhân cho các điện tử chao lượn xung quanh. Thợ điện thợ máy chính hãng, hiếm hoi lắm. Cả Sài Gòn bây giờ chỉ còn có vài ba người như anh. Hơn sáu chục con xe ở Sài Gòn. Hơn ba chục con xe ở Hà Nội. Anh em có sự cố gì đều tham vấn các anh. Anh thành một kiểu thầy thuốc cho bọ. Bọ hắt hơi sổ mũi, bọ va vấp ươn mình, người ta đều a lô gọi đến anh Năm. Chuyến caravan lữ hành xuyên Việt, các con bọ nối nhau trên đường, thành một đội hình. Bọ lễ tân bọ điều hành đi trước. Phụ nữ và tay non đi giữa. Cuối cùng là một bọ điều hành, rồi đến anh Năm. Thầy thuốc đi sau để quan sát và xử lý những con phát bệnh. Bao giờ cũng đi sau. Dụng cụ sửa chữa đầy đủ và sẵn sàng. Ấy thế, đi lên vùng Tây Bắc, giữa núi rừng hùng vĩ, sóng điện thoại lạc đi đâu mất. Có con bọ mải mê rẽ vào bên đường hái hoa bắt bướm rồi trục trặc. A lô thì chịu. Không làm sao quay ra đường chính được. Chỉ có nước đứng giữa Tây Bắc trùng điệp mà khóc. Nhưng có gì như linh tính. Có gì như thần giao cách cảm. Xe anh Năm đi cuối đoàn đã vượt qua lối rẽ ấy. Bất chợt anh cảm thấy có gì vương vướng bên tay trái. Một chiếc lá khô còn vương trên cánh tay, dính vào tay áo anh bằng mấy sợi tơ nhện. Chiếc lá cứ thế mà lật phật đập vào cánh tay anh. Như là nhắc nhở. Anh nhớ mình vừa mới vượt qua một lối rẽ, hơi giống cái đường cứu nạn nhưng nhỏ hơn. Hình như thấp thoáng một cái gì trong đó. Một cái gì thì anh không biết. Nhưng mà hình như.
Anh đã quay xe lại và cứu được một con trong hội bọ. Lên đến Điện Biên, đám bọ được dịp hân hoan chúc mừng nhau không bỏ rơi một bọ nào.
Bây giờ anh Năm lại ra Hà Nội. Có công chuyện gì không anh Năm? Đâu có công chuyện gì, nhớ anh em thì ra, zậy thôi.
Bọ Hà Nội lại tụ tập. Áo đỏ áo xanh xênh xang cả một góc Bắc bộ phủ. Gặp nhau để thăm hỏi triền miên và lai rai nhậu. Nhưng mà anh mang theo kè kè bộ đồ sửa chữa. Con bọ nào có vấn đề là sửa ngay. Đè ra sửa. Bóc ra sửa. Vặt ra sửa. Con ngàn mốt đó còn ngon lắm, anh đây vẫn thích xài con ngàn mốt hơn cả. Con ngàn rưởi đó chỉnh lại cái quạt gió là ngon ngay. Con ngọc lam kia thì chỉ sụt sịt chút phần điện. Bữa nhậu chỉnh sửa vẫn chưa đủ. Anh Năm ở Hà Nội một tuần thì một tuần anh đi qua hết các nhà bọ, sửa xong hết xe cho anh em. Như bác sĩ đi thăm khám. Có cái vui của thầy thuốc. Có cái phiền của thầy thuốc. Nhưng anh ra chơi là chỉ để thăm nom giúp anh em, zậy thôi mà.
Anh em hỏi anh có đến thăm nhà ấy nhà nọ chưa? Ờ ờ để tính. Nhà ấy ông chủ bọ vừa đi công tác châu Âu, không tụ tập ở đây được. Nhưng chủ đi thì có bọ ở nhà. Ai cũng nghĩ là anh Năm sẽ đến thăm con bọ ấy. Ờ ờ để tính.
Đấy là con bọ màu đỏ cờ, anh Năm kịp đến khi chủ nó sắp sửa đem nó đi bán sắt vụn. Cái vỏ gỉ hoen không còn biết màu sơn gốc của nó là gì. Sứt sẹo và long lở. Anh lôi nó về xưởng. Phù phép biến nó thành một nàng tiểu thư óng ả. Sơn cho nó màu đỏ cờ. Biến nó thành một nàng tiểu thư lộng lẫy. Thỉnh thoảng có đám cưới đến thuê để chụp ảnh cô dâu chú rể đứng bên cái xe cổ. Tiền mình đâu quá bức bách, nhưng đứa con cưng của mình kiếm được ra tiền thì một đồng cũng quý. Không từ chối. Không nề hà. Anh cưng chiều nó như cưng chiều ba con bọ khác trong nhà mình. Mỗi đứa một số phận. Mỗi đứa một lai lịch. Con bọ đỏ này có cả một bộ hồ sơ dày cộp ở chỗ đăng ký. Có chứng sinh chứng tử. Chứng sinh nói năm sinh của nó là 1966. Chứng tử là giấy chứng tử ông chủ đầu tiên của nó. Chủ mất rồi, con cháu ông muốn bán cái xe này thì phải làm đơn xin bán, kèm theo tờ chứng tử. Nó lọc xọc lạch xạch qua tay một ông thợ cơ khí, một ông nhà báo, một ông nhà thơ. Ông nhà thơ cuối cùng thấy bất tiện quá, ông vừa đi vừa phá, lại không biết chăm nom săn sóc nó, ông đắp chiếu cho nó nằm im trước nhà. Hàng xóm kêu ca, vợ con la rầy, ông quyết định trả nó ra giữa bụi đời. Vừa may có anh Năm biết mà tìm đến.
Nó lại ngon ngay. Một bữa có người đến lăn vào đòi mua. Một chuyên viên vi tính ở Hà Nội vào Sài Gòn công tác. Em mê con này quá anh Năm. Em chơi bọ từ lâu rồi, cũng đã để qua tay vài con nhưng vừa gặp con này là em kết ngay. Anh Năm để em chơi đi. Rồi khi nào anh nhớ nó, em mua vé cho anh bay ra thăm nó cũng được mà. Lý lẽ đến thế thì hết sách từ chối. Mình có đứa con xinh đẹp ngoan ngoãn, người ta cứ lăn vào đòi cưới thì tự nhiên thấy đẹp lòng. Mình gả. Biết chắc là gả vào chỗ xứng đáng. Thanh niên thời nay không mấy người hiểu được cái hay của xe con bọ. Họ thấy nó không tiện dụng. Họ chỉ chọn xe đời mới có nhiều chế độ tự động. Nhiều người cũng không biết rằng nó là xe cổ nhưng không hề đắt tiền. Không hề. Nó tồn tại là để dành cho người đam mê và không quản ngại. Gặp được người hiểu rõ giá trị của con bọ, anh Năm như gặp được người đồng cảm. Anh gật liền, zậy thôi. Anh Năm cũng không muốn gửi xe thùng chuyên chở con bọ ra Bắc. Anh tự tay lái xe đi hơn một ngàn tám trăm cây số ra Hà Nội. Mang con gái đi về nhà người, tục lệ là cha đưa mẹ đón. Gặp đúng vào dịp mùa khô rồi mà thời tiết ác nghiệt cứ mưa gió bão bùng. Lũ tràn qua miền Trung. Ngang qua Cam Ranh lũ tràn qua mặt đường. Phải dò dẫm lội qua chín đoạn nước ngập. Hết đoạn này lại tiếp đoạn khác. Có lúc tưởng đã phải dừng lại một cái nhà nào đó bên đường. Nhưng lũ vẫn tiếp tục tràn qua. Dừng lại nhỡ đâu đêm nay nước dâng cao hơn, thì cái xe bọ đúng là thành con bọ cánh cứng trôi tuột đi giữa dòng nước xiết. Số con bọ này thật là gian truân. Mảnh mai yểu điệu nhưng mà tinh thần là của một người đàn bà quả cảm. Không lùi bước. Cứ thế mà rẽ nước tiến lên. Cứ thế mà đi tới. Kiên định, bền bỉ, nhẫn nại, quyết chí. Anh vừa lái xe vừa lẩm bẩm, tội quá thương quá, ba biết là ba gửi con vào nơi xứng đáng, ba không nhầm, nhưng mà về nhà người ta giữa mưa giữa lũ thế này. Nhớ cái ngày đám cháu nội của anh từ Mỹ về thăm, chúng ríu rít chạy quanh cái xe mà chúng gọi là Lady Bug, cô Bọ Cánh Cứng. Thì xe con bọ ai cũng coi là giống cái mà. Lũ trẻ vừa bám xung quanh cô Bọ vừa hát bài đồng dao của trẻ con Mỹ:

Lady Bug, Lady Bug
Go home
Your house is on fire
And your children are alone.

Cô Bọ ơi cô Bọ/ Cô hãy về nhà ngay/ Nhà cô đang bốc cháy/ Lũ con bơ vơ thay. Ờ ờ, gửi vào nơi yên tâm rồi mà mình vẫn có lúc nghĩ nó bơ vơ. Ngày cuối cùng ở Hà Nội, có anh bạn lại nhắc, anh đã đến thăm cô Bọ của anh chưa? Ờ ờ thôi, để khi khác, biết nó khoẻ nó đẹp là yên tâm rồi.
Nhưng trên đường ra sân bay thì anh Năm lại nghĩ, anh mà đến nhìn thấy con bọ lấy chồng xa ấy, nhìn thấy Lady Bug được anh cưng chiều nhất mực ấy, người nhìn xe, xe nhìn người, rồi khéo mà anh nhấc chân không nổi, quay đi không nổi.

_________________________________________________________________

Thứ Ba, 22 tháng 3, 2011

Kim Mộc Thuỷ Hoả Thổ

Thơ Nguyễn Duy

Tối qua đi nhậu với bác Nguyễn Duy, bác hỏi: “Lập có nhớ bài Kim mộc Thuỷ hoả thổ của mình không?” Ồ, sao lại không nhớ. Bài Thơ đó in ở Cửa Việt số 16, cùng với truyện ngắn Gió dại của Bảo Ninh, toạ đàm Bàn tròn nó đã góp phần đánh sập Cửa Việt, buộc Hoàng Phủ Ngọc Tường phải chạy vô Huế, còn tui chạy ra Hà Nội. Tui nói góp phần là vì đó chỉ là cái cớ… Mà thôi, chuyện qua lâu rồi, không muốn nhắc lại thêm buồn.

Bài thơ bác Duy đã “ác” mà cái sapo của bác Tường viết cũng “ác”, bác Tường viết:“Thơ xưa, Quỉ Cốc Tử nói rằng: “Quản Trọng đạt thời sớm. Khương Tử Nha thời muộn. Thạch Sùng giàu, Mông Chính thì bần cùng. Bành Tổ sống lâu, Nhan Uyên chết yểu. Cả sáu người đó đều nằm trong Ngũ Hành”. Nay cuộc sống nhìn từ gần, hoá ra mọi sự lố lăng nhếch nhác, mắc cười, vỡ mộng… tất thảy cũng đề u là trò cười của Kim Mộc Thuỷ Hoả Thổ. Bài thơ này đọc thì cười ngất, nhưng cười xong thấy lạnh buốt tuỷ sống, như rơi vào cõi thái âm. Thơ Nguyễn Duy vẫn bông đùa như vậy”.

Câu chuyện xảy ra từ năm 1992, bây giờ nhớ lại thấy bồi hồi, nhớ Cửa Việt, nhớ Quảng Trị, nhớ anh em ở toà soạn cỏ lau…Nhớ vô cùng.

I.

Quả đất nóng dần lên
tầng ôzôn có vấn đề gì đó
Sọ dừa gặp vấn đề trì trệ
tri thức nhồi vào tri thức cứ phòi ra
Mắt vấn đề toét tai vấn đề ù
bất an vấn đề giấc ngủ
Sâu rầy đang vấn đề cánh đồng
rừng cây vấn đề cháy và trụi
Nón hành khất ngã vấn đề xó chợ
trẻ lang thang vấn đề bụi đời
Lổn nhổn hành tinh vấn đề đẻ và đói
chiến trận tuôn vấn đề đỏ lòm.
Chó cứ sủa người cứ đi
những con đường đầy vấn đề ổ gà
Những nhịp cầu chông chênh quá tải
vấn đề nay mai sập bất cứ lúc nào
Những giống người tham gặm nhấm cả trời đất
vấn đề ngày kia thiên nhiên ăn thịt tuốt
Vấn đề nước cầm đầu lũ lụt
vấn đề lửa thủ phạm hoả hoạn
Khủng hoảng thiếu thần linh
Khủng hoảng thừa yêu quái
Đại loạn thay cái thiên hạ rắc rối
vấn đề tầng ôzôn cả thôi.

II.

Lục bục bụng dạ sôi
ruột gan vấn đề gì đó
Nghe chừng lục phủ ngũ tạng đều cọt kẹt
si đa giác quan? ung thư toàn thân?
Không thể nói rằng ta bất cần
ta cần sống và cần đủ thứ
Cần dinh dưỡng cần khí thở
cần giấc mơ nõn ngọn rau xanh
Cần phút lặng thinh mặc niệm những mối tình quan họ
những người tình không giao phối bao giờ
Thất xà ngóc cổ trong hũ rượu
nọc rắn tuần hoàn bổ âm bổ dương
Độc trị độc nhộn nhạo huyết quản
lúc nhúc hổ mang khè hang hốc xương
Gần đây ta ngài ngại đi ra đường
dù chả để làm gì ta muốn ngồi một mình
Vu vơ một mình trống rỗng một mình
ta sờ sợ nơi nào nhiều khôn vặt ít thông minh
Ta nhờn nhợn cái há mồm vĩ nhân tôm cá
khạc đủ đồ nghề thằng nọ con kia.
Ta mặc cảm cái bóng đèn điện không có điện
lủng lẳng trần nhà thường làm ta giật mình
Ta ngan ngán bóng quan hoạn giả thiến gia đạo
vừa ăn hoa hồng vừa xơi hoa đào
Những phường buôn cứt bán cho chó
nợ khó đòi thì làm gì nào
Những bất ổn đầy rẫy
thì đã sao? thì làm sao?
Có người thách ta đánh nhau
ta bảo ta yếu rồi ta lại không có võ
Có kẻ thách ta chửi nhau
ta bảo ta vừa bị mất trộm cả sọt từ ngữ
Có đứa thách ta nhổ vào mặt nó
ta bảo hết đờm rồi.
Ta chúi mũi hà hơi lên trang bản thảo
hô hấp nhân tạo những con chữ khó thở
Ta khao khát tiếng hát giun dế
không kiểm duyệt không biên tập
Ta ao ước cái bay chim chóc
không hộ chiếu không biên giới
Chó già giữ xương mèo già hoá cáo
ta già ta hoá trẻ con
Thiêng liêng thay khoảng lặng cô đơn
người hoá thánh chỉ khoảnh khắc ấy

III.

Nóng quá trằn trọc quá
tầng ôzôn có vấn đề gì đó
Quạ cũ kêu sương ươn ướt dĩ vãng
tiếng cú rạch trời rơi từng giọt bầm đêm
Giấc mê mệt thiêm thiếp chiêm bao trắng
loạng quạng ma nhảy nhót trước thềm
Thử nhập đồng khúc tănggô quỉ
chợt thấy xác mình thối rữa từ từ
Kèn trống bỗng mọc móng mọc vuốt
gầm gừ đèn lân tinh nhờ nhợt
Ú ớ mồ hôi
chân lỡ nhảy – phải nhảy – cứ nhảy…
Bước nhảy nảy tư duy thị trường
kinh doanh xác mình dù giá thậm rẻ mạt
Quạ có mua ta bán xác trọn gói
hoặc bán từng phần trước khi thối rữa hết
Cú có mua ta chấp nhận hoá giá
chấp nhận cho trả góp từng phần
Như kiểu bán từng phần rừng-bể-núi-sông
từng khúc ruột đất từng mẩu mặt bằng từng miếng địa ốc
Thời buổi thị trường mọi việc đều có thể
có thể nước này mua trọn gói nước kia
Có thể lập những liên doanh ma quỉ
những công ty bán nước từng phần
Có thể kể những tập đoàn siêu quốc
những quốc gia mất nước từng phần
Cái xác ta thì có nghĩa lý gì
ta tự tháo khớp và tự bán
Chuyện xưa ông lão kiết dạy con:
“Khi cha chết xả xác cha mà bán…”
Ta thì phải tự tay làm lấy
sợ các con chia chác không đều
Tự đọc điếu văn soạn sẵn vĩnh biệt mình
tự giải thoát một thời mộng mị
Cuốn gói hồn đi kinh tế mới vầng trăng
cấy lúa trồng khoai Kim Mộc Thuỷ Hoả Thổ
Ta đi đây… kinh tế mới vũ trụ
vượt tầng ôzôn đang có vấn đề

IV.

Ngôi sao xa xôi bất ngờ đổi ngôi
ánh sao băng chợt đọng đẫm hố mắt
Ngọn gió thông thường lay ta tỉnh giấc
khí thở thông thường thoi thóp lại ta rồi
Ta bịch về mặt đất bất ổn
nhố nhăng đến chết nết không chừa
Lại lục bục bụng sôi
lại ruột gan vấn đề gì đó
Lại thừ nhớ những mối tình quan họ
những người tình không giao phối bao giờ
Lại đi đưa những đám ma từ ngữ
xác chữ chôn đầy nghĩa địa giấy vô hình
Lại khốn khổ với sọ dừa trì trệ
nhồi tri thức vào tri thức cứ phòi ra
Lại càu nhàu quả đất nóng dần lên
nghi tầng ôzôn vấn đề gì đó…

V.

Ta lững thững xách sọ dừa đi chợ
tìm chú vịt tàu lai thím vịt xiêm
Ẩn sĩ Lêguym toạ thiền giữa chợ
gia vị ê hề những chua chát đắng cay
Những quàng quạc đành đạch âm nhạc
những cua ốc nghêu sò nguồn thi hứng tràn đầy
Những cuống muống non ròng ròng ứa nhựa
oai oái khoái cái roi rói chợ
Cứ thế bình tâm cân bằng dần các thứ
ngà ngà say men chợ thường ngày
Cứ phảng phất thơm chùa những hồng hào má
những thắm cười tươi như hoa nhà ai
Cứ ấn tượng bàn tay bậc thầy mổ cá
bái phục giáo sư vặt lông vịt thiên tài
Tiết vịt sống hài hoà lòng vịt chín
món tiết canh thần tiên lấp lỗ hổng sọ dừa
Vào cuộc nhậu có kẻ rất sợ tiết
dù ở đời họ máu tiết canh nhau
Thì làm sao
thì làm gì nào
Thì ta thi tài với con nít lối xóm
Cờ tuớng cờ vua cờ ngựa cờ ô…
Và chơi lại trò xưa đơn giản như là không có gì
ván âm dương Kim Mộc Thuỷ Hoả Thổ
Năm ô cờ sắp xếp cả thiên hạ
ngồi xổm chơi hay bệt đất thì tuỳ
Và nghêu ngao lõng thõng hò vè
giun dế du dương ễnh ương đắm đuối
Và ngạo nghễ khúc đồng dao nhăng cuội
lời trẻ con phấp phới ngũ hành kỳ…

Cuối năm con Dê (1991)
Đầu năm con Khỉ (1992)

(Lời giới thiệu của Nguyễn Quang Lập)
________________________________________

Tiểu thuyết lịch sử và người đầu tiên mở hướng cách tân

Trần Mạnh Tiến

Những năm gần đây xuất hiện nhiều tiểu thuyết lịch sử, làm nảy sinh các quan niệm tiếp nhận khác nhau. Báo Văn Nghệ đã đăng tải ý kiến của nhiều tác giả xoay quanh vấn đề nguyên mẫu nhân vật lịch sử và việc hư cấu nghệ thuật của nhà văn.

Từ sự suy ngẫm về hai cuốn tiểu thuyết Chốn xưa và Ngân thành cố, trong bài viết Đề tài lịch sử cảm hứng sáng tạo (số 16, 21/4/2007) của nhà văn Trung Quốc Lý Nhuệ, Vương Chí Nhàn nêu ý kiến: “Có muôn vàn cách thức của người viết văn làm cho trang sách của mình khác đi so với quá khứ, và ở đây không ai có quyền tuyên bố mình có trong tay cái chìa khoá duy nhất”. Bài viết Về Nhân vật lịch sử trong văn chương hiện đại (số 36, 6/9/2008), Phạm Quí Bính lại cho rằng: “Nhân vật lịch sử trong văn chương trước hết là một hình ảnh… đây không phải là một hình ảnh bịa đặt tự do, vì nhân vật lịch sử bao giờ cũng có nguyên mẫu trong trí tưởng tượng của bạn đọc, dù các nguyên mẫu ấy đậm hay nhạt. Nếu nhà văn bất chấp cái nguyên mẫu đó, nhân vật có nguy cơ không được độc giả chấp nhận”. Trong thư gửi nhà văn Cao Duy Thảo, nhan đề Xin đừng nhầm lẫn giữa tiểu thuyết và lịch sử (số 45, 8/1/2008), Đình Kính cho rằng: “Đừng hiểu các nhà văn thành các nhà báo, lẽo đẽo chạy theo các sự kiện như kiểu, đã viết về chiến tranh nhất thiết phải có “bóng dáng lính Mĩ và chư hầu” để “đúng với lịch sử”… chưa thay đổi tư duy chúng ta chưa thể “nâng cao tính chuyên nghiệp của văn chương”. Đến bài viết Đề tài lịch sử không bao giờ xưa (VN trẻ số 44, 26/10/2008), Hà Ân lại quan niệm: “Nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử cho phép sai biệt với nhân vật trong chính sử: Có thể có những sai biệt cho phép. Như nhân vật trong chính sử có khi chỉ là một cái tên. Ví dụ: Thái Hậu Dương Vân Nga, hay công chúa An Tự hay các anh hùng, dũng sĩ… Nhưng nhà văn có thể viết nhiều tác phẩm về các nhân vật này với nhiều tình tiết mà chính sử không hề có chút nào…”

Mới nhìn qua, tưởng như đây là vấn đề mới về quan niệm nghệ thuật, nhưng đó lại là sự việc đã từng được nêu ra trên diễn đàn văn học nửa đầu thế kỷ XX từ 1935-1942 của các tác giả Trương Tửu, Trương Chính, Vũ Ngọc Phan, các nhà văn này từng tỏ ý không đồng tình về vấn đề hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai - một “lão tướng trong làng tiểu thuyết” thời bấy giờ. Trong bài Lan Khai và tiểu thuyết lịch sử (Loa số 82, Thứ Năm, 12/1935), Trương Tửu tiên đoán Lan Khai “có thể trở nên một nhà tiểu thuyết lịch sử có tài”, nhưng cũng không nhất trí với Lan Khai, ông viết: “Bởi chỉ thích tả tình và cảnh, nên ông dễ sa vào tính cách chung (caraclère universet), không theo sự thực của lịch sử. Vì thế, tiểu thuyết của ông thiếu phong vị và màu sắc thời đại (couleur locale). Ông cho những người ở thế kỷ trước sống những tình cảm và tư tưởng chỉ riêng có ở thế kỷ XX”. Trong cuốn Dưới mắt tôi (1939), qua phê bình 5 tiểu thuyết Gái thời loạn, Chiếc ngai vàng, Chế Bồng Nga, Ai lên phố Cát, Cái hột mận, Trương Chính cũng không tán thành với cách xây dựng nhân vật không giống với nguyên mẫu lich sử của Lan Khai. Đến cuốn Nhà văn hiện đại, mục Lan Khai (tập IV quyển thượng, 1942), Vũ Ngọc Phan kết lại: “Trong một cuốn lịch sử tiểu thuyết, việc không cần toàn đúng sự thật, nhưng ngôn ngữ cử chỉ các nhân vật cũng cần phải hợp với thời đại. Vào thời Mạc Đăng Dung mà một vị tiểu thư lại thốt ra lời này trước mặt một viên gia tướng: Thế mà ta đã yêu Vũ Mật! Chính tấm lòng ta đã lừa dối ta, còn để làm gì. Lời trên này thật là lời một gái tân thời Việt Nam ở thế kỷ XX đã chịu Âu hoá. Chữ “yêu” theo cái nghĩa về tình ái, cổ nhân chưa biết dùng…”. Hơn sáu thập niên qua, vấn đề sáng tạo tiểu thuyết lịch sử như thế nào cho phù hợp lại tiếp tục được nêu ra. Phải chăng đây là một loại tự sự không hề cũ trước nhu cầu sáng tạo và tiếp nhận của nhiều thập kỉ qua?

Ngược dòng thời gian với khối lượng gần ba mươi tiểu thuyết lịch sử như: Gái thời loạn, Chiếc ngai vàng, Chàng đi theo nuớc, Cái hột mận, Ai lên phố Cát, Người thù mặt trời, Chế Bồng Nga, Đỉnh Non Thần, Chàng áo xanh, Bóng cờ trắng trong sương mù, Tiếng khóc trong sương, Cánh buồm thoát tục, Việt Nam- Ngươi đi đâu ?; Cưỡi đầu voi dữ, Treo bức chiến bào, Trong cơn binh lửa, Ái tình và sự nghiệp, Thành bại với anh hùng, Tình ngoài muôn dặm; Theo lớp mây đưa, Rỡn sóng Bạch đằng, Sầu lên ngọn ải, Trăng nước Hồ Tây, Gửi cái xuân tàn, Giấc mơ bạo chúa v.v... được sáng tác từ 1932- 1942, cho thấy, Lan Khai là nhà văn có số lượng tiểu thuyết lịch sử lớn nhất ở thế kỉ XX. Đương thời các cây bút như Ngô Tất Tố, Nguyễn Tử Siêu, Nguyễn Triệu Luật… viết tiểu thuyết lịch sử, nhằm tái hiện "đầy đủ" các sự kiện và "nguyên mẫu" nhân vật, nhưng trong các tiểu thuyết lịch sử của mình, Lan Khai lại có hướng đi riêng. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của ông được nhìn qua lăng kính của một nhà cách tân tiểu thuyết. Do vậy, muốn khám phá tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai, cần tìm hiểu ý thức nghệ thuật đương thời của nhà văn.

Trong bài Một niềm tin cần phải có trên Tạp Chí Tao Đàn số 7/1939, Lan Khai viết: "Hỡi người Việt Nam, hãy đem tất cả đức tính của dân tộc ra ánh sáng và làm cho nảy nở đến cực độ đi! Hãy sung sướng và tự cao được là con cháu Rồng Tiên, con cháu của Nguyễn Du, Trưng Trắc, Trần Quốc Tuấn, Lý Thường Kiệt, Nguyễn Huệ, Nguyễn Công Trứ.". Như vậy, cảm hứng về dân tộc bao trùm nhận thức của người cầm bút. Trong Lời giới thiệu cuốn sách Bà Chúa Chè của Nguyễn Triệu Luật, Lan Khai đã bộc lộ quan niệm của mình: ‘‘Cũng như tôi, Nguyễn Triệu Luật viết tiểu thuyết lịch sử, nhưng khác với tôi, ông lại luôn chú trọng về sự thật trong khi tôi chỉ khuynh hướng về nghệ thuật. Đọc Gái thời loạn, Ai lên phố Cát, nếu người ta mơ màng say đắm với những gì có thể có được thì đọc Hòm đựng người, Bà Chúa Chè, người ta phải sống đầy đủ với những cái đã có thật’’[1]. Điều đó thể hiện hai quan niệm sáng tác khác nhau, phản ánh hai thế giới nghệ thuật khác nhau. Ở chương đầu tác phẩm Ai lên phố Cát, Lan Khai cũng chỉ rõ: "Cho nên sưu tầm nguyên sự thực, nhà làm sử gác bỏ những điều huyền hoặc đã đành. Nhà tiểu thuyết, trái lại, có thể tự do biên chép hết cả để thêm hứng thú cho câu chuyện mình định kể." Theo đó, mục tiêu của nhà sử học và nhà tiểu thuyết có khác nhau; nhà sử học tìm chân lí trong lịch sử bằng tư duy khoa học, nhà văn tìm chân lí trong cuộc sống bằng tư duy nghệ thuật. Do đó, sáng tác là hư cấu dựa trên sử liệu và huyền thoại dân gian.

Tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai được hình thành từ hai nguồn: lịch triều và dã sử, không chỉ nhằm tái hiện danh nhân và sự kiện, mà mỗi tác phẩm là một bức tranh riêng về số phận con người. Thế giới nhân vật của ông gồm đủ thành phần: Vua chúa, thái tử, thế tử, khanh tướng, người anh hùng, phụ nữ trong hoàng tộc, thị tỳ, dân chúng, binh sĩ, kẻ cướp nước và bán nước vv... Tất cả liên hệ thành tổng hoà các quan hệ xã hội. Nhưng nhà văn lại chú ý đi sâu vào thế giới bên trong con người, đưa nhân vật về với đời thường. Những nhân vật thống trịcủa vương triều như vua chúa, thế tử, thái tử, được tạo nên từ hai kiểu: nhân đức và bạo chúa. Trong hàng ngũ bá vương có người tài cao đức cả và cũng có kẻ bất tài, bạo ngược. Trong Cái hột mận, Lý Công Uẩn là một vị tướng, tài binh lược nhưng biết mình và hiểu rõ sức dân, luôn lo cho xã tắc: ‘‘Sức một người khó lòng trọn vẹn’’ và mong muốn ‘‘mở ra cho nước Đại Cồ Việt ta một thời thái bình thịnh trị’’; khi thắng trận, biết đối sử nhân đạo với kẻ thù ‘‘lấy đức phục nhân tâm’’. Bên trong chiếc áo bào rực rỡ hào quang, Lý Công Uẩn cũng là một khách tình si trước nhan sắc người phụ nữ. Hình tượng vua Ngọa Triều là con quỷ dâm dục, khát máu người như: giết anh để đoạt ngôi, ham mê sắc dục đến điên loạn,‘‘dùng lửa đốt người, lấy dao cứa thịt làm hình phạt’’, bắt người‘‘lột trần tuốt nứa’’, ‘‘róc mía đầu sư’’, ‘‘trầm hà’’người lương thiện v.v... nhưng trước dung nhan trác tuyệt của người thiếu nữ, kẻ độc ác cũng thổ lộ lời yêu:‘‘Ngày nay ái khanh đã biến trẫm thành một người, một người như hết thảy mọi người’’. Hình tượng Trần Thủ Độ trong Chiếc Ngai Vàng với bao kế hiểm sâu. Bề ngoài là một quan võ, lo việc chính triều, nhưng bên trong, Thủ Độ là người nắm quyền vương bá. Việc lập kế kết duyên Lý Chiêu Hoàng với Trần Cảnh là một tấn tuồng để Độ giành ngôi báu về tay nhà Trần. Thủ Độ nói thẳng ra:‘‘Thiên hạ là của chung, ai khôn thì được chẳng phải riêng gì họ Lý!’’. Từng bước, Trần Thủ Độ ép Trần Cảnh phế ngôi Hoàng hậu của Chiêu Hoàng, lập người khác, làm tan vỡ mối tình thiêng liêng của đôi lứa. Câu chuyện Thành bại với anh hùnglà tấn bi hài kịch, giữa hai thế lực vua và chúa, thái tử và thế tử. Thái tử Duy Vĩ, kẻ có quyền hành nhưng thiếu mưu kế và sức mạnh. Thế tử Trịnh Sâm, kẻ chứa chất mưu gian và tham vọng uy quyền, nên trong con người này chất chồng tội ác: vu oan giáo họa, dẫm đạp lên tình yêu và hạnh phúc của người khác, diệt trừ đồng loại không thương tiếc. Đồng hành với cái ác, phải kể đến Quận công Hoàng Ngũ Phúc, một kẻ cơ mưu xiểm nịnh, bề ngoài tỏ ý trung quân, nhưng bên trong ‘‘đổ dầu thêm vào lửa’’ làm cho mối hận thù của thế tử và thái tử thêm cao, tẩy trừ những người trung nghĩa để thuận việc chuyên quyền. Trong Đỉnh non Thần, Ma Vạn Thắng là một tù trưởng, uy quyền được tạo nên từ tội ác với nhiều hành vi đen tối: giết chủ tướng, cướp vợ người, bòn rút sức dân, cuối cùng bị đối phương cắt mất đầu. Có thể thấy, trong hàng ngũ thống trị cũng muôn hình, muôn vẻ từ chân dung, ngôn ngữ đến tính cách, được khắc họa sống động như những con người thực giữa cuộc đời. Nhưng ai sẽ khám phá và biểu hiện được thế giới bên trong của con người, hẳn chỉ có nhà văn - người duy nhất có quyền năng tưởng tượng và hư cấu trong sáng tạo nghệ thuật!

Hình tượng những người anh hùng ở mọi tầng lớp và dân tộc, đó là Lý Công Uẩn (Cái hột mận), Vũ Biều, Vũ Mật, Lan Anh (Ai lên phố Cát), Nguyễn Huệ, Đỗ Quyên (Treo bức chiến bào), Trực, Lê (Chàng đi theo nước), Bàn Tuyết Hận (Đỉnh non Thần) vv... Lý Công Uẩn là một tài danh nhưng cũng là con người nhân ái bao dung và nhậy cảm. Vũ Biều, Vũ Mật xuất thân từ dân nghèo có tài năng và chí lớn, xây thành đắp luỹ, phù Lê chống Mạc để thống nhất giang sơn, được nhân dân tôn kính. Vũ Mật dũng cảm xông pha chiến trận, nhưng cũng là con người có đời sống nội tâm phong phú, trong hoàn cảnh éo le nhất vẫn tận trung với nước, vẫn vẹn tình với người yêu. Bàn Tuyết Hận trong Đỉnh non Thần mưu trí trong chiến đấu, lúc hiểm nghèo vẫn giữ trọn tình mẫu tử. Tình yêu đôi lứa đã giúp họ vượt qua thù nhà để hướng về nợ nước. Tuyết Hận đã lên đường chiến đấu dũng cảm chống Pháp rồi hy sinh. Nhân vật Trực và Lê yêu quê huơng đất nước, thương đồng bào, gan dạ chiến đấu. Khi rơi vào tay giặc, câu nói của Trực đầy chí khí: “Giang sơn Việt Nam gặp phải hồi điên đảo, nhưng tâm hồn người Việt Nam còn mạnh mẽ hăng hái, còn thiết tha muốn sống thì không lo gì”. Hình tượng Lê, một mình vào trại giặc để cứu người nghĩa dũng, cũng nói lên tài trí, lòng dũng cảm vô song của người thanh niên đất Việt. Và như vậy, những hành vi của người anh hùng trong đời sống và lịch sử không sống động trong tâm trí của nhà văn sao có thể trở thành hình tượng người anh hùng trong nghệ thuật? Dưới con mắt của nhà tiểu thuyết lịch sử này, người anh hùng không mang trong mình cái siêu nhiên, kì vĩ mà hoà lẫn với con người thế tục, nhưng trong mình có dòng máu yêu nước. Ở họ có sự hợp nhất giữa cái bình thường và cao cả. Họ chỉ trở thành anh hùng trong những biến thiên lịch sử mà thôi.

Trong tác phẩm của Lan Khai, người phụ nữ anh hùng mang nhiều phẩm chất tốt đẹp và có tính cách riêng. Nhân vật Lan Anh trong Ai lên phố Cát có chí phù Lê đã giả trai làm chàng Vân Trung, thân gái dặm trường tìm gặp anh em Biều Vương để liên kết trừ Mạc. Cuộc tình giữa Lan Anh và Vũ Mật đến tự nhiên rồi trải qua sóng gió. Nguời nữ xông pha trận mạc ấy cũng là một con người đa tình đa cảm, khi yêu mới hiểu rõ ‘‘bản chất đàn bà, hiểu dục tình’’, ‘‘bồi hồi mê ảo’’ và cảm thấy như‘‘người mù chợt thấy ánh sáng’’, khi thất vọng cũng khổ đau giằng xé tâm can. Nhân vật Đỗ Quyên trong Treo bức chiến bào là một thiếu nữ, tài võ nghệ, có chí lớn, vào đất Quảng tìm gặp người anh hùng Nguyễn Huệ. Nàng lập nhiều chiến công được trao gươm báu, giúp Nguyễn Huệ trong lúc nguy nan. Tình yêu trong Đỗ Quyên thức dậy trước người anh hùng Nguyễn Huệ với những cảm xúc trong trắng thơ ngây. Nhưng rồi điều thất vọng bất ngờ đến với nàng, khi chưa kịp ‘‘gần gũi tấc gang’’, Nguyễn Huệ đã kết duyên với công chúa Ngọc Hân, Đỗ Quyên treo bức chiến bào lặng lẽ ra đi mang theo một con tim tê tái. Tưởng nhớ một tài nữ, Nguyễn Huệ đã cho tìm‘‘chàng áo xanh’’ khắp nơi nhưng không gặp.Nàng để lại niềm nuối tiếc khôn nguôi trong lòng người ở lại. Trong con mắt nhà tiểu thuyết, người anh hùng ở đây không chỉ là vị tướng tài ba nơi trận mạc, mà trong mình cũng đầy ắp tâm tư, vui buồn, trắc ẩn, khổ đau và dục vọng đời thường như bao con người khác.

Thế giới nhân vật người phụ nữ trong tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai rất đa dạng từ trong hoàng tộc đến cung nữ, thường dân và dân tộc thiểu số vv... Tuy địa vị, tính cách khác nhau, nhưng họ rất giàu thiên tính nữ. Trong Chiếc ngai vàng, ở vị thế Quốc vương, nhưng LýChiêu Hoàng là một thiếu nữ trong sáng, thơ ngây, yêu Trần Cảnh, vua bà chân thành và khát khao làm vợ, khi kết duyên rồi cũng hồn nhiên nhường ngôi báu cho chồng, mà không chút mảy may biết số phận đã nằm trong tay Trần Thủ Độ. Nhân vật Thái Hậu là một người phụ nữ phú quý đủ đầy, nhưng trong những khoảng khắc cô đơn có người chồng là một đức vua bỏ đi tu, nỗi khát khao trần thế khiến Thái Hậu chủ động ngã vào vòng tay Trần Thủ Độ. Dương Hậu trongCái hột mận, khát tình yêu đã quên đi cái bổn phận vương phi, mê say Lý Công Uẩn. Để thoả dục tình và nỗi hờn ghen với người phụ nữ khác, Hậu không ngần ngại làm những điều phản trắc. Như vậy, trong giàu sang phú quý chưa hẳn con người đã hạnh phúc, một khi dục vọng trần thế vẫn trong vòng cương toả của những lễ nghi hà khắc. Giải phóng con người và bản năng là một nhu cầu tồn tại, là khát vọng chân chính của loài người! Nhà tiểu thuyết muốn nói lên điều đó. Hình tượng Bội Ngọc, một thiếu nữ đẹp, có con mắt tinh đời và một tâm hồn cao cả. Thuỷ chung với Lý Công Uẩn, nàng phải đối mặt với Ngọa Triều, để dẫn tới cái án ‘‘lột trần tuốt nứa’’, cho thấy cái đẹp trên thế gian này không thể tồn tại cùng cái ác. Những trang viết về các cuộc tình cho thấy, đây là một cây bút sớm có cái nhìn mới về vấn đề tính dục, xem đây như một phương diện tự nhiên của đời sống và trong nghệ thuật. Đó cũng là một trong những nhân tố tạo nên những xung đột trong cuộc sống được phản ánh trong nghệ thuật. Nghệ thuật quan tâm về tính dục là đề cập tới một vấn đề có chiều sâu nhân bản được phản ánh trong tiến trình lịch sử nhân loại, mà suốt thời gian dài trong nhiều trang viết của văn học trung đại không ít nhà Nho còn né tránh.

Hình tượng người cung nữ chuyên hầu hạ bá vương và hoàng tộc với công việc nhọc nhằn và nguy hiểm, như người thị nữ của Dương Hậu vì sơ xuất khi tắm cho bà đã bị Hậu dùng xiêm ngọc chọc thủng tay và bị tống giam xuống lãnh cung. Người cung nữ Cẩm Thị Dung, trẻ đẹp, đàn hay, một sơn nữ được tuyển về triều, nhưng ứng sử không hợp lễ, bị vua lăng nhục là‘‘giống Mán Mường ăn cóc chết!’’và khi nàng hỏi lại vua‘‘Mán Mường không có hào kiệt chăng?’’. Lập tức người phụ nữ này rơi vào hình phạt: bàn tay bị đóng đinh vào gốc cây tùng để nhận lệnh chém đầu... Thục Nương, trong Gái thời loạn là một thường dân có nhan sắc, nết na không may rơi vào tay giặc Cờ Đen thành thân phận nô tỳ. Là người thông minh, nàng đã cảm hoá được kẻ thù, khiến tướng giặc Hoàng Thiếu Hoa hối hận nhận ra tôi lỗi của kẻ đi xâm lược. Câu nói vĩnh biệt người đã yêu mình của Thục Nương mang một ý nghĩa sâu sắc:‘‘Hoàng Lang! Vâng, Em yêu chàng lắm! Em thương chàng lắm! Nhưng mà, trời ơi! Trước hết em còn phải là một người con của mẹ, một người dân của nước Nam’’! Tình yêu là điều đáng trân trọng, nhưng Tổ quốc là trên hết, đó dường như là chân lý của con người có Tổ Quốc, được diễn tả qua tiếng nói của một thiếu nữ bình dân càng làm tăng thêm phẩm giá của người phụ nữ Việt Nam.Thân phận thiếu nữ Trăng Hạ Huyền trong Người thù mặt trời rơi vào bi cảnh hung nô tàn sát gia đình quê hương, thân gái bơ vơ bên bờ vực thẳm. Cuộc gặp tình cờ của nàng với Hốt Tất Liệt vị tướng quân đội Nguyên Mông đã nhen lên ngọn lửa thiêng của tình yêu, khiến vị tướng hung nô sám hối, quyết sống thác với tình. Hình tượng Tiên Nhân trongBóng cờ trắng trong sương mù, một phụ nữ dân tộc thiểu số mang tham vọng bá vương, gây bao tội ác với dân lành, nhưng trước một chàng trai nghĩa dũng khôi ngô cũng mềm lòng rồi tha chết cho kẻ thù của mình. Điều đó cho thấy, dường như chỉ có tình yêu con người mới hướng về cái thiện. Lan Khai đã dành nhiều tâm huyết viết về người phụ nữ, cho dù ở địa vị nào, họ đều khao khát tự do, được yêu thương hạnh phúc. Ở họ ý thức về con người trần thế, bản năng luôn vượt thoát con người của cương thường giáo lý và những sợi dây ràng buộc vô hình. Đó là điểm khác biệt về nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử của ông với nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử của các nhà văn khác. Việc đào sâu vào khát vọng trần thế của con người cho thấy, ý thức người cầm bút đã tiến công vào thành trì lễ giáo phong kiến, những trở lực ngàn năm còn tồn tại. Mặt khác việc tái tạo các chi tiết éo le của đời sống cũng tạo nên sức lôi cuốn cho bạn đọc của nhà tiểu thuyết lịch sử này. Cuộc tình giữa Lí Công Uẩn và Bội Ngọc; giữa Lan Anh và Vũ Mật, giữa Nguyễn Huệ với Đỗ Quyên; giữa Nhạn Nhi và Tuyết Hận… đều thấm đẫm phong ba bão táp. Các xung đột giữa con người với con người về quyền lợi và dục vọng để dẫn đến những bi kịch trong tiểu thuyết lịch sử cũng được Lan Khai quan tâm khám phá, để người đọc soi vào cái bi của thời đại mình. Do vậy, ngoài những ý nghĩa thẩm mĩ nghệ thuật, tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai còn thu hút độc giả ở những giá trị nhân sinh.

Trong tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai còn xuất hiện hình tượng các nhân vật quần chúng như sóng nước. Mặc dù nhà văn không mô tả tường tận tính danh, nhưng mỗi lần họ xuất hiện đều gắn liền với sức mạnh và những biến cố lớn lao của lịch sử. Trong Cái hột mận, khi vua Ngọa Triều bị lật đổ: ‘‘Nhân dân thắp đèn đốt đuốc kéo nhau đi chào đón đội quân chiến thắng... Hết thảy đều hát to những khúc hát hùng hồn, reo hô vạn tuế!” Hay việc nhân dân kính trọng tài đức của Vũ Biều (Ai lên phố Cát) rồi tôn vinh ông làm Chúa Bầu cũng đều nói lên quan niệm “làm lật thuyền mới biết dân như nước”. Điều đó càng làm rõ hơn cái nhìn khách quan về lịch sử: Vận nước ở lòng dân (bài Từ Đền Hạ).

Tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai, để lại những bức tranh về kẻ cướp nước và bán nước, đó là giặc phương Bắc và thực dân Pháp. Đáng chú ý là tội ác của quân giặc Cờ Đen: Nhân vật Lày Sập Trưởng trong Gái thời loạn hiện nguyên hình là một kẻ khát máu người: “Tung đứa trẻ lên nóc nhà đoạn đưa mũi gươm ra đón”, hay hành động chôn sống dân lành, chém đầu người vô tội… Tên giặc Cờ Đen trong Trong cơn binh lửa lấy dùi nung đỏ đốt người lương thiện làm trò vui cho đồng bọn v.v... Hình tượng hai tướng Ả Dúc và Woòng Tsi trong Chàng đi theo nước là những tên cướp nhà nghề ham tửu sắc, kiêu căng và hiểm độc. Khi chúng xuất hiện: “Đàn bà, trẻ nít, người gọi con, kẻ khóc mẹ, tan tác như gà thấy quạ” v.v… Nhưng trong hàng ngũ quân xâm lược, vẫn còn kẻ có tính người, là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa. Nhân vật Hoàng Thiếu Hoa trong Gái thời loạn trước cái đẹp và cái thiện đã thức tỉnh nhân tâm, nhận ra tội các của đội quân xâm lược và tự sát. Còn những tên tay sai bán nước, gây tội ác với dân lành như ba mẹ con Chánh Ú, kết cục số phận chúng đều đi đến cái chết nhục nhã. Hình tượng quân xâm lược và tay sai, dưới ngòi bút của Lan Khai là bóng tối của lịch sử, nơi diễn ra những bi kịch của sự sống. Chỉ có tình yêu đôi lứa và lòng yêu Tổ quốc trong mỗi con người là ngọn lửa không bao giờ tắt.

Bên cạnh những câu chuyện lấy đề tài từ chính sử, những trang dã sử tiểu thuyết của Lan Khai đã góp phần mở rộng thêm biên độ để người viết tự do sáng tạo. Phần đông các nhân vật trong tiểu thuyết dã sử của ông là hư cấu như: Tiên Nhân (Bóng cờ trắng trong sương mù), Thục Nương (Gái thời loạn), Trăng Hạ Huyền (Người thù mặt trời), Trực, Lê (Chàng đi theo nước), Ma Vạn Thắng, Nhạn Nhi, Yến Xuân, Bàn Tuyết Hận (Đỉnh Non Thần)… nhưng được lồng ghép khéo léo với thời gian và không gian lịch sử, nhà văn có cơ hội mô tả nhiều bình diện về tâm lý và tính cách con người hơn cái ‘‘khuôn mẫu’’nhân vật trong chính sử, tạo cho bạn đọc thêm cảm nhận về sự gần gũi của họ với những con người trong truyện đường rừngvà truyện cổ dân gian. Tính tổng hoà xã hội của con người trong dã sử cao hơn con người trong chính sử, nhờ những yếu tố thế sự và đời tư, phép “lạ hóa” được người viết chuyển vào lịch sử một cách linh hoạt để trang sách và đời sống gần gũi nhau hơn. Chẳng hạn tên tướng giặc Cờ Đen Lày Sập Trưởng (Gái thời loạn), được mô tả qua phát âm ngọng của y về Tiếng Việt khi hắn tra khảo dân lành, tạo ấn tượng khôi hài về bộ mặt kẻ xâm lược:‘‘Tìn tâu? Tao pắn chít pây giờ!’’ (Tiền đâu? Tao bắn chết bây giờ!). Ngoài ra những thủ pháp truyện lồng trong truyện cũng được Lan Khai sử dụng để tăng thêm sức hấp dẫn cho chính chuyện. Chẳng hạn như câu chuyện Chử Lầu trong truyền thuyết được lồng trong câu chuyện Bóng cờ trắng trong sương mù để tăng thêm cái kì ảo cho sự kiện bạo loạn ở vùng núi của một tộc người Mông. Câu chuyện Chất Khươi truyền thuyết của người Tày được lồng vào câu chuyện Đỉnh Non Thần để làm tăng thêm cảm xúc về sức mạnh của tình yêu giữa Nhạn Nhi và Tuyết Hận. Việc khám phá đúng tâm trạng nhân vật và đặt câu chuyện vào tình huống cần thiết sẽ tạo cho bức tranh hiện thực sống động hơn.

* *
Tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai ra đời trong trào lưu cách tân tiểu thuyết đáp ứng nhu cầu tiếp nhận đa chiều của bạn đọc. Con người trong tiểu thuyết của ông không‘‘trùng khít’’ với nhân vật lịch sử. Nhà văn đã tước đi những yếu tố ước lệ, các điển tích, điển cố, những ‘‘khuôn mẫu’’ trong văn chương trung đại và những trang viết của các nhà Nho đầu đầu thế kỉ XX, thay vào đó là con người mang trong mình ‘‘cái hay cái dở’’ của cuộc đời. Việc thoát ra kiểu kết cấu chương hồi, tạo tiếng nói đa thanh phức điệu, kết hợp hoà trộn linh hoạt các yêú tố sử thi, thế sự, đời tư, kỳ ảo, tâm lí, lạ hóa, khéo sử dụng cái hài cùng các chất liệu dân gian là những cách làm mới tiểu thuyết của Lan Khai. Mặc dù có những điểm hạn chế về sự cách tân “táo bạo”, có chỗ nhà văn đã “cho nhân vật nói tiếng nói của chàng và nàng ở thế kỉ XX”, song nhìn chung sáng tác của Lan Khai đã thể hiện cái nhìn mới về bản chất con người xã hội, gắn với các sự kiện tiêu biểu trong từng triều đại hoặc ở mỗi địa phương để tạo nên cốt truỵện. Số lượng nhân vật trong mỗi tác phẩm không nhiều, nhưng chi tiết gây ấn tượng ở việc dựng cảnh dựng người, tạo tình huống bất ngờ cùng với lời thuật linh hoạt, kể chuyện xen miêu tả, dùng từ ngữ mang dấu ấn lịch sử, phép lạ hoá, dùng biệt ngữ và địa danh, kết hợp tư liệu lịch triều và dã sử tạo nên các bức tranh nghệ thuật nhiều màu sắc. Tất cả làm nổi lên bức chân dung rõ nét của một nhà tiểu thuyết lịch sử sáu thập niên về trước, một trong những cây bút đi tiên phong trên hành trình cách tân tiểu thuyết. Và như vậy, dường như sự còn mất về tên tuổi của một nhà văn mỗi thời đại văn học là ở hướng đi riêng.

________________________________________
[1]Phạm Thế Ngũ. Việt Nam van học sử giản ước tân biên, tập 3 XB tại Sài gòn 1965, tr 544

Nhà thơ Trần Đăng Khoa nói gì về nông thôn bây giờ...

Mươi năm về trước, Trần Đăng Khoa có những nhận định khiến tôi ám ảnh mãi. Đó là những câu đầu trong tiểu phẩm có tên là Nông dân: “Nông dân thời nào cũng rất khổ. Hình như họ sinh ra để khổ. Có cho sướng cũng không sướng được. Có phủ lên vai họ tấm áo bào lộng lẫy của vua thì họ cũng không thể thành được ông vua. Họ có sức chịu đựng gian khổ đến vô tận. Nhưng mất hoàn toàn thói quen để làm một người sung sướng. Thế mới khổ.

Họ khổ đến mức không còn biết là mình khổ nữa. Người nông dân ta dường như không có thói quen so sánh mình với người dân ở các nước tiên tiến, cũng như người dân đô thị. Họ chỉ so mình với chính mình thời tăm tối thôi. Và thế là thấy sướng quá”.
“Nông dân thời nào cũng rất khổ”, câu nói đó thực xót xa. Nhưng, có đôi lúc, tôi hy vọng đó là nhận định nhất thời của vị thần đồng một thủa. Tôi đem chuyện ấy gợi lại với tác giả Hạt gạo làng ta, ông trầm ngâm một hồi rồi tâm sự:

- Khoảng mấy chục năm nay, tôi sống ở thành phố nhưng mọi mối quan hệ vẫn ở làng quê. Bố mẹ tôi ngoài 90 tuổi rồi vẫn đang sống ở quê. Các cụ không chịu ra thành phố. Cụ bà bảo, “cái dân phố xá nó không có tình cảm. Nhà bên này có tang, nhà bên cạnh lại mở nhạc xập xình. Thế thì sống chung với họ sao được hở giời!”. Tháng nào tôi cũng về quê và cũng nhờ thế mà thấu hiểu được người nông dân. Tôi vẫn thấy “nông dân thời nào cũng rất khổ”. Điều đó cho đến nay vẫn là một vấn đề thời sự.
Theo tôi, muốn đánh giá hiệu quả của công cuộc đổi mới đất nước thì phải nhìn vào chất lượng đời sống của những người nghèo nhất xã hội là nông dân. Nếu người nông dân không thay đổi được số phận mình thì công cuộc đổi mới của chúng ta vẫn chưa đạt được hiệu quả đích thực. Ở thành phố, hiện nhiều người giàu lên, có anh là tỉ phú và cũng có cả anh là trọc phú. Nhưng người nông dân thì nói chung là vẫn không giàu. Theo tôi, hiện nay nước ta có đến 90% nông dân. Tôi nhìn đâu cũng thấy nông dân cả. Nông dân cày cuốc, nông dân kinh doanh, nông dân làm quản lý, thậm chí có những nông dân ở những cấp cao. Có nhiều anh rất trang trọng, nhưng nhìn cung cách ứng xử của họ thì lại thấy hiện nguyên hình một anh nông dân quê mùa.

Nhìn vào các làng quê, nhất là vùng sâu, vùng xa, vẫn không ít những nông dân còn trong cảnh bần cùng. Phần lớn những người này đang bám đồng ruộng. Không thể phủ nhận là hiện nay đời sống nói chung của chúng ta là có khởi sắc, nhưng cũng còn rất nhiều vấn đề nan giải. Cái nan giải nhất hiện nay là nông dân mất đất.

Trọn đời, Cụ Hồ chỉ có một mong muốn, “mong muốn tột bậc là ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Cụ đã làm hết sức mình để “người cày có ruộng”. Bây giờ người cày lại đang mất ruộng. Ở một số vùng nông thôn ven đường lớn, hay ven đô thị, bị thu hồi đất rất nhiều để làm khu công nghiệp, cả khu vui chơi giải trí mà ta quen gọi là du lịch sinh thái. Đã thế, người nông dân còn bán đất hương hỏa đi. Họ bán với giá rất rẻ. Anh phố thị nào cũng muốn có cái nhà nghỉ hay trang trại ở quê. Chỉ bỏ ra chừng non tỉ bạc là đã có thể có cả nghìn mét vuông đất quê. Người phố đổ về quê để được sống. Còn anh nhà quê thì lại phải nhao về thành phố để kiếm sống.

Nhà thơ Trần Nhuận Minh có bài thơ viết về thảm cảnh này của người nông dân chỉ có bốn câu, mà lần nào nhớ đến, tôi cũng bị ám ảnh: “Những nông dân không còn ruộng đất - Táp về thành phố - Bán mình trong các chợ người - Định nói một điều - Nhưng rồi tôi im lặng”. Cái im lặng của nhà thơ, chúng ta có thể hiểu được. Đấy là một bộ phận. Còn một bộ phận khác may mắn hơn, có nhà, có đất, có việc làm, có chức vụ. Anh nhà quê ra phố, mang cả những luộm thuộm, nhơm nhếch của làng quê đi “khai hoá” thành phố. Còn anh thành phố thì lại mang xi măng sắt thép về bê tông hóa làng quê. Thế là tất cả nháo nhào. Rốt cuộc là hỏng ráo cả.

Hiện nay, chúng ta đang quan tâm rất nhiều tới việc quy hoạch đô thị, có nhiều chiến lược, kế sách. Nhưng thử hỏi chúng ta có được bao nhiêu công trình, đề tài, bao nhiêu tâm huyết của lãnh đạo quan tâm tới nông thôn? Cho nên, tôi có cảm giác nông thôn hiện nay phát triển mang tính tự phát. Nhơm nhếch và hoang dại một cách rất hiện đại.

Nhà văn hóa lớn Hữu Ngọc có nhiều năm hoạt động trong Quỹ Văn hóa Việt Nam - Thụy Điển. Ông quan tâm nhiều tới những ngôi nhà mang đặc tính thôn quê, để rồi tìm cách tài trợ, phục dựng những ngôi nhà đó. Và rồi, khi đi khảo sát, ông phát hiện ra rằng, chỉ còn một nơi giữ được, là làng Đường Lâm (Hà Nội). Nhưng Đường Lâm giữ lại được không hẳn vì người dân có ý thức, mà vì đó là vùng quê rất nghèo, chẳng có nghề gì ngoài nghề tráng bánh đa và kẹo kéo. Nghề kẹo kéo, bánh đa thì không thể phá làng được. Và ông Hữu Ngọc có kết luận rất đau xót thế này: “May mà cái nghèo đói đã cứu được cả một mảng văn hóa đang bị hủy diệt”.
- Ây dà dà...
- Tôi xin nhấn lại rằng, nguy nan nhất ở nông thôn hiện nay là mất đất. Công nghiệp hóa thì rất tốt. Tôi cho đó là chủ trương rất đúng nhưng chúng ta phải tính xem thế nào.Tại sao không lấy những vùng đồi, vùng đất cằn không phát triển được nông nghiệp để xây dựng khu công nghiệp, mà cứ lấy khu “bờ xôi ruộng mật”? Bây giờ, cứ thử đi từ Hà Nội về Hải Phòng mà xem, những cánh đồng thẳng cánh cò bay cũng đã “bay” hết rồi.

- Việc đưa các khu công nghiệp, nhà máy lên vùng đồi, tránh xa vùng “bời xôi ruộng mật”, có thể nói ai cũng nhận ra, cũng nhiều người kiến nghị rồi nhưng tại sao chúng ta vẫn không làm được. Ông lý giải thế nào về vấn đề này?

- Nhiều người đều nhận ra mà rồi điều đáng tiếc vẫn cứ xảy ra. Nếu tôi nhớ không nhầm thì người đầu tiên đặt ra vấn đề này thẳng thắn trên báo chí là nhà thơ Trần Nhuận Minh, lúc đó là đại diện báo Tiền Phong tại Quảng Ninh, trò chuyện với ông Hà Văn Hiền, lúc đó là Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh. Bài đã đăng trang đầu tạp chí Văn Nghệ Quân Đội từ thập niên 90 của thế kỉ trước, khi đó, các Khu công nghiệp còn chưa nhiều. Nội dung bài báo đó, còn được Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội dàn dựng với nhiều cảnh quay rất có sức thuyết phục, nhưng hình như những người có trách nhiệm chả mấy ai nghe.

Ông Hiền nhiều năm nay là Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội. Nếu ông quan tâm hơn, tiếng nói của ông sẽ có trọng lượng về vấn đề này. Còn vì sao có hiện trạng nông dân mất đất ư? Có gì đâu. Vì ở đó tiện đường, dễ làm, dễ xây dựng cơ sở hạ tầng. Mấy cái “dễ” ấy làm họ giảm được một nửa tiền đầu tư. Vì thế mà họ ép những người có trách nhiệm. Có rất nhiều cách ép. Và khi khu công nghiệp vào vận hành, lại thuận lợi về vận tải và tiện cho việc quảng bá sản phẩm mà lại giảm được đầu vào, hạ được giá thành để tăng lợi nhuận.

Đối với nhà sản xuất, đấy là vấn đề sống còn của họ, nên họ làm bằng được, và có nhiều biện pháp để làm, trong khi ta cứ nhân nhượng rồi lại nhân nhượng. Họ lại còn có nhiều sức ép và cách ép rất hiệu quả để thực hiện bằng được ý muốn. Cuối cùng ta mất đất màu cho họ, cũng là điều dễ hiểu. Mà đất trồng lúa, phải qua hàng ngàn năm canh tác mới tạo ra được.

Gần đây, trong buổi phát biểu góp ý cho văn kiện Đại hội Đảng, tôi đã nói một ý: “Chúng ta phải chọn và tìm được người lãnh đạo có tầm nhìn xa, tầm nhìn vượt nhiệm kỳ. Còn nếu tầm nhìn chỉ ở một hoặc hai nhiệm kỳ thì chúng ta chỉ giải quyết được những vấn đề trước mắt, mang tính vụ lợi cho một người hoặc một nhóm người rồi hết nhiệm kỳ thì hạ cánh an toàn, còn mọi hậu quả, con cháu gánh chịu”.

- Tức là vấn đề mấu chốt vẫn là người lãnh đạo?

- Đúng vậy! Chúng ta cần những người có tầm nhìn 20, 50 năm, thậm chí là cả trăm năm để mà giải quyết vấn đề trước mắt về nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Tôi đi các nước thì thấy rằng, giữa nông thôn và thành phố không khác xa bao nhiêu. Thậm chí không phát hiện được đó là làng quê, nếu không có tiếng gà gáy. Quy hoạch của họ rất tốt, họ rất quan tâm tới nông thôn, nông dân. Còn chúng ta thì thiếu cái đó.
Số phận người nông dân, có thể bị đẩy vào thảm kịch là vì vậy. Thậm chí có cả những thảm kịch nhìn bên ngoài không thể thấy được. Cái giàu của nông dân là cái giàu giả. Trước mắt, anh bán được ít đất, có thể mua được xe máy, thậm chí có người còn tậu được cả ô tô. Nhưng ô tô, xe máy để làm gì? Trong khi trong nhà rỗng tuếch và con cái không có tiền ăn học. Đấy là những lạc quan bi kịch mà hậu quả thì rất khó lường. Làng quê đã vỡ...

- Làng vỡ? Tôi nhớ, đã lâu lắm, có lẽ chừng 15 năm trước, ông viết một tiểu phẩm ngắn có tên là Vỡ làng. Trong đó, ông chỉ kể những câu chuyện vui thôi nhưng ngẫm ra không thiếu những giọt nước mắt đau xót...

- Đúng vậy! Bây giờ chuyện ấy vẫn là vấn đề nan giải. Cũng may, nhờ kết quả của công cuộc đổi mới, nhiều vẻ đẹp của phong tục cũ đã được khôi phục. Nhưng rồi cũng có người lại lợi dụng sự thông thoáng đó để trục lợi. Ví dụ như việc xây chùa chiền, đền miếu chẳng hạn. Bên cạnh ngôi chùa lớn, thấy có nhiều khách hành hương. Thế là người ta “cấy” thêm rất nhiều ngôi chùa bên cạnh để thu công đức. Cái đó lại không ổn rồi. Nó làm băng hoại văn hóa. Đâu phải tâm linh. Ngay trong văn hóa tâm linh ở làng quê cũng đang vỡ. Nhìn ở góc độ người làm văn hóa, tôi cho rằng điều đó hiện nay cũng rất đáng quan ngại.

- Hồi bé, ông viết câu thơ: “Hạt gạo làng ta/ Gửi ra tiền tuyến”. Gửi gạo ra tiền tuyến, là để nuôi quân đánh giặc, giành lại giang sơn. Bây giờ, không còn giặc ngoại xâm nữa thì hạt gạo làng ta “gửi” ra thế giới, nuôi cả một phần nhân loại nhưng như ông nói thì chính người làm ra hạt gạo còn nghèo quá, nhiều vùng còn đói nữa. Cái nghịch lý này sao tồn tại dai dẳng vậy, thưa nhà thơ Hạt gạo làng ta?
Hiện nay, đúng là chúng ta xuất khẩu gạo đứng thứ nhì thế giới thật. Rồi có thể chúng ta sẽ đứng đầu thế giới về xuất khẩu mồ hôi nước mắt. Nhưng như thế không có nghĩa là đời sống người nông dân chúng ta giàu nhất nhì thế giới. Bởi làm ra hạt gạo khổ lắm. Mà giá gạo lại rất rẻ. Một tấn thóc bây giờ nếu quy ra tiền thì đáng bao nhiêu đâu.

Tôi xem ti-vi, ở khu ngoại thành Hà Nội, có một chị nông dân, cả một vụ mùa đầu tắt mặt tối, trừ chi phí tất cả chỉ còn lãi được có 500.000 đồng. Năm trăm nghìn đó thì làm được gì? Sao nuôi con ăn học được? Rồi còn việc ma chay, giỗ tết và trăm thứ ở làng nữa, chị nông dân ấy trông vào đâu?

Chúng ta xuất khẩu gạo, nhưng cũng cần nghĩ đến việc đầu tư trí tuệ vào gạo. Ví như sản xuất được một loại gạo có khả năng chống béo phì, một căn bệnh mà thế giới rất sợ hãi chẳng hạn. Chỉ có thế, hạt gạo của chúng ta mới đắt giá. Và như thế, có thể nói rằng, chỉ khi nào chúng ta xuất khẩu được trí tuệ thì Việt Nam mới thật sự cất cánh. Một sản phẩm công nghệ của trí tuệ chỉ vài lạng thôi nhưng có khi bằng cả chục tấn thóc gạo của người nông dân chân lấm tay bùn. Nhưng nói gì thì nói, chúng ta cũng không thể bỏ cây lúa được. Điều quan trọng là chúng ta làm thế nào để đời sống của người nông dân giàu lên?

Vai trò của người nông dân rất quan trọng. Hãy cứ xem trong cuộc kháng chiến, con em ai hy sinh nhiều nhất? Xin trả lời ngay đó là con em nông dân. Bây giờ, vẫn còn hàng vạn con em nông dân nằm dưới lòng đất mà không tìm thấy hài cốt. Cho nên, chúng ta phải nghĩ ra cách nào đó để người nông dân có thể sướng được, làm giàu được thì sự hy sinh ấy mới có ý nghĩa. Làm sao để họ có thể sống được, sống đàng hoàng trên chính mảnh đất của mình. Về vấn đề này, Lênin nói rất hay: “Hãy để người nông dân nghĩ trên luống cày”. Tôi nghĩ cái đó rất đúng. Chính luống cày sẽ dạy cho họ cách sống và cách làm giàu như thế nào.

- Nói về nông dân, nông thôn như vậy, nếu ai đó nói rằng Trần Đăng Khoa bi quan quá, ông nghĩ sao?

- Tôi không phải người bi quan cũng không phải là người lạc quan. Tôi chỉ nhìn thẳng vào sự thật, điều mà Đại hội VI của Đảng đã dạy tôi.

- Nếu mượn lời của một tiến sĩ có danh phận để “nói lại” với ông rằng, một bộ phận nông dân không nhỏ của chúng ta còn lười nên dẫn đến nghèo khó, ý kiến ông ra sao?

- Tất nhiên cũng có người nghèo vì lười. Nhưng nông dân mình tuyệt đại bộ phận không lười đâu. Nếu ai đó nói người nông dân mình lười, tôi phản bác ngay. Nhưng chỉ có điều, họ đổ mồ hôi rất nhiều mà hiệu quả lại rất thấp. Vấn đề là ở đó. Và ở chỗ này, người nông dân không tự lo cho mình được, vì thế mới cần đến các nhà khoa học, các nhà lãnh đạo, quản lý….

- Thưa ông, giả dụ bây giờ đặt ông vào vị trí lãnh đạo một địa phương, ông sẽ làm gì để người nông dân mình bớt khổ?

- Tất nhiên điều đó không bao giờ xảy ra (cười). Chúng ta không nên bàn chuyện ở trên mây. Tuy nhiên, những đấng cứu thế có khi vẫn đang nằm ở trong dân. Chúng ta đã từng có một Kim Ngọc đó thôi. Vấn đề làm sao để cho đời lại xuất hiện những Kim Ngọc mà không bị “đứt gánh”...

- Thưa ông, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách đối với nông nghiệp, nông dân và nông thôn, ông đánh giá thế nào về những chương trình đó?

- Phải nói ngay rằng, những chính sách đó rất hay nhưng sòng phẳng mà nói, nó chỉ giải quyết được những vấn đề nhất thời. Cái chúng ta quan tâm lớn hơn thế và cái mà chúng ta cần đạt được cũng phải lớn hơn thế…

- Còn trong văn học thì sao? Thực tế chứng minh rằng, những tác phẩm hay nhất, thăng hoa nhất là những tác phẩm về nông thôn, thân phận người nông dân. Nhưng gần đây, nói theo một nhà văn có tên tuổi, thì chính các nhà văn nhà thơ cũng đang rời xa nông thôn mà đang chạy theo vuốt ve thành thị. Là một nhà thơ, ông thấy nhận xét ấy thế nào?

- Ở đây tôi, một lần nữa phải cảm ơn tới Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn đã có sáng kiến ở tầm vĩ mô về cuộc vận động sáng tác về đề tài “tam nông” vừa qua. Sau việc tôn vinh những tác phẩm âm nhạc đặc sắc về nông nghiệp, nông dân và nông thôn là mảng văn học.

Theo tôi, những sáng tác hay nhất của chúng ta vừa qua vẫn là về đề tài nông thôn. Người đầu tiên viết hay về nông thôn phải nói đến các cụ Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Phạm Duy Tốn, rồi đến Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Bính… Sau này là Nguyễn Kiên, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Đào Vũ, Ngô Ngọc Bội, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường, Trần Nhuận Minh, Nguyễn Hữu Nhàn… và gần đây nhất trong giới trẻ là Nguyễn Ngọc Tư…

Đến bây giờ, tôi vẫn cho rằng, đề tài nông thôn không hề kém hấp dẫn. Đấy vẫn là mảnh đất màu mỡ. Hy vọng ở đó, chúng ta sẽ có những tác phẩm lớn. Nông thôn vẫn gắn bó xương cốt với người viết, là vùng người viết thông thạo hơn cả. Trở về vùng đất màu mỡ ấy, hy vọng chúng ta mới có được những vụ mùa văn chương.

Còn có ý kiến cho rằng, văn sĩ quay lưng với nông thôn, vuốt ve thành thị thì tôi cho rằng cái đó không hẳn đâu. Tôi không tin như thế. Còn việc nhà văn sống ở đâu thì không quan trọng. Cái quan trọng là người đó có am tường nông thôn không và họ đã viết như thế nào. Tất cả những gì đã có, dù ít dù nhiều cũng cho chúng ta niềm hy vọng. Có phải thế không?

MAI XUÂN NGHIÊN (THỰC HIỆN)_____________________________________________