Thứ Ba, 26 tháng 4, 2011

Thơ Lưu Quang Vũ, “Tâm hồn anh dằn vặt cuộc đời anh...”

Lê Hồ Quang

1. Lưu Quang Vũ thuộc thế hệ các nhà thơ chống Mỹ. Đó là nền thơ mang âm hưởng hào hùng của cảm hứng sử thi và chủ nghĩa anh hùng Cách mạng. Tuy nhiên, ông đã sớm bứt khỏi từ trường của “dàn đồng ca thế hệ” để xác lập một giọng thơ riêng với nhiều trở trăn, khắc khoải về nhân sinh, thế sự. Sự chuyển đổi trong tư duy và cảm hứng nghệ thuật này thể hiện rất rõ trong các sáng tác của ông từ 1970 trở đi.

Trước hết, cần nói ngay rằng cảm hứng thế sự, đời tư là loại cảm hứng mô tả đời sống nhằm mục đích nhận thức nó trong tất cả các trạng thái nhân thế phức tạp vốn có. Cảm hứng sáng tạo này gắn liền với ý thức trách nhiệm đạo đức – xã hội, với tinh thần “nhập thế” tích cực của người nghệ sĩ. Cảm hứng thế sự, đời tư thường trỗi dậy mạnh mẽ khi con người phải đối mặt với một hiện thực “méo mó, bất toàn”, do đó, nó thường đi cùng tinh thần phê phán trên cơ sở ý thức hướng tới một môi trường xã hội nhân văn, tiến bộ. Với khao khát “nhìn thẳng vào sự thật”, “nói rõ sự thật”, nhà thơ trực diện hướng ngòi bút vào các chủ đề xã hội, đặt lên hàng đầu những suy nghĩ và chủ kiến cá nhân để phản ánh, lí giải hiện thực một cách triệt để. Đi cùng với một ý thức trách nhiệm đạo đức – công dân, một thái độ, một lí tưởng xã hội mạnh mẽ, tích cực, họ cũng khẳng định mình trong tư cách “con người đời thường”, với tất cả mọi biểu hiện chân thực, nhân bản.

Do hoàn cảnh lịch sử - chính trị có tính đặc thù, văn học Cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 chủ yếu bị/được chi phối bởi cảm hứng sử thi. Vào quãng cuối thập kỉ 70, đầu thập kỉ 80, cảm hứng thế sự, đời tư mới chỉ xuất hiện rải rác trong sáng tác của một số tác giả và chịu sự phê phán khá nặng nề của dư luận. Nó chỉ thực sự trỗi dậy mạnh mẽ trong văn học Việt Nam vào quãng giữa những năm 80, được bảo chứng và hậu thuẫn bởi tư tưởng dân chủ và Đổi mới của xã hội và những quan niệm nhân sinh – thẩm mĩ tiến bộ, cởi mở. Đặt thơ Lưu Quang Vũ trên nền bối cảnh đó, tôi muốn nhấn mạnh ý nghĩa của sự đổi mới tích cực và sớm sủa trong ý thức sáng tạo của ngòi bút này. Thơ ông, ngay từ giai đoạn 1970 - 1972 đã thể hiện một nhận thức rất mới, rất táo bạo về những “chủ đề lớn” của thời đại như chiến tranh, Tổ quốc, Nhân dân... Đời sống cá nhân và tình yêu, từ những trải nghiệm riêng tư của nhà thơ, cũng được nhìn nhận và lí giải theo một cách rất khác so với nhiều tác giả cùng thế hệ. (Dĩ nhiên, điều này cần được cắt nghĩa từ nhiều nguyên nhân).

2. Hãy bắt đầu từ cái nhìn mang tính “phi sử thi” của tác giả này về chiến tranh, đất nước và dân tộc. Thực ra, trong các sáng tác đầu tay của ông, âm hưởng sử thi của thời đại “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố Hữu) vẫn rất đậm nét. Chi phối thơ ông thời kỳ này là cái nhìn lạc quan, trong trẻo, chất chứa một niềm tin “sâu thẳm” về cuộc đời: Ta đi giữ nước yêu thương lắm/ Mỗi xóm thôn qua mỗi nghĩa tình (Gửi tới các anh); Ôi tâm hồn thẳm sâu/ Là những ngày đánh giặc (Chiều)... Cuộc sống chiến đấu được cảm nhận qua con mắt nhà thơ trẻ đầy thi vị, với những đêm “hành quân qua phố huyện”, với “hương đất hương cây bồi hồi”, với“đường làng có hương rơm hương cỏ”, và “thôn xóm đôi bờ xanh biếc”... Nhưng chỉ vài năm sau đó, cái nhìn về chiến tranh trong thơ ông đã khác hẳn. Đấy là một cái nhìn trực diện, chân thực và đau đớn. Viết về chiến tranh, nhà thơ không chỉ nhằm mục đích ca ngợi hay lên án. Ông tìm cách lí giải nó từ trải nghiệm của chính ông – một nhà thơ, một người lính. Chiến tranh, trước hết gắn liền với chết chóc và bi kịch. Hình tượng chiến tranh được dựng lên trong Khâm Thiên, Ghi vội một đêm 1972, Cơn bão, Những đứa trẻ buồn, Hồ sơ mùa hạ 1972... là “tiếng trẻ gào dưới tầng nhà đổ sập”, là “mùi thịt cháy rợn mình”, là “bãi thây người”, là “những chiến hào máu đẫm”, là “những xác chết cháy đen”, là “những phố làng đổ sụp”... Nhận thức về chiến tranh trước hết là nhận thức về nỗi đau thương tột cùng mà dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam phải gánh chịu. Nhận thức về chiến tranh còn là nhận thức về tội ác man rợ của kẻ thù. Nhưng hơn thế, nó còn được nhận thức như một sức mạnh tàn bạo của cái Ác, của sự Thù hận. Nhà thơ mô tả chiến tranh như một cỗ máy hủy diệt kinh rợn, và bị cuốn theo guồng quay của nó, nhân tính, tình yêu, hạnh phúc, cái đẹp... tất thảy đều bị nghiền nát. Chính vì vậy, trong Khâm Thiên, trong nỗi đau nghẹn uất, ông viết:

Nhân danh cuộc sống, nói về cái chết
Nhân danh niềm vui, nói về nước mắt
Nhân danh tình yêu, tôi mãi mãi căm thù

Càng đi sâu vào cuộc chiến, như những “viên đạn/ xoáy trong cuộc chiến tranh dài”, phải chứng kiến nhiều hơn những cảnh tượng giết chóc kinh hoàng, đẫm máu, thế hệ những người lính ấy không còn đủ vô tư để ca hát “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” (Phạm Tiến Duật). Đó là một thế hệ bầm dập bởi chiến tranh và đã mất đi những ảo tưởng ngây thơ về cuộc chiến. Họ đầy đớn đau, dằn vặt, trăn trở:

Ai bảo chúng tôi là tuổi trẻ tươi xanh
Với mũi lê, với phát đạn đầu tiên
Chúng tôi đã không còn trẻ nữa
(Cơn bão)

Nhà thơ là chứng nhân trung thành và khổ đau của lịch sử. Từ nỗi đau cá nhân để hiểu về nỗi đau dân tộc, nỗi đau của đồng loại, nhiều câu thơ của ông thấm vị bi đát: Chúng ta còn lại gì sau cuộc chiến tranh? Một tuổi trẻ sớm tàn/ Một đôi môi sớm tắt (Những đám mây ban sớm). Ông nhận ra cái giá khủng khiếp mà dân tộc đã phải trả để có thể đi đến cái đích cuối cùng:

Nhưng mãi mãi chẳng bao giờ sống dậy
Những tháng năm đã mất
Những nhịp cầu gẫy gục
Những toa tàu đã sụp đổ tan hoang
(Những đứa trẻ buồn)

Có thể nhận thấy rõ sự chuyển đổi từ tư duy sử thi sang tư duy thế sự, đời tư trong cách khai thác đề tài chiến tranh của Lưu Quang Vũ. Ở đây, ông không nhìn nhận vấn đề trên lập trường chính trị mà nhìn nhận và lí giải trên lập trường nhân tính, trên tinh thần nhân loại. Trong cái nhìn này, chiến tranh luôn mang gương mặt đau đớn của con người.

Cảm hứng lịch sử - dân tộc là một cảm hứng lớn của thời kì thơ chống Mỹ và cũng là một cảm hứng chủ đạo trong thơ Lưu Quang Vũ. Nhưng từ cảm hứng sử thi đầy hào sảng của thời đại đến quan niệm riêng của Lưu Quang Vũ là một quá trình nhận thức và biến đổi. Dân tộc Việt trong nhận thức của ông là một dân tộc nghèo đói và đau thương bởi chiến tranh, bởi sự thù hận và bởi những thế lực hung hiểm, bạo tàn. Sự đau thương này không chỉ được mô tả như một nét đối lập để tạo nên ấn tượng sử thi, theo kiểu: Đất nghèo nuôi những anh hùng/ Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên (Nguyễn Đình Thi) hoặc: Ôi Việt Nam tổ quốc thương yêu/ Trong khổ đau người đẹp hơn nhiều (Tố Hữu). Đấy là một thức nhận đau đớn và “rách xé”, bởi nó là kết quả của một cái nhìn “phản biện” lịch sử rạch ròi đến nghiệt ngã, đến đau xót. Nhà thơ khái quát hóa nỗi đau thương ấy thành một biểu tượng ám ảnh:

Đất tả tơi trong định mệnh đói nghèo
Trong độc ác, dối lừa, trong sỉ nhục
(Đất nước đàn bầu)
Nỗi đau ấy biến thành câu hỏi nghẹn ngào:
Tất cả sẽ ra sao
Mảnh đất nghèo máu ứa?
Người sẽ đi đến đâu
Hả Việt Nam khốn khổ?
Đến bao giờ bông lúa
Là tình yêu của Người?
Đến bao giờ ngày vui
Như chim về bên cửa?
Đến bao giờ Người mới được nghỉ ngơi
Trong nắng ấm và tiếng cười trẻ nhỏ?
(Việt Nam ơi)

Song, bên cạnh nỗi đau, nhà thơ còn nhận ra vẻ đẹp và sức sống tiềm tàng mạnh mẽ của dân tộc ẩn chứa trong chiều dài lịch sử, văn hóa, trong đời sống trận mạc và lao động lam lũ của người dân, trong vẻ đẹp “đắng cay” mà “trong trẻo” của tiếng Việt. Thực ra, đây cũng là một cảm hứng lớn của thơ chống Mỹ (ta có thể thấy điều này trong sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, Nguyễn Duy…) Tuy nhiên, những cảm xúc về quê hương đất nước ấy đã được cá thể hóa một cách sâu sắc qua ngôn ngữ thơ Lưu Quang Vũ – một ngôn ngữ thơ rất giàu màu sắc mĩ thuật. Trong Đất nước đàn bầu, bằng trí tưởng tượng phong nhiêu, bay bổng, nhà thơ đã “phục dựng” lại tầng tầng lịch sử tâm hồn giàu có và thiết tha của con người Việt Nam. Đó không phải là những tàn tích hóa thạch của quá khứ. Đó là cái trữ lượng văn hóa tinh thần sống động của dân tộc được hình thành từ lớp lớp huyền thoại ám ảnh và nồng nàn:

Đêm sử thi náo động tiếng quân hò
Sôi trong máu những bầy voi nguyên thủy
Sáng trong mắt những rừng gươm chớp lóe
Những nỗi buồn tê dại ngón tay rung
Chim Lạc bay, cánh rợp cả sườn non
Rùa đẻ trứng nồng nàn trên cát bể
Rừng gầm thét, thác nguồn sao trắng thế
Đất mênh mông tràn ngập ánh mặt trời
(Đất nước đàn bầu)

Và sợi dây nối liền quá khứ với hiện tại của đất nước, của dân tộc chính là tiếng Việt, thứ ngôn ngữ vừa “nghẹn ngào như đời mẹ đắng cay” vừa “trong trẻo như hồn dân tộc Việt”. Tiếng Việt là tâm hồn, là lịch sử, là sức sống của người dân Việt. Và tiếng Việt cũng chính là nhịp cầu nối giữa những con người Việt Nam không phân chia chiến tuyến:

Ai phiêu bạt nơi chân trời góc biển
Có gọi thầm tiếng Việt mỗi đêm khuya?
Ai ở phía bên kia cầm súng khác
Cùng tôi trong tiếng Việt quay về
(Tiếng Việt)

Với những nhận thức về chiến tranh, về dân tộc, về nhân dân ấy, ta sẽ hiểu vì sao ngay ở thời điểm chiến tranh chống Mỹ vào giai đoạn ác liệt nhất, trong thơ Lưu Quang Vũ đã sớm xuất hiện cái khao khát được “trở về” – cái khao khát dỡ bỏ những rào cản hận thù để dân tộc Việt nói riêng, nhân loại nói chung, được sống trong hòa bình, trong tình yêu và niềm vui sum họp.

3. Bản chất thơ trữ tình, xét đến cùng, là sự tự ý thức về cái tôi. Sau 1970, trong sự nhận thức về mình với tư cách là một con người – công dân và con người – cá nhân, Lưu Quang Vũ cũng đồng thời phát hiện ra mình như một cái - tôi - khác so với cái tôi sử thi của thời đại và của chính ông giai đoạn trước. Đó là một cái tôi thế sự, đời tư. Cái tôi ấy có nhu cầu khẩn thiết là được nhận thức lại nhiều vấn đề nhân sinh, thế sự phức tạp đang đặt ra trong đời sống của chính anh ta và nhìn rộng ra, là của cả xã hội. Chân dung cái tôi ấy chủ yếu được hình thành từ trong những năm tháng ngặt nghèo nhất của cuộc đời Lưu Quang Vũ (quãng những năm 70 – 80). Đây cũng là thời kì đất nước đang phải đối mặt với bao vất vả, thiếu thốn, hậu quả của chiến tranh kéo dài và cơ chế quản lí quan liêu bao cấp. Thơ ông là một bức tranh tả thực đầy nhức nhối:

Những năm khó khăn
Hè phố đầy hầm, đường đầy khẩu hiệu
Quần áo và mặt người màu cỏ héo
Thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu nhà
Người đợi tàu ngủ chật sân ga
Trẻ con thiếu nơi học hành dạy dỗ
Các cô gái trở nên suống sã...
(Viết lại một bài thơ Hà Nội).

Đó là thời kì “hòa bình đến mong manh/ nhiều tin đồn mà chẳng có gì ăn” (Liên tưởng tháng hai); “phố đông nhà hẹp/ thức ăn đắt kinh người/ nhiều tin xấu nhiều chuyện buồn cười (Những ngày hè cuối)... Điều đáng sợ không chỉ là những vất vả thiếu thốn về chuyện miếng cơm, manh áo, đáng sợ hơn là những vấn nạn tiêu cực đang nẩy sinh ngày một nhiều trong đời sống hậu chiến. Nhà thơ đặc biệt nhạy cảm với những biểu hiện băng hoại của các giá trị tinh thần, tình cảm, đạo đức trong một môi trường xã hội mà “mọi thánh thần đã trơ gỗ mọt”, “mọi điều thiêng liêng thành nhảm nhí”, và “con người nói với con người/ Những lời hằn thù sỉ nhục” ...

Là một con người thông minh và khát khao lí tưởng, giờ đây, khi phải đối mặt với một thực tại “đảo điên, tàn nhẫn”, với bao bi kịch của cá nhân và thời đại, Lưu Quang Vũ không tránh khỏi những cảm xúc giằng xé bi phẫn. Sự va đập gay gắt giữa hiện thực đời sống khắc nghiệt và những tín niệm thiêng liêng hình thành từ tri thức thi ca và sách vở khiến nhà thơ đau đớn, bàng hoàng. Chân dung ông qua ngòi bút “tự họa” là một con người thương tổn sâu sắc về mặt tinh thần:

Bị lừa dối, bị lăng nhục
Rách rưới, bơ phờ, cô độc
Hắn ngồi trước mặt em
(Người con giai đến phòng em chiều thu)
Do đó, nếu ở giai đoạn trước, trong cái tôi ấy bao giờ cũng là cảm giác tin tưởng, hy vọng, thì ở giai đoạn này, cảm giác cô đơn, hẫng hụt, mất niềm tin bao phủ tâm hồn ông:
Sao tôi lại muốn em tin
Khi chính tôi cũng chẳng tin ai cả
Tôi là đứa con cô đơn ngay khi ngồi cạnh mẹ
Thằng bé lẻ loi giữa lớp học ồn ào
Bàn chân hồ nghi giữa đường phố xôn xao
...Bao lâu rồi vẫn chỉ có thế thôi
Nỗi cô đơn hoàn toàn cô đơn khủng khiếp
Trước và sau trong và ngoài cuộc đời và trang sách...
(Mấy đoạn thơ)

Những trăn trở về các giá trị đời sống, giữa được/ mất, hạnh phúc/ bất hạnh, niềm tin/ sự nghi ngờ, hiện thực/ lí tưởng, cao thượng/ thấp hèn, chân thực/ giả trá... trở thành những môtip chủ đề phổ biến trong thơ ông, thể hiện một cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội, đau đớn và nhiều lúc khiến nhà thơ rơi vào cảm giác bi đát và bất lực: Điều anh tin không có ở trên đời/ Điều anh có không giúp gì ai được (Quán cà phê ngoại ô)… “Cuộc đời thô bạo”, với “tháng ngày vỡ nát”, với “nghèo túng, lọc lừa, bội phản” và “tuổi trẻ sớm tàn trong cay cực” ... là những hình ảnh trở đi trở lại trong thơ ông. Cái cảm giác bí bức, chật chội, thậm chí bế tắc trở thành một ám ảnh đau đớn – Trời chật chội như chiếc lồng trống rỗng, Những bức tường dựng đứng quanh tôi...

Tuy nhiên, dù đau đớn và có khi tưởng chừng bế tắc, điều cơ bản níu giữ nhà thơ, không cho phép ông gục ngã, chính là cái ý thức sống, ý thức sáng tạo trung thực của ông. Khao khát được nói lên sự thật, “những sự thật buồn cười mà khủng khiếp”, nhà thơ đặc biệt nhạy cảm với sự bạo ngược, bất công, giả trá. Thơ ông là nỗi đau buốt nhức và sự phẫn nộ của một con người có lương tri và trách nhiệm, “muốn nói hết sự thật/ về đất nước của mình”. Đó là nỗi đau có tác dụng thức tỉnh, hướng thiện. Bởi vậy, ông tin sẽ đến lúc nỗi đau ấy được hiểu và trân trọng:

Anh chẳng mang cho đời những tiệc vui ảo ảnh
Nỗi buồn chân thành đời chẳng nhận hay sao?
(Anh đã mất chi, anh đã được gì)

Càng về sau, những nhận thức về đời sống, về con người trong thơ Lưu Quang Vũ càng đằm sâu hơn, càng có sức thuyết phục với người đọc hơn. Những trải nghiệm đau khổ cho ông sự trưởng thành trong nhận thức về đời, đồng thời hình thành trong ông một thái độ và bản lĩnh sống thực tế, quả quyết cùng tinh thần “nhập thế” tích cực. Với nhận thức: Nịnh đời dễ, chửi đời cũng dễ/ Chỉ xây dựng đời là khó khăn thôi (Nói với mình và các bạn), cái tôi ấy bày tỏ khao khát “trở thành người có ích” một cách thiết thực:

Không thể ôm cả bầu trời lồng lộng
Nhưng có thể cầm một chùm quả trên tay
Có thể trồng thêm một bóng mát cho ngày
(Bài hát ấy vẫn còn là dang dở)
Từ góc nhìn này, nhà thơ đã đặt ra những quan niệm thẩm mĩ có tính cách tân khá quyết liệt (so với thời điểm đó và ngay cả với bây giờ). Để trở nên “có ích”, thơ ca không chỉ biết ca ngợi và đồng tình, thơ ca giờ đây còn phải biết cảnh tỉnh, biết phê phán, biết “phản biện” những mặc định của lịch sử, của xã hội và của người khác. Không chỉ là một phương tiện trong chiến đấu, giờ đây, thơ phải là công cụ để hàn gắn tâm hồn con người, hàn gắn tâm hồn dân tộc, nhân loại. Trách nhiệm của thơ là đấu tranh xã hội, chống lại cái Xấu, cái Ác, đánh thức lương tri và khát vọng còn ngủ quên trong mỗi con người. Bằng cách nói hình tượng, Lưu Quang Vũ khẳng định thơ phải là “bó đuốc đốt thiêu là bàn tay thắp lửa”, thơ phải “chống lại bóng đen trì trệ của đời”, “Thơ sinh sự với cuộc đời không cho ai dừng bước” ... Và trên tất cả, “thơ phải dạy ta nhìn bằng con mắt thật”. Muốn như vậy, con người không chỉ cần sự thông minh, mà còn cần phải “dũng cảm”. Trong bài Nói với mình và các bạn, Lưu Quang Vũ khẳng định:
Thế hệ mình cần những người dũng cảm
Dũng cảm yêu thương, dũng cảm căm thù
Bởi vì:
Người ta không thể sống bằng niềm tin đẹp
Bằng áp phích trên tường, bằng những lời đanh thép
Phải mang cho mọi người áo mặc cơm ăn
Phải có nhà trường, cửa sổ, trời xanh
Những bàn tay dám làm, những tấm lòng dám thật
(Viết lại một bài thơ Hà Nội)

Với quan niệm ấy, một hiện thực mới đã ùa vào thơ Lưu Quang Vũ. Một hiện thực “trần truồng”, “sắc nhọn”, “gầy guộc”, “giận giữ”... làm lay động dữ dội tâm hồn người đọc. Đây là những tiếng nói mở đường cho tư tưởng dân chủ, đổi mới trong đời sống sáng tạo và đời sống xã hội, rồi đây sẽ xuất hiệt rất quyết liệt trong kịch Lưu Quang Vũ những năm 1980, tạo nên một hiệu ứng xã hội tỏa lan mạnh mẽ.

4. Trong nhãn quan sử thi của nền thơ Cách mạng, cái tôi luôn gắn liền cái ta, và tình yêu lứa đôi cũng luôn gắn liền với tình cảm quê hương đất nước, tình cảm cộng đồng, nó gần như trở thành một ý niệm đạo đức – thẩm mĩ gắn bó, không thể tách rời: Anh yêu em như yêu đất nước/ Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần (Nguyễn Đình Thi). Song trong nhận thức của Lưu Quang Vũ, tình yêu là một giá trị tình cảm – thẩm mĩ tự thân. Đấy là kiểu tình yêu cá nhân, tình yêu đời thường với bao cảm xúc, sắc thái đa dạng, phong phú. Do đó, ông không ngần ngại bộc lộ những xúc cảm đắm say, nồng nhiệt nhất với Em – đối tượng trữ tình trong thơ ông. Rõ ràng, kể cả từ hướng tiếp cận chủ đề lẫn đối tượng mô tả đều ít nhiều có những nét “lệch chuẩn” so với cảm quan thời đại. Nhưng chính đó lại là điều làm nên nét độc đáo trong thơ tình Lưu Quang Vũ.

Thơ tình Lưu Quang Vũ hết sức say đắm, nồng nàn. Thẳm sâu trong ông là “một tình yêu không biết nói cùng ai/ đến điên dại đến nghẹn ngào đau đớn”. Với ông, tình yêu là một thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý. Chính vì vậy, hình tượng Em trong thơ ông luôn hiện lên như một biểu tượng của mơ ước và khát vọng lí tưởng:

Vượt lên trên những mái nhà chật hẹp
Em em là mây trắng của đời tôi
(Thơ tình viết về một người đàn bà không có tên)
Tình yêu ấy luôn đánh thức những khát khao và niềm hoài vọng không cùng:
Nhớ em như nhớ một miền xa
Không bao giờ trở về
Không bao giờ đi tới
(Vẫn thơ tình về một người đàn bà không có tên)

Không những thế, tình yêu còn có sức mạnh tái sinh tâm hồn nhà thơ sau bao đớn đau và nghịch cảnh:
Có em, anh hiểu lại cuộc đời
Có em, anh bắt đầu tất cả
Bắt đầu con đường, bắt đầu nhịp thở
Mùa hạ đầu tiên, ngọn gió đầu tiên
(Chiều chuyển gió)

Trong thơ Lưu Quang Vũ, ta bắt gặp rất nhiều hình ảnh người đàn bà của đời thực, những người phụ nữ ông từng yêu thương, gắn bó trong đời mình. Đó là người nữ diễn viên, người vợ - “mối tình đầu tóc dại tuổi mười lăm”. Đó là người nữ họa sĩ với “Những bức tranh nổi gió ở trên tường”. Và “những người đàn bà không tên” đã từng đi qua cuộc đời ông với bao hạnh phúc, đớn đau. Đặc biệt, hình ảnh nhà thơ Xuân Quỳnh, người vợ, người bạn đời ân nghĩa của ông xuất hiện rất nhiều lần trong các bài thơ đầy xúc động như Thơ ru em ngủ, Nhà chật, Thơ viết cho Quỳnh trên máy bay, Cho Quỳnh những ngày xa, Em vắng, Và anh tồn tại, Em II… Người phụ nữ ấy có “đôi vai ấm dịu dàng”, có “bàn tay luôn đỏ lên vì giặt giũ mỗi ngày”, có “đôi mắt buồn của một xứ sở có nhiều mưa”… Quả thực hiếm có người đàn ông nào lại viết về vợ mình với tình yêu và cảm xúc ơn nghĩa sâu nặng như Lưu Quang Vũ:

Dù sao cuộc đời đã dành em lại cho anh
Điều mong ước đầu tiên điều ở lại sau cùng
Chúng ta đi bên nhau trên mặt đất
Dẫu chỉ riêng điều đó là có thật
Đủ cho anh mãi mãi biết ơn đời
(Em II)

Số lượng dồi dào các bài thơ tình trong Tuyển thơ Lưu Quang Vũ (61/136 bài) cho thấy rõ sự chi phối của cảm hứng trữ tình đời tư trong sáng tác của ông. Với việc đào sâu vào những cung bậc cảm xúc tình yêu phức tạp và sâu kín, không ngần ngại đưa ra những chi tiết cá nhân, riêng tư, dễ gợi liên hệ tới những “nhân vật” đời thực (chẳng hạn tên những người phụ nữ), những lời “tụng ca” về Em…, tất cả đều cho thấy một quan niệm nhân sinh – thẩm mĩ độc đáo của Lưu Quang Vũ. Những tình cảm yêu thương đắm say, nồng nàn và chân thực trong thơ giúp ta nhận ra một góc khác của tâm hồn ông – một người đàn ông hào hoa, đa cảm, một người tình đắm say, một người chồng, người cha yêu thương, nhân hậu… Nó bổ sung vào cái chân dung tinh thần phức tạp và đa diện của người nghệ sĩ này một nét đẹp đầy nhân tính.

5. Nhu cầu phản ánh đời sống trong cái diện mạo rộng lớn, phức tạp và đa chiều của nó buộc tác giả phải tìm kiếm và lựa chọn những hình thức diễn tả tương ứng. Nhìn một cách bao quát, có thể thấy, trong thơ Lưu Quang Vũ, cảm hứng mô tả về một hiện thực mới, phức tạp đã tạo nên sự “giãn nở”, “nới rộng” hình thức văn bản cũng như sự đa dạng hóa trong hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu…

Nếu giai đoạn đầu, nhà thơ chủ yếu sử dụng các thể thơ quen thuộc như 7 chữ, 8 chữ và 5 chữ, bài thơ thường có sự phân khổ, phân đoạn khá nghiêm ngắn, rành mạch, thì ở giai đoạn sau, ông chủ yếu viết theo thể thơ tự do. Bài thơ thường không phân khổ, là sự kết hợp linh hoạt nhiều câu thơ dài ngắn khác nhau, kéo dài theo mạch cảm xúc, suy tưởng. Nhiều bài thơ trữ tình của ông (rất) dài, thậm chí có thể nói đến một xu hướng “trường ca hóa” trong thơ ông: Viết cho cho em từ cửa biển, Đất nước đàn bầu, Việt Nam ơi, Người cùng tôi, Bài ca trên bán đảo, Năm 1954, Hoa cẩm chướng trong mưa, Cơn bão, Những đám mây ban sớm, Khâm Thiên, Những đứa trẻ buồn, Tìm về, Những người bạn khuân vác, Nói với mình và các bạn… Nhu cầu được giãi bày “kiệt cùng”, “tận độ” những bức bách nội tâm trong chủ thể đã tự nó phá vỡ những khuôn khổ và hạn định của hình thức văn bản.

Hướng về cuộc đời trong khát vọng chiếm lĩnh bản chất hiện thực của nó, điều này cho phép thơ Lưu Quang Vũ dung nạp nhiều sắc thái giọng điệu trên nền giọng cơ bản là suy tư, khắc khoải, trầm thống... Xuất phát từ nhu cầu giao tiếp trực tiếp, thơ ông rất linh hoạt trong sử dụng các hình thức câu khác nhau (kể, tả, hỏi, cảm thán...); sử dụng phổ biến các đại từ nhân xưng (các đại từ nhân xưng có thể thay đổi liên tục tùy theo đối tượng trữ tình trong bài thơ, tạo nên sự thay đổi sắc thái cảm xúc, giọng điệu tương ứng, ta có thể thấy hiện tượng này trong một số tác phẩm như Đất nước đàn bầu, Những đám mây ban sớm...) Nếu trong những sáng tác đầu tay, thơ ông mang giọng điệu tươi tắn, trong trẻo thì giai đoạn giữa, thơ ông chuyển gam trầm thống, khắc khoải, và ở thời kì cuối, trở lại giọng trầm tĩnh, thiết tha trên một nhận thức sâu sắc và bao dung hơn về cuộc đời, con người.

Nhu cầu mở rộng, đào sâu về hiện thực đời sống - một hiện thực phức tạp, đa diện, cũng tạo áp lực lên kết cấu thơ Lưu Quang Vũ. Thơ ông chủ yếu sử dụng hình thức kết cấu mở với lối cấu tứ chủ yếu theo mạch cảm xúc – hình tượng (xin lưu ý đây là một cách diễn đạt có tính quy ước). Cảm xúc và suy tưởng của tác giả chi phối rõ nét đến kết cấu văn bản cũng như hệ thống hình tượng trong tác phẩm. Mạch cảm xúc thúc đẩy sự hình thành của hệ thống hình tượng, và ngược lại, sự xuất hiện các hình tượng là yếu tố dẫn dắt, khêu gợi, thúc đẩy mạch thơ tiếp tục phát triển. Một bài thơ có đặc điểm cấu tứ này không chỉ đòi hỏi độ mãnh liệt trong cảm xúc, nó còn đòi hỏi một trực cảm nhạy bén với khả năng liên tưởng dồi dào, phóng túng. Tư duy thơ Lưu Quang Vũ tỏ ra rất phù hợp với lối cấu tứ này. Ta thấy trong nhiều bài thơ của ông, tiêu đề chỉ đóng vai trò định hướng ban đầu, còn nội dung bài thơ sẽ dẫn người đọc đi rất xa với những cảm xúc, suy tư ào ạt, không ngừng về đời sống, về hạnh phúc, tình yêu, cái đẹp của nỗi đau buồn... Đất nước đàn bầu là một ví dụ, rất khó để “gò” ý nghĩa của bài thơ về một số tóm tắt nội dung sơ giản. Từ hình ảnh những chiếc trống đồng vùi trong cát với những con chim lạc mỏ dài và những bộ lạc mình vẽ đầy rồng rắn thấm đẫm màu sắc huyền sử, bài thơ nhanh chóng chuyển cảnh sang buổi sáng thực tại với hoa móng rồng thơm ngát/ lá xương xông mọc quanh vại nước, rồi đột ngột, hiện lên hình ảnh quạ đen đậu ngôi mộ cổ/ những con bướm đêm đập cánh thầm thì với điệu hát chập chờn/ con gà rừng mê sảng; cũng đột ngột không kém, mạch thơ chuyển sang cảnh chiến trận với hình ảnh vó ngựa lao dồn dập/ giặc phương Bắc kéo về/ vung gươm dài đẫm máu… Sự chuyển cảnh liên tiếp cùng sự xuất hiện liên tục, phong phú của các hình ảnh liên tưởng bay bổng, siêu thực, vừa gần gũi vừa lạ lẫm ấy đã tạo nên một thế giới thơ trùng phức, đa nghĩa và biến ảo. Cảm hứng mô tả về đất nước trong tiến trình lịch sử, trong chiều sâu văn hóa và đời sống của người dân, trong sự nối liền quá khứ và hiện tại ấy đã kết đọng trong những biểu tượng thơ tuyệt đẹp:

Những con chim lạc mỏ dài
Bay qua vầng trăng lớn
Cánh sừng sững tắm hoàng hôn đỏ rực
Cất tiếng kêu hoang dại dưới đêm nồng…

Độ mãnh liệt của cảm xúc, độ rậm rạp, biến hóa của hình ảnh, chi tiết miêu tả, sự đa nghĩa, ám gợi của các biểu tượng… là thế mạnh của thơ Lưu Quang Vũ. Sự dồn đẩy liên tục của những liên tưởng, tưởng tượng phóng túng, say sưa và đầy bất ngờ đem lại một ấn tượng thẩm mĩ đặc biệt độc đáo.

6. Sự thụ cảm đời sống của Lưu Quang Vũ nghiêng về những cảm giác, cảm xúc trực tiếp. Hiện thực trong thơ ông thường được đồng hóa bởi những chi tiết gọn, sắc, đập mạnh vào ấn tượng. Thơ ông giàu chất tạo hình với sự phối màu, hòa sắc, hòa âm táo bạo. Các gam màu mạnh, gắt, rực rỡ hoặc u buồn đều nguyên khối, đậm nét. Nhờ vào cách sử dụng đích đáng các các từ ngữ mô tả (đặc biệt là các tính từ) và các hình ảnh liên tưởng táo bạo mà bức tranh đời sống trong thơ Lưu Quang Vũ luôn hiện lên một cách hấp dẫn, sắc nét, sống động. Bên cạnh đó, “kĩ thuật” kết hợp giữa yếu tố thực và ảo, cụ thể và trừu tượng, vật chất và cảm xúc v.v. cũng góp phần tạo nên một ngôn ngữ thơ vừa cụ thể, cảm tính vừa giàu ý nghĩa tượng trưng, chẳng hạn:

Những ban mai xanh biếc tiếng đàn bầu
Bà hiền hậu têm trầu bên chõng nước
Em đi gặt trên cánh đồng cổ tích
Lúa bàng hoàng chín rực những triền sông
(Đất nước đàn bầu)

Nhà thơ thường sử dụng thủ pháp trùng điệp, nhằm mục đích xoáy sâu một ấn tượng, một cảm giác, một nỗi ám ảnh v.v., chẳng hạn: Những chiếc xe tăng đi qua/ Những khẩu súng đi qua/Những người lính đi qua/ Chẳng có gì cùng ta ở lại (Mặt trời trong nước lạnh)... Sự bén nhạy trực giác cho phép ông dễ dàng kết hợp, liên tưởng, so sánh những sự vật, hình ảnh vốn cách xa nhau trong thực tế, nhưng vẫn hết sức chuẩn xác, vẫn đem lại những cảm giác thơ trọn vẹn. Chẳng hạn, về một con sông, ông viết: Con sông như anh thợ tàu mười bảy tuổi/ Quả cảm và du đãng/ Nhem nhuốc và mơ mộng… Về một hải cảng, ông viết: Tươi trẻ đến phát lo/ Ồn ào mà sâu hút/ hải cảng trần trụi như bắp thịt/ Ròng ròng mồ hôi (Viết cho em từ cửa biển)…

Có thể nói Lưu Quang Vũ có biệt tài sử dụng ngôn ngữ trong tính chính xác và độ gợi cảm nhất của nó. Tuy nhiên, nếu đi sâu hơn, ta sẽ thấy hai xu hướng tìm tòi như là trái ngược nhưng lại rất thống nhất trong ngôn ngữ thơ ông. Một mặt, ngôn ngữ ấy có xu hướng đời thường hóa, mộc mạc và đơn giản, rất gần với ngôn ngữ đời sống. Chúng vừa giản dị, tự nhiên, đồng thời vừa rất giàu trữ lượng khái quát nội tâm, chẳng hạn:

Trái đất mình rộng quá
Ở đâu cũng có con người
Sao chưa tìm được cách nào
Sống với nhau cho ổn thỏa?
(Hoa cẩm chướng trong mưa)

Tuy nhiên, bên cạnh xu hướng đó, ngôn ngữ thơ Lưu Quang Vũ còn rất giàu yếu tố tượng trưng, siêu thực. Nhiều tác phẩm của ông dựng nên những thế giới thơ hết sức lạ lùng, kì ảo, phi logic nếu xét theo cái nhìn thông thường. Ngôn từ, hình ảnh hoàn toàn vượt ra khỏi trật tự tuyến tính, chúng như được “sắp xếp lại” trong một trật tự nội tâm mơ hồ, xa thẳm. Nhiều hình ảnh thơ của ông rất đặc biệt, rực rỡ mà đau đớn, gợi nhiều ám ảnh lạ lùng. Bài thơ Bây giờ (có phụ đề làTưởng tượng về một bài hát) là một ví dụ:

Bây giờ
Hai đạo quân đã giết hết nhau
Tiếng trống cuối cùng đã bặt
Người ngựa đều ngã gục
Chỉ còn con quạ xám đậu trên bờ

Bây giờ
Em trụi trần dưới vòm cây tối đen
Ngực đồi trăng ướt đẫm
Tay chập chờn lửa sáng
Nhưng đã muộn rồi ôi muộn lắm
Vực sâu đã mở ra
Chôn cả lời trăng trối của mùa thu
Một chiếc lá khổng lồ đỏ thắm

Ta còn có thể tìm thấy điều này trong nhiều bài thơ khác: Móng tay trên đá, Những ngọn nến, Giấc mộng đêm, Chiều cuối... “Vệt thơ siêu thực” này cho ta thấy thêm quan niệm về hiện thực của nhà thơ. Đó không chỉ là một hiện thực được phô bày trước mắt, có thể “nhìn thấy”, nó còn là một hiện thực ở “bề sâu bề xa”, một hiện thực chỉ có thể “cảm thấy”. Hiện thực ấy chỉ có thể diễn tả một cách đích đáng nhất bằng trực giác và biểu tượng. Như vậy, nó không chỉ bộc lộ tư tưởng mở rộng, đào sâu vào hiện thực của Lưu Quang Vũ mà còn cho thấy ý thức của ông trong sáng tạo ngôn ngữ, nhằm chiếm lĩnh hiện thực trong tất cả những chiều kích rộng lớn của nó.

7. Tóm lại, cảm hứng thế sự, đời tư là một cảm hứng chủ đạo trong thơ Lưu Quang Vũ, chi phối mạnh mẽ đến nhiều phương diện nghệ thuật thơ ông. Cảm hứng mô tả này cho thấy một ý thức công dân nhạy bén của người nghệ sĩ trước thời cuộc. Nó cũng khẳng định tinh thần trách nhiệm, lương tri và bản lĩnh cứng cỏi của người cầm bút. Thơ Lưu Quang Vũ là một cuộc truy vấn lớn về nhân sinh, thế sự, một cuộc truy vấn không ngừng với bản thân mình về các lí tưởng đạo đức, thẩm mĩ và về điều này, hãy dùng chính thơ ông để diễn tả - Tâm hồn anh dằn vặt cuộc đời anh… Đó cũng là một cuộc truy vấn với Vô cùng, và sẽ luôn được tiếp tục, bởi đó là những giá trị muôn đời mà người nghệ sĩ chân chính tìm kiếm, bất chấp mọi trả giá tàn khốc. Như chính Lưu Quang Vũ từng tiên liệu:

Và mai sau sẽ có những nhà thơ
Đứng trên tầng cao ta ao ước bây giờ
Họ sẽ vẫn không ngừng đập cửa
Không ngừng lo âu không ngừng phẫn nộ
Bởi vô biên là khát vọng của con người…
(Những đám mây ban sớm)

______________________________________________

Cái đúng hôm qua nay không đúng nữa!

Vương Trí Nhàn

Ông Tú, nhân vật chính trong truyện ngắn Một thời gió bụi (1991), của Nguyễn Khải là một cán bộ vốn sống ở thành phố, khi nhận sổ hưu, liền có ý định về sống hẳn ở quê. Song chỉ về quê thăm thú ít ngày, ông đã phải bật ra, quay trở lại với vợ con ở thành phố, làm chân phụ việc bán hàng cho vợ.

Tại sao? Theo cách miêu tả của tác giả, nhân vật tưởng đã rất từng trải ở đây đã thực sự bị sốc trước tình trạng xảy ra trên quê hương. Con người gian giảo lừa lọc. Niềm tin và sự bình thản trong tâm tư không còn. Mối quan hệ thuần hậu giữa người với người đã bị biến dạng.

Chữ lợi làm mờ cả mắt. Người ta sẵn sàng làm bất cứ việc gì, kể cả đào trộm một ngôi mộ cổ của một bà thứ phi của chúa Trịnh Doanh, bẻ đầu bà ta, để kiếm vàng. Ấn tượng còn lại ở ông Tú là “một cái làng, một vùng quê không còn quá khứ, không còn lịch sử ”. Quay trở lại với gia đình nơi đô thị, ông nghe một đứa con hỏi : “Về quê có vui không?”, đành đáp: “Cuộc sống gay gắt lắm”. Lại khi nghe hỏi: “Vùng ấy phong cảnh đẹp lắm hả bố”, ông chỉ còn cách trả lời: “Bây giờ thì trần trụi tan hoang cả” (xem Tuyển tập Nguyễn Khải ba tập, tập III, NXB Văn học 1996, các trang 269 và 280).
Nguyễn Khải từng có nhiều thiên truyện viết về nông thôn miền Bắc những năm 60-70 thế kỷ trước, trong đó có truyện Tầm nhìn xa chế giễu ông Tuy Kiền, phó chủ nhiệm hợp tác chuyên xoay xở kiếm lợi. Văn xuôi Nguyễn Khải hồi ấy cho thấy một nông thôn hài hòa mà sôi động, con người đầy khao khát song rất tự chủ, và luôn tự chứng tỏ là có thể đứng vững trước bất cứ thay đổi nào của thời cuộc.

Nay với Một thời gió bụi, tác giả vẫn sắc sảo như xưa, nhưng lại hai lần đáng ca ngợi vì là một sắc sảo phát hiện ra những gì ngược với niềm tin của mình hồi trẻ. Trong phút xuất thần của ngòi bút, Nguyễn Khải thật đã dự cảm chính xác sự băng hoại của nông thôn cổ điển trước công cuộc hiện đại hóa tự phát có pha một chút dã man hôm nay.

Thứ nữa, điều quan trọng không kém, nhà văn còn gọi ra được một lối phản ứng trước hoàn cảnh đang chi phối nhiều người chúng ta. Đó là một cái nhìn tĩnh, một nếp nghĩ trì trệ, chỉ biết mơ màng với những giáo điều cũ kỹ, lúc chạm vào thực tế thì sợ hãi lảng tránh. Trong khi vẽ ra một bức tranh thực tế xa lạ hẳn với thói quen cảm nhận của số đông, tác giả như thoáng có một chút chế giễu cái sự lãng mạn quá lâu của mọi người, và thầm đề nghị rằng mọi suy nghĩ về nông thôn phải thay đổi.

Cần nhấn mạnh cái khía cạnh thứ hai này của tác phẩm vì thời gian gần đây - ngót nghét hai chục năm sau khi Một thời gió bụi ra đời - dường như vẫn đang có một lối nhìn, một mạch suy nghĩ cảm xúc ngự trị trong xã hội, chảy ngầm trong những câu chuyện và len lỏi trong tâm tư mỗi cá nhân lúc họ cô đơn. Đó là niềm lưu luyến khôn nguôi với nông thôn thời quá khứ, là việc lý tưởng hóa mối quan hệ giữa người với người hôm qua, tiếp đó lẽ tự nhiên là tiếng thở dài than vãn vì một cái gì tốt đẹp vừa bị đánh mất, và niềm ao ước thầm kín, giá kể đồng hồ có thể quay ngược, giá kể có thể trở về với những ngày xưa thân ái, tình làng nghĩa xóm, rau cháo có nhau, nghèo khổ nhưng mà đầm ấm.

Con người vốn yếu đuối. Trước những thay đổi quá chừng đột ngột, lại ngả sang dữ dằn ghê gớm của công cuộc hiện đại hóa ít nhiều phi nhân văn hiện nay, cái sự co lại trong hành động, sự mệt mỏi trong tâm tư là điều dễ hiểu. Nhưng tôi tưởng đây chính là lúc chúng ta cần một ít lý trí sáng suốt. Quay về làm sao nổi. Đúng là không thể làm giàu bằng bất cứ cách nào. Nhưng cũng không thể nghèo mãi như cũ. Chỉ có dấn bước đi tới với nghĩa nhìn thẳng vào thực tế, nhận ra những quy luật chi phối sự vận động của xã hội, người ta mới có cơ tìm ra cách ứng xử hợp lý nhất.
Trong việc này, số lượng những tác phẩm văn chương có cái nhìn tỉnh táo như của Nguyễn Khải còn ít, mà - thường tình thay mà cũng đáng tiếc thay - là lối nhìn nhận ngược lại.

Trong một bài phiếm luận, một nhà văn gần đây có tâm sự rằng thuở nhỏ sống với một bà mẹ rất tình cảm và nay mỗi lúc khó khăn trong cuộc đời, tác giả lại tìm thấy sự chỉ bảo nâng đỡ trong những lời mẹ dặn.

Để sang một bên những trường hợp cụ thể, tôi chỉ nghĩ rằng nếu tính đại trà thì nay là lúc con người gặp phải những khó khăn mà các thế hệ trước chưa bao giờ gặp phải. Vậy nên kinh nghiệm sống và suy nghĩ của lớp người đi trước không đủ nữa.

Trong cái việc tự mình cứu mình, có bao hàm cả cái việc chủ động tìm tòi để bứt phá khỏi cái vòng vây của những tư tưởng cũ. Những tư tưởng ấy vốn trước kia đã đúng, lại gắn liền với kỷ niệm của tuổi ấu thơ chúng ta, nên dễ lan truyền và làm tổ trong chúng ta. Dứt bỏ là chuyện đau đớn. Nhưng làm sao khác được! Đi tìm cho được những cái mình cần, đó là trách nhiệm mà cũng là số phận của con người hiện đại.

Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn
___________________________________________________________

Giấy chứng nhận làm... Người

truyện ngắn của Úc Thanh (Trung Quốc)

Trên đoàn tàu, cô soát vé hết sức xinh đẹp cứ nhìn chằm chằm vào người đàn ông lớn tuổi áng chừng đi làm thuê, hạch sách:
-Vé tàu!
Người đàn ông lớn tuổi lục khắp người từ trên xuống dưới một thôi một hồi, cuối cùng tìm thấy vé, nhưng cứ cầm trong tay không muốn chìa ra.
Cô soát vé liếc nhìn vào tay anh, cười trách móc:
- Đây là vé trẻ em.
Người đàn ông đứng tuổi đỏ bằng mặt, nhỏ nhẹ đáp:
- Vé trẻ em chẳng phải ngang giá vé người tàn tật hay sao?
Giá vé trẻ em và người tàn tật đều bằng một nửa vé, đương nhiên cô soát vé biết. Cô nhìn kỹ người đàn ông một lúc rồi hỏi:
- Anh là người tàn tật?
- Vâng, tôi là người tàn tật.
- Vậy anh cho tôi xem giấy chứng nhận tàn tật.
Người đàn ông tỏ ra căng thẳng. Anh đáp:
- Tôi... không có giấy tờ. Khi mua vé cô bán vé bảo tôi đưa giấy chứng nhận tàn tật, không biết làm thế nào, tôi đã mua vé trẻ em
Cô soát vé cười gằn:
- Không có giấy chứng nhận tàn tật, làm sao chứng minh được anh là người tàn tật?
Người đàn ông đứng tuổi im lặng, khe khẽ tháo giầy, rồi vén ống quần lên - Anh chỉ còn một nửa bàn chân.
Cô soát vé liếc nhìn, bảo:
- Tôi cần xem chừng từ, tức là quyển sổ có in mấy chữ "Giấy chứng nhận tàn tật", có đóng con dấu bằng thép của Hội người tàn tật!
Người đàn ông đứng tuổi có khuôn mặt quả dưa đắng, giải thích:
- Tôi không có hộ khẩu của địa phương, người ta không cấp sổ tàn tật cho tôi. Hơn nữa, tôi làm việc trên công trường của tư nhân. Sau khi xảy ra sự cố ông chủ bỏ chạy, tôi cũng không có tiền đến bệnh viện giám định...
Trưởng tàu nghe tin, đến hỏi tình hình.
Người đàn ông đứng tuổi một lần nữa trình bày với trưởng tàu, mình là người tàn tật, đã mua một chiếc vé có giá trị bằng vé của người tàn tật ...
Trưởng tàu cũng hỏi:
- Giấy chứng nhận tàn tật của anh đâu?
Người đàn ông đứng tuổi trả lời anh không có giấy chứng nhận tàn tật, sau đó anh cho Trưởng tàu xem nửa bàn chân của mình.
Trưởng tàu ngay đến nhìn cũng không thèm nhìn, cứ nhất quyết nói:
- Chúng tôi chỉ xem giấy chứng nhận, không xem người. Có giấy chứng nhận tàn tật chính là người tàn tật, có giấy chứng nhận tàn tật mới được hưởng chế độ ưu đãi vé người tàn tật. Anh mau mau mua vé bổ sung.
Người đứng tuổi bỗng thẫn thờ. Anh lục khắp lượt các túi trên người và hành lý, chỉ có bốn đồng, hoàn toàn không đủ mua vé bổ sung. Anh nhăn nhó và nói với trưởng tàu như khóc:
- Sau khi bàn chân tôi bị máy cán đứt một nửa, không bao giờ còn đi làm được nữa. Không có tiền, ngay đến về quê cũng không về nổi. Nửa vé này cũng do bà con đồng hương góp mỗi người một ít để mua giùm, xin ông mở lượng hải hà, giơ cao đánh khẽ, nương bàn tay cao quý, tha cho tôi.
Trưởng tàu nói kiên quyết:
- Không được.
Thừa dịp, cô soát vé nói với Trưởng tàu:
- Bắt anh ta lên đầu tàu xúc than, coi như làm lao động nghĩa vụ.
Nghĩ một lát, trưởng tàu đồng ý:
- Cũng được.
Một đồng chí lão thành ngồi đối diện với người đàn ông đứng tuổi tỏ ra chướng tai gai mắt, đứng phắt lên nhìn chằm chằm vào mắt vị trưởng tàu, hỏi:
- Anh có phải đàn ông không?
Vị trưởng tàu không hiểu, hỏi lại:
- Chuyện này có liên quan gì đến tôi có là đàn ông hay không?
- Anh hãy trả lời tôi, anh có phải đàn ông hay không?
- Đương nhiên tôi là đàn ông!
- Anh dùng cái gì để chứng minh anh là đàn ông? Anh đưa giấy chứng nhận đàn ông của mình cho mọi người xem xem?
Mọi người chung quanh cười rộ lên.
Thừ người ra một lát, vị truởng tàu nói:
- Một người đàn ông to lớn như tôi đang đứng đây, lẽ nào lại là đàn ông giả?
Đồng chí lão thành lắc lắc đầu, nói:
- Tôi cũng giống anh chị, chỉ xem chứng từ, không xem người, có giấy chứng nhận đàn ông sẽ là đàn ông, không có giấy chứng nhận đàn ông không phải đàn ông.
Vị trưởng tàu tịt ngóp, ngay một lúc không biết ứng phó ra sao.
Cô soát vé đứng ra giải vây cho Trưởng tàu. Cô nói với đồng chí lão thành:
- Tôi không phải đàn ông, có chuyện gì ông cứ nói với tôi.
Đồng chí lão thành chỉ vào mặt chị ta, nói thẳng thừng:
- Cô hoàn toàn không phải người!
Cô soát vé bỗng nổi cơn tam bành, nói the thé:
- Ông ăn nói sạch sẽ một chút. Tôi không là người thì là gì?
Đồng chí lão thành vẫn bình tĩnh, cười ranh mãnh, ông nói:
- Cô là người ư? Cô đưa giấy chứng nhận "người" của cô ra xem nào...
Mọi hành khách chung quanh lại cười ầm lên một lần nữa.

Chỉ có một người không cười.

Vũ Công Hoan dịch
_________________________________________________

Thứ Tư, 20 tháng 4, 2011

Cây nào có gió không thèm lay?

Phạm Khải

Trần Huyền Trân là người cuối cùng lọt được vào Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân. Khe cửa hẹp, lại bị sập mạnh và…nhanh quá, khiến ông chỉ kịp mang theo chút hành lý cầm tay, còn những thứ ba lô lỉnh kỉnh đành phải bỏ lại bên ngoài. Là tôi có cảm giác vậy khi đọc bộ hợp tuyển Thi nhân Việt Nam, chương mục về Trần Huyền Trân.

Từng có lúc tôi băn khoăn tự hỏi: Đã đồng ý viết bài về Trần Huyền Trân - giả dụ là không thật hào hứng đi chăng nữa - tại sao các tác giả của Thi nhân Việt Nam lại chỉ nhắc tới vài đoạn thơ của ông mà tuyệt nhiên không chọn lấy một bài nào (điều ngoại lệ trong cả tập hơn 40 tác giả). Có phải vì thơ Trần Huyền Trân chưa toàn bích?

Nhưng, ở phần "Nhỏ to" in cuối sách, các tác giả chẳng đã tâm sự, có những bài không thật hay, các ông vẫn chọn đấy thôi? Tác giả Hoài Việt, trong bài Đây một loài hoa khác hải đường viết về Trần Huyền Trân có lẽ cũng đã ngầm trách các tác giả của Thi nhân Việt Nam khi thả những dòng sau: "Vậy mà, thật bất công - như một nhà nghiên cứu nào đó đã nói - có người làm sách chỉ "vớt vát" cho ông được mấy chục dòng".

Thật ra, nếu nói Hoài Thanh - Hoài Chân "bất công" với Trần Huyền Trân thì theo tôi, sự "bất công" ấy thế hiện ở chỗ: Có những tác giả kém tài hơn so với Trần Huyền Trân (bằng chứng là tới nay, thơ họ không còn được ai nhắc tới nữa), vậy mà vẫn có một chỗ ngồi ngay ngắn trong Thi nhân Việt Nam, trong khi thế đứng của Trần Huyền Trân trong tập sách chỉ là… mon men, chầu rìa.

Song nhìn từ góc độ độc giả thì - cho đến tận hôm nay, dù thơ Trần Huyền Trân đã được in ấn bề thế hơn, với nhiều nhận xét đánh giá hoành tráng hơn, song không phải đã đi được vào công chúng rộng rãi. Tất nhiên, đây không phải lỗi của Trần Huyền Trân, cũng không vì thế mà chúng ta đánh giá thấp tài thơ của ông. Nhưng nó là sự thật, và sự thật ấy có cái lý của nó.

Trong phong trào Thơ Mới, Trần Huyền Trân không thuộc hàng "kiện tướng" (như các tác giả Nguyễn Phan Cảnh - Phạm Thị Hòa vì quá yêu mến ông mà xếp như thế), song so với các nhà thơ đứng hàng… sau, mình, Trần Huyền Trân riêng một lối, không giống ai. Mặc dù có những câu thơ rất mượt mà, như một bức tranh lụa, và sức khơi gợi cũng như độ hàm chứa không kém bất cứ một bài thơ 4 câu nào của thi ca Việt từ trước tới nay: "Mưa bay trắng lá rau tần/ Thuyền ai bốc khói xa dần bến mưa/ Có người về khép song thưa/ Để rêu ngõ trúc tương tư lá vàng" (bài Thu), cũng như có những câu lục bát nhuần nhuyễn, đăng đối tới độ mẫu mực: "Phải đây mùa nhớ thương nhau/ Chim ngoài ngọn gió, hoa đầu cành mưa"; "Xa nhau gió ít lạnh nhiều/ Lửa khuya tàn chậm, mưa chiều đổ nhanh" (bài Tương tư), song cái độc đáo, cái đóng góp cơ bản của Trần Huyền Trân vẫn là việc ông đưa được vào thơ cái khí chất ngang tàng, hào hiệp, cái trăn trở với những phận người "dưới đáy xã hội" của mình.

Đặc biệt, khi tình hình đất nước vào giai đoạn rối ren, bấn loạn, khi ảnh hưởng của cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai lan rộng, nhiều tác giả Thơ Mới đã lảng tránh hiện thực - nói như Chế Lan Viên: "Tổ quốc trong lòng ta mà có cũng như không/ Nhân dân ở quanh ta mà ta chẳng thấy/ Thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng", thì ở Trần Huyền Trân, những dấu ấn thời đại ấy đã in khá đậm trong thơ ông.

Thơ cũng như người, ngoài tài năng ra, nó còn có may rủi số phận. Tôi đọc thơ Trần Huyền Trân và ngạc nhiên là ông có những bài không chỉ đẹp về giai điệu mà còn sâu về ý tưởng. Đây là hai câu rất gợi, tác giả dùng để phác họa cái khoảnh khắc giao mùa:

Ngõ hoang đã nở dăm màu bướm
Đây lúc đôi mùa đưa tiễn nhau.
(Bài Đôi mùa)

Còn đây, hai câu thể hiện cái khí phách của một người lính dẫu bị thương vẫn tự nhủ lòng, nếu có chết thì cũng phải chết trong tư thế… mở mắt để hình ảnh cuối cùng theo vào giấc thiên thu là hình ảnh của cuộc tử chiến:

Một tối rùng mình lau máu rỏ
Cũng không khép mắt đóng sa trường.
(Bài Lưu biệt)

Và đây, hai câu thơ nói cái hiện thực lầm than, cơ cực của những kiếp người đến một chỗ ngả lưng cũng không đủ chen chân - thiết tưởng không có cách diễn đạt nào ngắn gọn mà thấm thía hơn:

Giường ken chiếu nối xoay ngang dọc
Xương gối vào xương chẳng đủ nằm.
(Bài Đời một nhà văn)

Càng đọc Trần Huyền Trân, tôi càng thấy ông kỹ về câu chữ, mà so với một số kiện tướng của phong trào Thơ Mới, chưa chắc ông đã kém cạnh ai (không phải ngẫu nhiên mà lần đầu tiếp xúc với Trần Huyền Trân, người nổi tiếng khó tính trong nghệ thuật như Nguyễn Đình Thi đã "không khỏi sợ sệt thầm"). Song điều ngạc nhiên hơn nữa là ngoài những câu thơ hay, cách cấu trúc câu của Trần Huyền Trân ở những thể thơ ổn định như lục bát, thất ngôn vẫn có nét tươi mới, để lại nhiều dư ba:

Tiễn nhau chẳng tiễn dặm dài
Một đuôi con mắt mấy giời núi sông
Khép nhanh cánh gỗ là xong
Mà chân người khuất vấp lòng là đây.
(Bài Tiễn biệt)

Tự cổ sầu chung kiếp xướng ca
Mênh mang trời đất vẫn không nhà
Người ơi! Mưa đấy hay xênh phách
Tay yếu gieo lòng xuống chiếu hoa.
(Bài Sầu chung)

Thôi thế anh về - tôi đi đây
Cây nào có gió không thèm lay?
Chim nào có cánh không thèm bay
Lòng nào có máu không thèm say?
(Bài Lưu biệt)

Người ta thường nói đến cái… duyên. Hình như, với thơ, yếu tố hay chưa đủ, mà để được người đời yêu thích, được phổ biến rộng rãi, nó còn phải có cái "duyên thơ". Chính yếu tố này làm cho nhiều nhà thơ, dù có bài hay, bài chưa hay, song đã yêu thơ họ, độc giả có thể thuộc nhiều bài, thậm chí thuộc cả tập (mà thơ Tố Hữu, thơ Nguyễn Bính, thơ Trần Đăng Khoa… trước đây là những ví dụ).

Với Trần Huyền Trân, mặc dù là người rất yêu thơ, thuộc nhiều thơ, và dù tác giả dùng nhiều thể thơ truyền thống, lại rất coi trọng vần điệu, song tôi và nhiều độc giả vẫn cảm thấy khó khăn trong việc lưu giữ trong đầu trọn vẹn một bài thơ nào đó có dung lượng dài dài một chút của ông.

Tôi cảm thấy những bài thơ ấy của Trần Huyền Trân nó như thể những chú ngựa, vốn dĩ đã phải chạy đường trường, vậy mà chốc chốc lại tung một cú hất ngược, khiến người cưỡi ngựa cũng thấy… mệt. Nói chung, thơ Trần Huyền Trân nhiều tìm tòi, sáng tạo trong hình ảnh, trong giai điệu, trong cách đảo câu, lật chữ.

Nhưng trong khâu hòa trộn giữa giai điệu và ý tưởng, nó chưa có được tỉ lệ tương thích, khiến người đọc có thể tiếp nhận được tức thì cả hai (thường thì họ phải ngưng mạch thơ để ngẫm nghĩ kỹ về ý tưởng, mong hiểu thấu đáo điều tác giả gửi gắm), điều này vô tình đã ảnh hưởng đến cảm hứng tiếp nhận của độc giả.

Sau này, có một nhà thơ có nét gần với Trần Huyền Trân là Quang Dũng. Song Quang Dũng không pha trộn ý tưởng vào giai điệu một cách đậm đặc như Trần Huyền Trân. Thơ ông thoáng hơn. Bài thơ dày đặc nhất về sáng tạo hình ảnh và âm điệu của Quang Dũng là Tây tiến, song bù lại, hơi thơ lại rất tung tẩy, sảng khoái.

Tất nhiên, như tôi đã nói ở đầu bài viết, đây không phải là lỗi của Trần Huyền Trân, lỗi là ở lối đọc thơ quen với sự "trơn tru", "thông suốt" của phần đông độc giả chúng ta. Chính vì lẽ ấy mà chúng ta đã ít nhiều bỏ sót những nét đặc sắc của thơ Trần Huyền Trân.

Không chỉ về cấu trúc câu, trong giọng thơ, Trần Huyền Trân cũng không giống phần đông các thi sĩ khác. "Chân mình vẫn lạc dấu nghìn chân" - Trần Huyền Trân từng viết như thế. Ông có nét đáng yêu - thậm chí rất đáng yêu - ấy là cái cốt cách… tráng sĩ rất đậm ở ông, nhưng cái đáng yêu ấy, suy cho cùng nó hợp với không khí thời loạn hơn là với không khí thời bình.

Hoài Thanh - Hoài Chân từng cho biết, các ông thích thơ Trần Huyền Trân bởi "sau khi đọc hoài những câu rặt anh anh em em, tôi đã tìm thấy ở đây cái thú của người đi đổi gió", song với những người đang yêu, họ thích những câu thơ tình ngọt ngào, da diết kiểu Xuân Diệu: "Thôi hết rồi, còn chi nữa đâu em/ Thôi hết rồi, gió gác với trăng thềm/ Với sương lá rụng trên đầu gần gũi/ Thôi đã hết hờn ghen và giận dỗi/ Được giận hờn nhau sung sướng bao nhiêu/ Anh một mình nghe tất cả buổi chiều/ Vào chậm chậm ở trong hồn hiu quạnh". Hoặc của người "cùng hội cùng thuyền" với Trần Huyền Trân là Nguyễn Bính: "Em nghe họ nói mong manh/ Hình như họ biết chúng mình… với nhau/ Ai làm cả gió, đắt cau/ Mấy hôm sương muối cho giầu đổ non", hơn là cách trả lời phụ nữ kiểu Trần Huyền Trân (mặc dù xét cho cùng là ông rất khiêm tốn và… đứng đắn, không chút lợi dụng tình thế để… lả lơi):

Hay gì bà hỏi đến tôi
Khóc thì trái thói mà cười vô duyên.



Tim tôi chiếc lá dâu xanh
Tằm đời ăn rỗi trơ cành còn chi.
(bài Thưa bà, nội dung trả lời một phụ nữ yêu thơ Trần Huyền Trân).

Người ta thấy cách nói với phụ nữ ấy của Trần Huyền Trân không được thân mật, có thể nói là… cứng nữa.

Thi ca Việt Nam có nhiều bài thơ say, nhiều bài tuyệt bút ca ngợi thú uống rượu. Có lối say chỉ là… say như kiểu Tản Đà: "Say sưa nghĩ cũng hư đời/ Hư thời hư vậy, say thời cứ say/ Đất say đất cũng lăn quay/ Trời say mặt cũng đỏ gay, ai cười?", hoặc cách kết hợp chuyện rượu với chuyện đời như Nguyễn Vỹ (bài Gửi Trương Tửu). Trần Huyền Trân có cả chùm bài về đề tài này, mà nổi bật là bài Uống rượu với Tản Đà. Đây là bài thơ được các bậc thức giả đánh giá cao, song với các bạn trẻ, không phải ai cũng thích cái cách tác giả triết lý về thế thái nhân tình quá dày đặc trong một bài thơ chỉ vẻn vẹn có 20 câu, kiểu như:

Rồi lên ta uống với nhau
Rót đau lòng ấy vào đau lòng này
Tôi say?
Thưa, trẻ chưa đầy
Cái đau nhân thế thì say nỗi gì

và:

Đường xa ư cụ? Quản chi
Đi gần hạnh phúc là đi xa đường.

hoặc:

Nguồn đau cứ rót cho nhau.
Lời say sưa mới là câu chân tình.

Đành rằng, thơ về rượu mà cứ sặc sụa mùi men rượu thì hỏng bét, và mượn rượu để chen vào chuyện thế sự là đắc địa, song triết lý nhiều quá, trong khi tâm tình của tác giả người đọc chưa thật rõ nguồn cơn, hình như cũng tạo cho bài thơ cảm giác nặng nề chăng? Tất nhiên, như tôi đã nói ở phần trên, đây không phải lỗi của Trần Huyền Trân. Nhà thơ có nhiều dạng, không nên bắt ai cũng phải giống ai. Tôi chỉ muốn lý giải tại sao thơ Trần Huyền Trân không đến được với đông đảo bạn đọc trẻ. Và càng có tuổi người ta mới càng vỡ vạc ra cái hay, cái sâu sắc của thơ Trần Huyền Trân.

Trong mâm thơ Việt Nam, Trần Huyền Trân là một "món" riêng. Và dù có mâm cao cỗ đầy, có cao lương mỹ vị đến đâu chăng nữa, ta vẫn thấy thiếu nếu không có món đó. Và đó là "món" mà khi thưởng ngoạn, ta phải… từ tốn, nói nôm na là phải nhai thật kỹ. Có vậy ta mới cảm hết được những nét đặc sắc của nó.

____________________________________________________

“Phê bình văn học, con vật lưỡng thê ấy”

TRẦN HOÀNG HOÀNG


QĐND - 1. Đầu năm 2011, cuốn sách “Phê bình văn học, con vật lưỡng thê ấy (Tư tưởng phê bình văn học Việt Nam, một cái nhìn lịch sử)” của Phó giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Lai Thúy được ấn hành lập tức được đánh giá là một hiện tượng tác phẩm phê bình hiếm hoi gần đây.

Nói là hiện tượng bởi trước hết, cuốn sách là một công trình đầu tiên nhìn lại một cách toàn diện lịch sử phê bình văn học trong suốt thế kỷ XX ở Việt Nam và cả những bước đi thử nghiệm của phê bình văn học từ tầm nhìn hậu hiện đại. Điểm mới lạ khác, rất đặc sắc thể hiện cấu trúc cuốn sách khác hẳn những cuốn sách lịch sử văn học trước đó. Thông thường, một công trình lịch sử văn học, các tác giả thường trình bày nội dung theo “trục dọc” dựa trên sự phân kỳ tuyến tính, mà nhiều khi những mốc dùng để phân kỳ lại có ý nghĩa về khía cạnh chính trị-kinh tế hơn là ý nghĩa văn học. Nhận thức được những hạn chế của lối trình bày biên niên sử, Đỗ Lai Thúy đã tìm cách thức khác là trình bày các phương pháp phê bình theo ba lối tiếp cận, đó là: Tiếp cận tác phẩm từ tác giả (phê bình tiểu sử học, phê bình văn hóa-lịch sử, phê bình phân tâm học…), tiếp cận tác phẩm từ văn bản (phê bình phong cách học, phê bình thi pháp học, phê bình cấu trúc-ký hiệu học…) và tiếp cận tác phẩm từ người đọc (phê bình theo lý thuyết tiếp nhận, phê bình hậu/giải cấu trúc, phê bình thông diễn học, phê bình hậu thực dân luận…). Mô hình nghiên cứu trên vừa giúp cho người đọc có cái nhìn xuyên suốt lịch sử phê bình văn học, nhất là khi đặc trưng của phê bình văn học Việt Nam là sự gối tiếp giữa các phương pháp; lại vừa đảm bảo không bỏ sót đóng góp của từng nhà nghiên cứu ở mỗi phương pháp phê bình trong các thời gian, không gian khác nhau.

Mỗi phương pháp phê bình văn học thường xuất phát từ một lý thuyết văn học, do vậy, trình bày các phương pháp phê bình từng hiện hữu trong đời sống văn chương Việt cũng là gián tiếp trình bày tư tưởng phê bình văn học Việt. Như vậy, cuốn sách vừa là công trình văn học sử vừa là công trình về lý thuyết văn học. Ngoài ra, cuốn sách còn có giá trị phê bình văn học, dĩ nhiên là phê bình về phê bình văn học bởi tác giả đã đánh giá lại thành tựu và hạn chế của từng phương pháp phê bình do thực tiễn vận dụng các phương pháp phê bình đã chứng minh không có phương pháp nào là vạn năng.

2. Các kiến thức về phê bình văn học là những kiến thức chuyên ngành chỉ được một số người trong nghề quan tâm, do vậy, để “phổ thông hóa”, tác giả đã mở đầu cuốn sách bằng tiểu luận Phê bình văn học là gì? như là một dẫn nhập giúp những người đọc không chuyên bước đầu tìm hiểu những vấn đề tổng quát của phê bình như đối tượng, phân loại, vị thế… Đọc tiểu luận trên, còn có thể nhận ra những dòng chữ từ quá trình trải nghiệm công việc là cái “nghiệp” đã mang vào thân suốt mấy chục năm qua của tác giả. Sự nghiền ngẫm này không chỉ có lý thuyết suông mà đầy kinh nghiệm từ thực tiễn bởi Đỗ Lai Thúy không chỉ là người tổ chức giới thiệu các lý thuyết phê bình văn học qua các công trình như: Nghệ thuật như là thủ pháp (Lý thuyết văn chương của Chủ nghĩa hình thức Nga), NXB Hội nhà văn, 2001; Sự đỏng đảnh của phương pháp, NXB Văn hóa thông tin, 2004…; mà đồng thời còn là người thực hành phê bình phân tâm học và phê bình văn học từ văn hóa học.

Với lợi thế là một người thực hành, Đỗ Lai Thúy thành công khi nắm bắt “tướng tinh” của 13 nhà phê bình văn học Việt trong phần cuối của cuốn sách: Phê bình văn học Việt Nam, người đọc được/bị đọc. Thành công của các chân dung học thuật trên phải xuất phát từ hai điểm. Thứ nhất, những nhận xét chuẩn xác và ít nhiều mới mẻ ở một đối tượng cũ như bài viết về nhà phê bình văn học Hoài Thanh. Đỗ Lai Thúy ca ngợi Hoài Thanh là thiên tài phê bình văn học với tác phẩm kinh điển Thi nhân Việt Nam như bao người viết về Hoài Thanh trước đó, song điểm mới mà Đỗ Lai Thúy nói thêm là Hoài Thanh chỉ là thiên tài trong phương pháp phê bình ấn tượng mà thôi. Thứ hai, lối viết kết hợp giữa tính khoa học và nghệ thuật của Đỗ Lai Thúy đã khiến chân dung học thuật vốn đầy những luận điểm khô khan trở nên sinh động, mới mẻ hơn. Và như vậy, qua các bài viết chân dung, phần nào Đỗ Lai Thúy đã chứng minh cho quan niệm về phê bình văn học của ông: Phê bình là một con vật lưỡng thê!

________________________________________________________________

Thứ Hai, 18 tháng 4, 2011

Người thẩm thơ của một thời

Hoài Nam


Trước Cách mạng tháng Tám, với tập "Điêu tàn" xuất hiện giữa làng thơ Việt tựa như "một niềm kinh dị", Chế Lan Viên đã khẳng định mình như một trong số ít những thi nhân Thơ Mới có phong cách nghệ thuật thật độc đáo, có thể trụ lại trước dòng nước bạc của thời gian.
Sau Cách mạng, nhất là trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1975, Chế Lan Viên viết khỏe, viết đều, và dù luôn bám chắc mục tiêu phục vụ chính trị, thơ ông vẫn có những tìm tòi đổi mới rất đáng kể, đủ để ông đồng hành được và trở thành một trong vài nhà thơ lớn nhất của thời đại. (Với cá nhân tôi, về chất lượng nghệ thuật, tập "Ánh sáng và phù sa" của Chế Lan Viên (in năm 1960) xứng đáng được xếp vào "chiếu nhất" của thơ ca Việt Nam giai đoạn 1954-1960).
Không những thế, trong bối cảnh của một nền phê bình văn học cách mạng còn tương đối mỏng về đội ngũ, thì Chế Lan Viên- với kiến văn uyên bác, với tư duy chính luận sắc sảo, với bề dày của "văn hóa thơ", và nhất là với ý thức kiên trì đeo bám đời sống sáng tác- đã thực sự đóng vai trò của một cây bút phê bình thơ chủ lực, một người thẩm thơ đầy uy tín trên thi đàn. Nói đến di sản văn học của ông Chế, tất không thể bỏ qua mảng trước tác quan trọng này.
Nhìn vào các cuốn sách mà Chế Lan Viên đã cho in: "Nói chuyện văn thơ" (1960), "Phê bình văn học" (1961), "Vào nghề" (1962), "Suy nghĩ và bình luận" (1962- 1970), "Bay theo đường dân tộc đang bay" (1963- 1976)- đó là chưa kể đến các cuốn nằm trước và sau khoảng thời gian này: "Kinh nghiệm tổ chức sáng tác" (1951), "Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân" (1976- 1980), "Nàng tiên trên mặt đất" (1978- 1983), "Ngoại vi thơ" (1975- 1986)- ta sẽ thấy rằng sách của ông, ngoài một vài cuốn thực chất là sách phổ biến kiến thức văn chương, sách "dạy nghề" sáng tác, còn lại là tiểu luận phê bình văn học "chính ngạch", mà chủ yếu là viết về thơ.
Thêm một ghi nhận nữa: có lẽ Chế Lan Viên viết tiểu luận phê bình thơ còn nhiều hơn nhiều nhà phê bình, bình luận thơ cùng thời. Điều này, ngoài nhu cầu tự nhận thức vốn rất mạnh ở con người sáng tác Chế Lan Viên, còn có một lý do khá dễ hiểu: với uy tín văn chương và vị trí của một cán bộ "có gang có thép" trong làng văn nghệ, ông có nhiều điều kiện để được viết (và phải viết) hơn nhiều người khác.
Viết bài tựa cho các tập thơ theo đề nghị của nhà xuất bản. Viết bài bình luận thơ do các báo đặt. Viết tham luận nhân các hội thảo, hội nghị văn học trong và ngoài nước. Vậy, phê bình thơ của Chế Lan Viên thực sự là như thế nào trong khoảng 1954- 1975?
Để nói một cách ngắn gọn quan điểm của người viết bài này về phê bình thơ Chế Lan Viên (dù vì vậy mà không tránh khỏi đơn giản hóa vấn đề) có thể mượn nhan đề tham luận ông viết tại Đại hội các nhà văn năm 1963, "Suy nghĩ trong những điều Đảng nghĩ", diễn đạt thành: "Phê bình thơ trong những điều Đảng nghĩ".
Theo tôi, cây phê bình thơ Chế Lan Viên dù có rậm rịt cành nhánh đến đâu thì vẫn từ gốc này mà ra, nó là cái chủ đạo, xuyên suốt, "dĩ nhất quán chi" (một, nhưng bao trùm tất cả). Ngay trong tham luận này, ông tâm đắc trích dẫn tác giả Trường Chinh: "Nghệ sỹ tốt theo quan điểm của chúng ta là nghệ sỹ xã hội chủ nghĩa có tính Đảng cao, sống có lý tưởng, có hoài bão lớn: lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, hoài bão góp phần giải phóng cho nhân dân, giải phóng cho Tổ quốc, giải phóng cho loài người thoát khỏi mọi áp bức bóc lột..." và thư Trung ương: "Văn nghệ xã hội chủ nghĩa của ta phản ánh cái mới và đấu tranh cho cái mới thắng lợi. Không những nó chỉ thể hiện cuộc sống mới và con người mới, mà nó còn tích cực góp phần thúc đẩy cuộc sống mới phát triển, góp phần sáng tạo và giáo dục con người mới" (Bài đd. Chế Lan Viên toàn tập, tập IV, NXB Văn học, 2009. Các trích dẫn trong bài đều lấy từ toàn tập).
Đó là lời dặn, mà cũng là lời yêu cầu, thậm chí là mệnh lệnh đối với các văn nghệ sỹ cách mạng. Nó không nằm ngoài những quyết định luận cơ bản: văn nghệ phải cổ vũ ca ngợi cho công cuộc đấu tranh thống nhất đất nước và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng, văn nghệ phải hướng về công nông binh- lực lượng nòng cốt của cách mạng, những con người mới của xã hội mới- vừa như đối tượng phản ánh, vừa như đối tượng phục vụ.
Phê bình thơ của Chế Lan Viên, những phán đoán giá trị về thơ của ông, có thể nói, phần chủ yếu nhất chính là được xác định trong hệ tọa độ này. Chế Lan Viên từng viết, như một tuyên ngôn: "Vấn đề Đất đặt ra trước Hoa hồng. Vấn đề Sống đặt ra trước vấn đề Nghệ thuật, tác phẩm... Sống trước đã. Sống trong quần chúng và cùng quần chúng. Sống với ý thức làm người (và để làm văn). Chỉ sống như thế thì khi viết ra mới không là nghiêng bình rượu riêng, rót chén rượu riêng, nhấm nháp cuộc đời riêng của mình ngọt ngào hay chua xót, mà chính là đổ dầu vào guồng máy lớn, chuyển vần những sức sống chung, dựng xây vào cuộc sống chung" (Bài "Sống và viết", tập III).
Do vậy, dễ hiểu khi đứng trước một tập thơ, dường như điều khiến Chế Lan Viên quan tâm nhất là tác giả/ những tác giả của nó đã thực sự "sống" hay chưa- tức là đã thực sự cùng một chiều chiến đấu nghĩ suy với quần chúng, đã thực sự thấm những gian khổ và vinh quang trong sự nghiệp cách mạng của quần chúng, đã thực sự hòa làm một với quần chúng hay chưa? Nếu thực hiện được yêu cầu đó, thơ sẽ đạt tới hai giá trị lớn: "phản ánh lịch sử" và "thực".
Trong bài phê bình "Tuyển tập thơ Việt Nam 1945- 1960", khả năng phản ánh lịch sử của tuyển thơ chính là một trong những phẩm chất được Chế Lan Viên ghi nhận: "Chả cần phải tỉ mỉ để dẫn ra rằng: đọc "Nhớ máu", nhớ ngày Tổng khởi nghĩa; "Ngọn quốc kỳ", nhớ cách mạng bắt đầu; "Phá đường" lúc đi vào kháng chiến; "Ta đi tới" khi trở lại hòa bình v.v...
Nhưng quả là ta đi tìm thơ mà cũng gặp bước đường đi của lịch sử". Trong bài "Cái sáo trong thơ", ông trích mấy câu của tác giả NN tả giấc mơ của vợ một người chiến sỹ đã hy sinh: "Đứa con nửa đêm giật mình khóc/ Người vợ tưởng đâu còn năm trước/ Hơi thở của chồng ra ấm áo/ Quờ tay mới biết là chiêm bao/ Nhớ lại chồng xưa hay hút thuốc/ Mùi hơi năm ấy thoảng đi đâu", và bình luận: "Tả một giấc mơ, nhưng thật xa các giấc điệp mơ màng từ trước, thật là giấc mơ của một người đàn bà nông dân, chính vì tác giả đã hiện thực bằng những chi tiết rất sát đúng thực tế".
"Thực", tức không "sáo", là điều theo Chế Lan Viên ai làm thơ cũng có thể đạt được, với điều kiện: "Cái chính là nói cho đúng cái sống thực của quần chúng công nông binh, với những tâm tình sự việc cụ thể". Muốn vậy, người làm thơ tất không thể không "sống trong quần chúng và cùng quần chúng" (Bài "Sống và viết", tập III).
Nhưng chỉ như vậy đã coi là đủ chưa? Năm 1961, viết "Mấy vấn đề về thơ qua Tuyển tập" (Tuyển tập thơ Việt Nam 1945- 1960), sau khi đã gác sang một bên những trường hợp thành công, Chế Lan Viên băn khoăn về đại cục: "Tôi có cảm tưởng là những nhà thơ chúng ta chưa thật nhuần nhuyễn với thời đại chúng ta, như những nhà thơ thời Thơ Mới đã nhuần nhuyễn với giai cấp của họ, hoàn cảnh của họ".
Ông lý giải băn khoăn này bằng cách nêu một băn khoăn khác: "Ta đã hiểu thời đại ta rồi, tốt lắm. Ta đã yêu thời đại ta rồi, tốt hơn. Nhưng ta còn phải "mê" thời đại của ta hơn nữa. Lý trí, tình cảm ta đã gắn liền với nó, nhưng còn máu huyết, thịt da ta?". Theo ông, "thơ cần phải mê hơn", và "thơ cần có thêm chất tư tưởng".
Yêu cầu thứ nhất dường như thuộc về phạm trù tình cảm. Nhưng yêu cầu thứ hai thì rõ ràng là thuộc về phạm trù nhận thức, lập trường chính trị. Và ở yêu cầu thứ hai này, hơn ở điểm nào hết, Chế Lan Viên quả thực đã giữ vị trí của một chiến sỹ hăng hái đấu tranh trên mặt trận văn hóa văn nghệ, dùng phê bình thơ như một lợi khí.
Năm 1965, viết bài tựa cho tập thơ "Sức mới" của các tác giả trẻ thời chống Mỹ (Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Vũ Quần Phương, Phạm Ngọc Cảnh v.v...), ông đòi hỏi: "Chúng ta cần thấy chất thép sắc nhọn hơn, và tiếng xung phong hào hùng hơn trong thơ các bạn. Phải cất cao hơn tiếng nói của lý tưởng cách mạng trong thơ. Cái lý tưởng thôi thúc ám ảnh đến thành một tâm trạng" (Bài "Đốt cháy hơn nữa ngọn lửa lý tưởng trong thơ bạn trẻ", tập IV).
Với thơ của những người thợ, cũng vẫn đòi hỏi ấy: "Thơ công nhân lại càng nên có thép. Cái nhiệt huyết, cái tâm hồn nóng bỏng vì yêu thương hay căm giận, cái tinh thần chiến đấu, cái hào khí cách mạng, tất cả các cái ấy, chất thép ấy, ta còn đòi hỏi nữa ở trong thơ các bạn, như ở trong thơ nói chung" (Bài "Thơ của thợ", tập IV).
Không thể không nói tới Chế Lan Viên ở mảng phê bình về thơ của những người cùng thế hệ, cùng điểm xuất phát với ông: những nhà thơ trong phong trào Thơ Mới lãng mạn. Cụ thể, Chế Lan Viên đã viết bài "Trời mỗi ngày mỗi sáng của Huy Cận" (1959, tập III) và bài "Một nhà thơ qua 15 năm cách mạng: Tế Hanh" (1960, tập III).
Tuy nhiên, rải rác ở nhiều bài khác nhau, nếu có thể, ông vẫn cố gắng tạo ra những liên hệ, đối chiếu giữa thơ lãng mạn trước kia và thơ cách mạng bây giờ, giữa thơ của những tác giả trước kia là lãng mạn và bây giờ là cách mạng.
Chú ý tới giọng điệu, phong cách, cá tính sáng tạo riêng của mỗi nhà thơ, song khi viết về những tác giả này, Chế Lan Viên quan tâm hơn cả là quá trình lột xác của họ, quá trình họ gột rửa cái cũ để hòa mình vào cái mới, sống với cái mới, thấm cuộc sống lao động và chiến đấu của quần chúng, của toàn dân tộc.
Trong sự nhìn nhận của nhà phê bình Chế Lan Viên, sự thay đổi này- chứ không phải cái gì khác- chính là thước đo giá trị nghệ thuật cơ bản nhất đối với thơ của những nhà thơ "cũ". Ông vui mừng trước sự thay đổi ấy: "Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh, nữ thi sỹ Anh Thơ... là những người từ thế giới một người đến với thế giới nhiều người, từ thung lũng đau thương ra đến cánh đồng vui, là những người xưa kia tự xé da thịt mình, nay đi vá lại thịt da và xây dựng mùa xuân" (Bài "Từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui", tập III).
Vượt lên chính mình, những nhà thơ "cũ" đã nhịp bước cùng thế hệ nhà thơ "mới", đồng hành cùng dân tộc và góp phần làm nên một nền thơ cách mạng tràn đầy sức sống, điều khiến Chế Lan Viên có thể tự hào tuyên bố trước bạn bè quốc tế: "Đất nước chúng tôi giờ chính là tâm hồn chúng tôi. Và tâm hồn chúng tôi giờ chính là một mảnh đất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Giữa những người làm thơ và bạn đọc có một sự liên hệ mới.
Các tập thơ đều in từ 5.000 đến 8.000 bản mỗi lần, thơ Tố Hữu in 6 vạn bản, và thơ Hồ Chủ tịch một năm in 50 vạn bản. Bởi vì không còn cái chia rẽ một bên là tâm hồn các tác giả, một bên là những người đọc họ. Có được những sự kiện ấy là nhờ có chủ nghĩa Marx và Đảng Lao động Việt Nam. Mon Parti m'a rendu les yeux et la mémoire, Đảng làm nên đất nước là cái đề tài vô tận. Đảng lại làm nên con mắt vô tận để nhìn và yêu mến đời sống mới của đất nước" (Bài "Từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui", tập III).
Chế Lan Viên là một nhà thơ viết phê bình chứ không phải một nhà phê bình viết phê bình, song với những gì ông viết, thật gượng ép nếu đưa phê bình thơ của ông vào cái khung "phê bình nghệ sỹ"- theo một sự phân loại về phê bình văn học đã khá phổ biến. Ngày nay hiếm ai còn nhìn thơ bằng "con mắt phê bình" kiểu Chế Lan Viên.
Nhưng ở thời của ông, điều đó là cần thiết- xin nói thêm rằng đại đa số những vấn đề Chế Lan Viên "sờ tới" đều là những vấn đề nằm ở trung tâm của nền thơ ca đương thời- và dẫu sao thì cũng khó lòng làm khác đi được. Trong bối cảnh ấy, trong sự chế định lịch sử ấy, cần phải khẳng định rằng Chế Lan Viên đã xuất hiện với tư cách nhà thẩm thơ lớn của một thời

________________________________________________________

Siêu sinh

Truyện ngắn của Phạm Thuận Thành


Kinh Bắc hai tướng đàn bà
Vợ ba Đề Thám, vợ ba Cai Vàng
(lời hát xẩm chợ Kinh Bắc)

(*) Không phải là lột xác mà là thay đổi hoàn toàn. Đúng, nàng thay đổi hoàn toàn, thay đổi từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên. Mái tóc dài như tiếng ngân Quan Họ bị cắt không thương tiếc, chỉ có mùi hương sả hương lá chanh hương bồ kết là không cắt được. Tóc cắt xong thì không còn là khuôn mặt tiểu thư quận chúa đẹp xinh nữa mà chỉ còn là cái sọ người. Y phục cũng thay đổi. Nhung lụa thay bằng giáp trụ rồi lại thay bằng nhung lụa để nàng ra dáng tiểu thư quận chúa đẹp xinh, và bây giờ là nâu sồng, chỉ nước da trắng hồng nõn nà mỡ màng là không lột thay được. Tiếng nói cũng thay đổi. Không còn là thủ thỉ tâm tình, không còn là quát thét ra lệnh, không còn là ru hỡi ru hời nữa, mà là một giọng nói đều đều vô cảm và những lời rất vô nghĩa với người bình thường mô Phật mô Phật mà chính người nói cũng chẳng hiểu ý nghĩa mô Phật là gì. Cứ nói. Người ta ở đây đều nói thế cả. Mô Phật. Chỉ có đóa hồng hàm tiếu phát ra giọng nói là không đổi. Quan trọng nhất là suy nghĩ cũng thay đổi. Không còn hào khí giành lại ngai vàng mấy đời nối nhau nổi dậy mà chưa giành lại được. Không còn sục sôi báo thù cha báo thù chồng báo thù nghĩa sĩ tử trận nữa. Mà là cam phận mô Phật. Suy nghĩ thay đổi nhưng bộ óc người thì không thay đổi được. Nàng chịu bỏ tất thảy để thay đổi bản thể mình. Chiến đấu không phải việc của đàn bà. Đàn bà là biểu tượng yên bình, là chỗ dựa của yên bình. Còn nàng là đàn bà, vậy nàng đi tìm yên bình cho mình ở chỗ mô Phật.

Ngày nào xã trưởng cũng đến xem nàng có thực mô Phật không vài lần. Xã trưởng đang lên. Dám sai trương tuần rào làng rấp cổng chống lại đoàn quân hùng hậu. Đáng biểu dương Mỹ tục khả phong và đã được đức vua ngự bút phong biển biểu dương. Đáng được hàm cửu phẩm văn giai và đã được ban cửu phẩm văn giai. Vinh thân vinh hương đáng lắm. Cái làng cô độc giữa biển lúa đã cầm chân đoàn quân để đại tướng Nguyễn Tri Phương điều binh tiêu diệt chỉ trong một trận huyết chiến không cân sức. Quân nghĩa chỉ có thể đánh lớn ở miền rừng căn cứ, thất thế thì rút vào rừng sâu núi đỏ, yên yên lại kéo nhau về hợp thành quân đội. Giữa đồng lúa mênh mông quân nghĩa chỉ còn nước chết. Chủ tướng Cai Vàng cũng chết trong đám loạn quân. Ngọc rắn ngọc trăn cũng chỉ hiệu nghiệm nơi rừng núi như con rắn con trăn có đất rừng dụng võ. Nàng dẫn quân cứu viện đến không kịp. Viên đại tướng đánh tốc chiến quá. Nàng ôm xác chồng đòi báo thù. Nhưng đánh ai, chẳng lẽ quân nghĩa lại chém giết dân lành. Mất chủ tướng nàng đành ra lệnh bãi binh, ôm con về chính cái làng làm tan rã cả một đoàn quân ấy xin mô Phật. Đại tướng Nguyễn Tri Phương bằng lòng, nhưng yêu cầu ngày nào xã trưởng cũng phải đến kiểm tra, mỗi tháng một lần nàng phải đến dinh tổng đốc trình diện. Con gái phải giao cho xã trưởng nuôi như con, nghĩa là nàng buộc phải gắn số phận mình với người anh hùng làng kia. Xã trưởng vừa sợ nàng nổi đóa báo thù, vừa thích ngắm nhìn khuôn mặt tiểu thư quận chúa đẹp xinh, dáng người thắt lưng ong đang chớm sang tuổi băm chín chắn, vừa phục người con gái đẹp xinh mà võ nghệ cao cường tài trí hơn người, vừa muốn thể hiện oai quyền trấn ngự viên nữ tướng hùm thiêng sa hố. Mặc xác xã trưởng nghiêng ngó nàng chỉ một mực mô Phật. Nàng mô Phật cho lòng mình yên bình và cho cả xã trưởng yên tâm vững dạ. Mô Phật đủ cứu vớt chúng sinh, đủ làm cho nước sôi nguội lại, đủ làm cho lửa cháy lụi tàn, đủ làm cho dục vọng không còn sức quẫy đạp.

(*) Tư tưởng nhất thống thiên hạ bị kìm nén quá lâu ngày quá lâu đời nên nó lặn vào trong từng đường gân thớ thịt thành truyền kiếp trong dòng giống nhà nàng. Vẫn ngồi trên ngôi cao nhất, chú ngoài chúa trong xưng phục nhưng từ khi chưa phục quốc đã chỉ là hư vị không quyết được điều gì. Đến quyết từ bỏ ngôi cao cũng không xong, chạy trốn thì bị bắt về cho chén rượu độc. Kẻ dưới sợ mưu phản, sợ kẻ khác lợi dụng cái danh hoàng triều chính thống đánh lại. Thế tử kém một bậc không được ngồi ngang mâm thì thế tử bẻ gãy đũa ra tay hạ sát thái tử. Cúc cung nghe lời thì phải lấy vợ lại cô quận chúa đã có bốn con hoặc giả ngây giả ngô có chúa lo hộ rồi ta chỉ biết gật theo ý chúa thôi. Rõ từ lâu chỉ là ông bụt cho chúa thờ để chúa được ăn oản. Ngồi trên thiên hạ chỉ để xem người ta chia nhau thiên hạ của mình. Ức không. Ức quá đi chứ. Đời nọ truyền đời kia tâm nguyện nhất thống thiên hạ. May quá có Bằng công đem loạn quân Tây Sơn ra giúp lật đổ ách chuyên chế độc tài gia đình trị của họ Trịnh đã án ngữ vững chắc mấy trăm năm. Nhưng khổ thay, cái ách quá nặng đã ngấm vào máu thịt mọi kẻ có quyền mất rồi, đuổi hổ cửa trước lại rước beo cửa sau mà thôi. Bằng công vào phủ ngồi lập tức ti toe làm chúa, đến nỗi dân Tây Sơn cũng không chịu nổi. Tây Sơn đem quân ra thì nhớ câu ta trăm trận trên lưng ngựa mới đoạt được thiên hạ sao có kẻ cứ ngồi không mà ở trên cao là thế nào. Câu nói của Thái tổ nhà nàng sau hội thề Đông Quan đấy. Câu nói ấy bây giờ là chúa Tây Sơn nói cũng chẳng có gì đáng phàn nàn nổi. Hoàng đế Chiêu Thống tuổi trẻ tài cao chí lớn đã làm cuộc nhất thống thiên hạ dù phải bôn ba hiểm nguy năm tháng nơi rừng hoang đồng nội ngoài cung cấm. Chết mục xác nơi đất khách quê người mà trái tim đầy uất hận truyền kiếp mấy trăm năm không thể tan rữa được. Đúng là vị hoàng đế chí lớn.
Đến khi cha nàng lớn lên chẳng còn vương vị, chẳng còn bổng lộc, chẳng còn văn thần võ tướng, chỉ còn thanh gươm và cái ấn ngọc truyền quốc với ý chí nhất thống thiên hạ ngấm vào đường gân thớ thịt không thể gột ra. Vẫn quy tập móc nối. Thần tử người quá già, người ra làm cho triều mới, quanh vị thân vương chẳng thấy có nhân tài hào kiệt. Mấy tay ngổ ngáo đã là tráng sĩ. Đến khi có thầy đồ hay chữ thất sủng ở kinh thành về dạy học ở Quốc Oai chịu ra làm quân sư thân vương liền phất cờ trung hưng phục quốc. Lê triều Mỹ Lương chẳng được mấy ngáp. Nàng đang tuổi bẻ gãy sừng trâu cũng được cử làm tướng đánh thắng liền mấy trận. Triều đình cử danh tướng Nguyễn Tri Phương đến. Tướng như nàng cũng nghênh địch như thường. Tướng địch đến chẳng lẽ tướng ta không nghênh chiến. Đường gươm của nàng biến hóa là thế nhưng không địch nổi một đao của tướng địch, cả người lẫn ngựa ngã quay lơ trước trận. Danh tướng túm tóc tướng giặc thấy chỉ là con bé mặt non choẹt thì tha cho về bảo chủ tướng cử đại tướng ra đánh một trận cho hả kẻo mang tiếng danh tướng Nguyễn Tri Phương vào nam ra bắc trăm trận trăm thắng. Nàng thu quân về trận nói lại lời tướng địch. Thân vương chủ tướng gầm lên xách đại đao lên ngựa, phía sau là quân sư thất sủng. Trước trận quân sư giảng đạo lý thuyết phục tướng địch quay giáo về với Lê triều làm khai quốc công thần dại gì đi giúp tôi thần của Lê triều thoán vị chủ cũ. Tướng địch là người có học, hiểu đạo lý đáp rằng thái tổ triều ta trăm trận trên lưng ngựa mới được nước từ tay giặc Tây Sơn, còn nước của nhà Lê đã mất từ lâu sao bây giờ còn đòi. Triều ta luôn tôn trọng triều cũ có bắt bớ trả thù người nào đâu, trừ những kẻ đã cúi lạy giặc Tây Sơn. Thôi thầy biết điều thì về mà bái hoa mai, chủ tướng biết điều thì về cày cuốc ta tha cho, coi như các ngươi thao luyện dân quân xin giúp triều đình lên ải bắc tiễu phỉ cờ đen cờ vàng phương bắc thất trận tràn sang. Quân sư chủ tướng không biết nói sao. Chủ tướng xông ra múa đao coi như thao luyện cùng đại tướng triều đình. Đại tướng tưởng chủ tướng giặc ngoan cố cho một đường đao đầu bay lông lốc dưới chân đồi Mỹ Lương. Quân sư thầy đồ kêu thét lên đừng đánh, chủ tướng xin hòa rồi, ngài nghe ra rồi, ngài chỉ muốn thao luyện quân mã thôi. Đại tướng Nguyễn Tri Phương đành bắt một tên lính cho mặc quần áo quân sư đem chém, còn tha hết mọi người về quê làm ăn. Quân sư thầy đồ thì xuống tóc mô Phật, vĩnh viễn mai danh ẩn tích, vĩnh viễn sám hối trong giáo lý Như Lai.


Nàng mang gươm báu cùng ấn truyền quốc lên ải bắc tiễu phỉ. Gặp ông chánh Thịnh cũng mộ dân quân đi đánh phỉ ở vùng Phượng Nhãn. Họ sáp nhập làm một đạo quân, đánh đâu được đấy, làm chủ vùng Bắc Giang - Lạng Sơn - An Quảng. Có đất có quân nàng lại nổi máu nhất thống thiên hạ cha ông làm dang dở. Nàng chịu làm vợ ba ông chánh Thịnh để xúi ông nổi máu anh hùng giúp mỹ nhân đoạt quốc. Có lễ tế cờ hẳn hoi. Chọn đúng ngày hè đầu mồng bốn tháng tư. Đánh mấy trận nhỏ trong vùng lấy nhuệ khí bách chiến bách thắng. Đây chính là vùng đất hoàng tổ Chiêu Thống bôn tẩu làm cuộc nhất thống khi xưa, nay thấy có cháu hoàng đế tế cờ phục quốc. những anh hùng ẩn thân kéo ra như nước về chỗ trũng. Mọi người mặt tươi như hoa mừng ngày Lê triều phục hưng tới vận. Nuôi quân đãi tướng một thời gian. Hẹn ai có quân công sẽ được làm quận công hầu tướng nắm chính phủ sau này. Rồi chia hai đạo quân thẳng tiến lấy lại kinh thành Thăng Long. Chủ tướng chồng đánh phía Siêu Loại, Tiên Du. Chủ tướng vợ tức là nàng đánh phía Kim Anh, Phủ Lỗ vòng sang đất bản bộ Sơn Tây lấy thêm quân cũ. Hai đạo quân như hai gọng kìm lấy kinh thành như lấy vật dùng trong túi. Nàng tin quân thần Lê triều sẽ ra giúp như ở đất Kinh Bắc vừa rồi. Vậy mà có một ngôi làng chơ vơ giữa đồng không mông quạnh dám rào giậu ngăn bước tiến của chủ tướng. Lại gặp sát tinh Nguyễn Tri Phương. Gặp lại người quen cũ, danh tướng đương triều ôn tồn bảo: ta đã tha cho cháu một lần, nay ta lại tha cho cháu lần nữa. Nếu cháu vẫn cố đánh ta học theo Gia Cát bảy lần tha Mạnh Hoạch, bao giờ cháu hiểu được đạo lý thì thôi. Triều đại đổi thay là ý trời, cháu cố chống trời thì chống sao nổi. Thuận thiên thì sống chống thiên thì chết. Cháu đã làm cho bao nhiêu người mê muội chết rồi, sao cháu không có một chút đức hiếu sinh ư? Cháu là đàn bà phụ nữ, là mẹ trẻ con cháu không đau lòng khi thấy con mình chết một cách vô nghĩa ư? Dân đang yên đang lành làm ăn chỉ vì nghe cháu mà bây giờ thây chết đầy đồng đây. Cháu thử nghĩ xem họ chết có phải do ở cháu hay do ở quân triều đình đây?
Lần thứ hai được tha, nàng dẫn quân rút về căn cứ. Nàng biết thân gái dù anh hùng đến đâu cũng không thể đoạt nước được. Nếu gá thân với người khác mưu nghiệp lớn thì đâu còn danh tiết nữa. Không phải ngôi thái hậu như Dương Vân Nga. Không có đường tiến thì còn đường lùi. Hoàng tổ khi xưa có đủ văn thần võ tướng vẫn không làm nên cuộc nhất thống, cùng đường cầu viện quân Thanh cũng không ở kinh thành quá hai tháng. Một viên đại tướng Nguyễn Tri Phương mình đã không địch nổi thì địch làm sao nổi cả nước của người ta được. Cố vùng vẫy chỉ làm hại thêm sinh linh mà thôi. Mấy phen vùng vẫy vừa qua làm chết không ít người rồi. Đại tướng nói có phần đúng. Quân hai bên chết quả là vô ích, chẳng lẽ họ chết chỉ để mình nhận ra một điều là ánh tà dương của triều cũ không thể trung hưng như thời Hưng quốc công Nguyễn Kim được nữa. Ý chí nhất thống thiên hạ ở trong người thì chưa hại người, một khi ý chí ấy thò ra ngoài thì người chết như rạ. Ý chí kia khác nào ma quỷ. Mà ma quỷ thì chỉ có Phật tổ mới khống chế được. Nàng đến quân doanh đại tướng thỏa thuận việc bãi binh. Quân của nàng vẫn chỉ là dân quân tiễu phỉ. Cuộc tiến quân về kinh thành chỉ là truy kích tàn quân phỉ. Hết phỉ thì họ lại về làm dân, được triều đình chu cấp lương bổng hẳn hoi. Người nào đã chết thì được tiền tuất. Riêng nàng xin được về chính cái làng làm nàng ngộ đạo lý kia để mô Phật.
(*) Vậy là nàng xuống tóc. Mỗi nhát kéo tóc nàng cụt đi một ít, ý chí nhất thống thiên hạ trong nàng cũng cụt đi một ít. Khi tóc hết thì ý chí nhất thống trong nàng cũng hết. Bây giờ nàng đêm ngày chỉ kinh kệ để siêu sinh cho những người đã chết vì sự ngộ đạo của nàng. Một lần đi trình diện, đại tướng đương triều chợt hỏi: số người đã chết là bao nhiêu? Bao nhiêu người có gia đình thờ cúng? Bao nhiêu người còn bị coi chết như giặc vô thừa nhận? Sao sư cô không lập một ngôi miếu âm Hồn gần chùa để hương khói cho họ nhỉ? Đại tướng nói đúng những điều bấy lâu nàng còn áy náy về những sinh linh làm nhiệm vụ lát đường cho nàng đạt đến giác ngộ niết bàn. Đúng vậy, nàng cần phải hương khói cho họ trả ơn họ.
Từ bấy người ta luôn thấy một sư cô lầm lũi đi các làng quê nơi quân Cai Vàng đi qua dò hỏi và cải táng những mộ giặc vô thừa nhận. Có lần sư cô bị mấy kẻ phàm phu tục tử giở trò cưỡng đoạt nơi đồng không mông quạnh. Sư cô chỉ mô Phật mong họ tránh được lầm lỗi. Nhưng những kẻ bị quỷ ám thì lời Phật suông không giác ngộ được. Sự giác ngộ cũng đau đớn lắm chứ đâu đơn giản chỉ là mô Phật. Cũng như đổi một sự giác ngộ cho nàng phải bằng mấy cuộc binh đao đó. Kẻ mạnh nơi đồng vắng trước một tiểu thư quận chúa thì mô Phật sao đủ xua ý nghĩ ma ám trong họ đi được. Hai kẻ sấn sổ luồn tay vào ngực nắn nắn đào tiên đang độ. Nàng đành phải giở công phu đánh ngã hai kẻ sấn sổ nhất rồi phi thân vọt qua con suối rộng cả chục thước thì bọn họ mới vội quỳ sụp khấu lạy tha mạng. Bọn họ vẫn biết có một nữ tướng tài giỏi cải trang hoạt động tiễu phỉ trong vùng. Phải là người võ nghệ cao cường lắm lại có lòng vì dân vì nước lắm thì mới một thân hoạt động tiễu phỉ nguy hiểm như vậy. Mấy kẻ phàm phu tục tử quỳ xin tha mạng rồi lại xin được đi hộ giá giúp nàng. Họ cũng chỉ là những kẻ vô công rồi nghề làm việc bất thiện, nay hối cải đi làm việc thiện. Như nàng. Giúp nàng. Công việc quy tập thi hài nghĩa sĩ tiến triển nhanh hơn.
Ngày khánh thành ngôi miếu âm Hồn xã trưởng Đại Trạch rất ngạc nhiên khi thấy có quan phụ tá tổng đốc mang đến tặng sư cô một đôi liễn sơn son thếp vàng lộng lẫy treo ở trước ban thờ chính điện. Dòng lạc khoản ghi rõ: Nguyễn Tri Phương tổng đốc đề. Đọc xong nội dung đôi liễn xã trưởng vã mồ hôi hột, bao ý nghĩ sàm sỡ bay biến lúc nào không biết. Nội dung đôi liễn thế này:
Tiểu cát phục nhung y kị mã huy kỳ danh trấn anh hùng nhân Kinh Bắc
Xuất gia quy thiền phái chiêu kinh tịch kệ giác chân đức độ Phật Như Lai.
(Nghĩa là: Thân gái yếu đuối mà làm tướng giỏi, nổi tiếng là anh hùng của đất Kinh Bắc/ Khi tu hành theo đạo Phật chăm đọc kinh kệ thông hiểu hết đức độ của Phật tổ Như Lai).
Nàng hiểu ý đại tướng tổng đốc. Có câu đối mà không có hoành phi thì thiếu, khập khiễng quá. Đại tướng tổng đốc muốn dành cho nàng phần việc này để tỏ chí mình. Những người chết thờ ở miếu âm Hồn này không chết vô ích. Cái chết của họ làm thức tỉnh lòng thiện của người còn sống. Nàng chính là người phải làm nốt những phần việc thiện mà những người đã chết ở đây chưa thể làm vì họ mới làm được việc thức tỉnh cho nàng.
Nàng cho làm bức hoành phi treo trước chính điện miếu âm Hồn có viết bốn chữ: Xả thân cứu thế.
Từ ngày có miếu âm Hồn, xã trưởng Đại Trạch thấy một điều kỳ lạ xảy ra ở đó. Ban ngày thì đôi câu đối phát ánh hào quang rực rỡ, còn ban đêm thì bức hoành phi lại phát ra ánh hào quang chói lọi. Không đèn nến mà phát sáng mới lạ.

(*) Cho đến tận bây giờ người già ở Đại Trạch vẫn khẳng định hiện tượng phát sáng đó là có thật. Lạ một điều là ngôi miếu không còn nhưng hiện tượng phát sáng ở đó vẫn chưa hết. Có người bảo đó là do thanh gươm báu chôn ở mộ chủ tướng Cai Vàng phát sáng chiếu vào hoành phi câu đối. Có người bảo ánh sáng phát ra từ ở lòng người, nên dù miếu không còn thì ánh sáng vẫn không hết được.

___________________________________________________________

Hữu Loan: Nếu chiều mưa một cây đàn ghi-ta

NGUYỄN ĐỨC TÙNG

Nếu chiều mưa một cây đàn ghi-ta có ai cầm lên, ngân vài nốt nhạc, thời gian sẽ chậm lại, mọi người ngồi gần vào nhau, im lặng chờ nghe.

Đó là ký ức của tôi về một buổi chiều năm 1975, đầu thu, nhà tôi có người khách lạ, bạn của anh tôi. Anh mang theo cây đàn ghi-ta, gói trong vải bọc. Anh cho biết ngày mai trình diện theo lệnh tập trung cải tạo đợt cuối, trễ, dành cho sĩ quan cấp úy, không biết khi nào về. Anh bảo, mình sẽ hát một bản cuối cùng, không bao giờ chạm tới cây đàn nữa. Ngày ấy “nhạc vàng” bị cấm gắt gao. Đổi đời, chấm dứt lãng mạn. Tôi đề nghị anh hát Ngày xưa Hoàng Thị. Trời sắp tối, cả bọn lưu luyến ngồi thêm một lúc. Sau lưng anh, cửa sổ mở ra nền trời mây đục, man mác trước cơn mưa, cảm giác chia biệt. Anh muốn hát một bài trước khi ra về, dặn tôi, là đứa trẻ nhất, nghe kỹ. Đó là bài Áo anh sứt chỉ đường tà, Phạm Duy phổ nhạc Màu tím hoa sim. Lần đầu tiên tôi nghe trọn vẹn bài hát này.Chiều hành quân qua những đồi sim những đồi sim những đồi sim đồi tím hoa sim tím cả chiều hoang biền biệt.

Thật ra lúc chín, mười tuổi tôi đã nghe Phương Dung hát Những Đồi Hoa Sim của Dzũng Chinh, từ một chiếc máy quay đĩa của hãng Asia. Trên các tạp chí cuối những năm sáu mươi, tôi cũng đọc một số tác giả viết về Hữu Loan. Đang hát thì trời mưa, rào rào trên mái, trận mưa đầu mùa. Nhạc Dzũng Chinh đơn giản, xúc động, nhạc Phạm Duy bi thương, hùng tráng. Có lẽ người bình dân thích điệu rumba lãng đãng của Dzũng Chinh, người tâm sự buồn thích cái phức tạp, biến điệu, sang trọng của Phạm Duy. Thế là từ sớm, đầu những năm sáu mươi, nhiều người đã biết bài thơ của Hữu Loan là do các ca khúc. Theo nhiều tài liệu, bài thơ này được công bố lần đầu trên báo Trăm Hoa của Nguyễn Bính năm 1956 ở Hà Nội, nhưng ấn bản hạn chế. Tôi chưa từng được đọc bài thơ ấy in trên giấy trắng mực đen mãi cho đến sau này. Tôi nghĩ nhiều người cũng vậy. Năm 1978, đi lao động tập trung trên công trường Nam Thạch Hãn, trong một đêm lửa trại, tôi nghe vài thanh niên và bộ đội tham gia công tác thủy lợi hát bài Áo anh sứt chỉ đường tà xen giữa những bài Trường Sơn đông Trường Sơn tây, Dáng đứng Bến Tre, Người đi xây hồ Kẻ Gỗ.

Các nhạc sĩ khi phổ thơ phần nào sửa đổi, lược bớt, không giữ nguyên bản. Nhưng bài thơ vẫn chinh phục lòng người. Vì sao? Trước hết là vì câu chuyện được kể từ bài hát. Xưa nay trong tình yêu sự chia ly nào cũng xúc động. Chia ly tột cùng là cái chết. Chúng ta đề cập đến câu chuyện, bởi vì bài thơ của Hữu Loan là một trong những bài thơ trữ tình - tự sự đầu tiên của thơ Việt Nam nửa sau thế kỷ hai mươi. Tôi nghiệm thấy một tác phẩm càng nổi tiếng, nó càng được ít đọc một cách cẩn thận.

Nàng có ba người anh đi bộ đội

Trong thơ, câu mở đầu là câu đặc biệt. Thơ trữ tình là tiếng nói cá nhân, là tâm sự của mình với chính mình. Thơ tự sự là nói cho người khác nghe.

Bảy năm về trước em mười bảy (Vũ Cao)

Là trữ tình mà không trực tiếp.

Năm năm rồi không gặp/ Từ khi em lấy chồng (Nguyễn Văn Bình)

Trữ tình hơn, nói với người yêu.

Còn: “Nàng có ba người anh đi bộ đội”, là một câu thơ tự sự, nói cho thiên hạ nghe.

Bài thơ tự sự càng có tính trữ tình thì câu mở đầu càng quan trọng, và ngược lại. Hữu Loan đã chọn phương pháp dẫn vào chuyện với nhân vật chính (nàng) mà vẫn giới thiệu được gia đình. Hiệu ứng của ba câu đầu:

Nàng có ba người anh đi bộ đội/ Những em nàng/ Có em chưa biết nói

Nằm ở chỗ sự khác lạ của trường hợp: người vợ trẻ có đến ba người anh đi bộ đội, nhưng các em lại còn nhỏ vừa sinh ra đời. Trong văn chương, sự thật chinh phục chúng ta nếu nó xuất hiện một cách không quen thuộc. Tôi phân vân về khoảng cách quá dài giữa các con đầu và các con sau trong một gia đình, chuyện có đến ba người anh đi bộ đội và những người em chưa biết nói, nửa tin nửa ngờ. Đến nay tôi vẫn còn nhớ nỗi thắc mắc về việc người vợ trẻ có một đứa em hay nhiều hơn một đứa em. Cách đây năm mươi năm những sự thực về đời sống riêng của Hữu Loan chưa được tiết lộ.

Câu chuyện gồm các nhân vật. Những người anh, người em, người vợ trẻ, người mẹ, người chồng, người kể chuyện. Có hai câu hỏi: vì sao ta biết người kể chuyện là nhân vật? Vì người kể chuyện ở ngôi thứ nhất và cũng tham dự vào câu chuyện như một nhân vật. Vì sao ta biết người kể chuyện chính là tác giả? Có hai cách để biết như thế: văn bản và ngoài văn bản. Tiểu sử Hữu Loan. Vào những năm 1960 không ai biết rõ tiểu sử ấy cả, nhưng tôi cho rằng hầu hết người nghe đều tin tác giả đang kể chuyện của đời mình. Đó là nhờ giọng trữ tình mạnh của bài thơ tự sự. Một so sánh:

Ai bảo chăn trâu là khổ/ Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao (Giang Nam)

Có ấn tượng rằng “tôi” cũng chính là tác giả, nhưng mối liên kết này không mạnh bằng trường hợp Màu tím hoa sim (MTHS). Mức độ trữ tình càng mạnh thì mối liên kết càng chặt. Nhưng mặt khác, có người có thể nghĩ rằng tự sự và trữ tình trái ngược nhau, tính tự sự mạnh thì tính trữ tình giảm bớt và ngược lại. Điều đó không đúng. MTHS vừa mạnh về trữ tình vừa rất mạnh về tự sự, chúng không loại bỏ nhau. Giả thiết rằng nếu sự thật Hữu Loan không phải là nhân vật tôi trong bài thơ, cũng như Giang Nam không phải là nhân vật tôi trong bài Quê hương, sự “thất vọng” ở người đọc sẽ lớn hơn trong trường hợp Hữu Loan, vì liên kết càng mạnh, bẻ gãy càng chấn thương. Chúng ta có thể “thở phào nhẹ nhõm” về trường hợp Hữu Loan. Nhưng cho đến nay tôi vẫn chưa thấy có bằng chứng nào cho biết Giang Nam ngày xưa có đi chăn trâu không, mà nếu ông có đi chăn trâu thì cũng chưa chắc đó là nguyên nhân dẫn đến việc đi làm “cách mạng”. Bởi vì: ai bảo chăn trâu là khổ?

Trong thơ Việt Nam, giữa những bài thơ khác nói về nỗi bi thương sau cái chết của người thân: Gửi người dưới mộ của Đinh Hùng, Đám tang Nguyễn Duy Diễn của Nguyên Sa, Quê hương của Giang Nam, Núi Đôi của Vũ Cao… bài Màu tím hoa sim nhắc đến nhiều nhân vật hơn cả. Tôi nói nhắc nhưng thật ra với nghĩa là các nhân vật đó có tham gia hành động, tức là trong cấu trúc của câu chuyện. Những người anh:

Một chiều rừng mưa/ Ba người anh/ Từ chiến trường Đông Bắc

Là một hình ảnh, không chỉ là sự đưa đẩy của cốt truyện. Lúc đọc, người ta nghĩ về một thời ly loạn, một vùng chiến khu rừng núi âm u, rét mướt, mưa rừng bao phủ, mặc dù có thể chẳng biết Đông Bắc là đâu. Những người em không chỉ là nhân vật hậu trường: họ có đời sống riêng của mình.

Đứa em nhỏ lớn lên/ Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị

Nhỏ quá nên không biết khóc, chưa biết đau thương.

Hình ảnh người mẹ: Má tôi ngồi bên mộ con/ Đầy bóng tối

Má là thật, mặc dù tôi chẳng biết tại sao Hữu Loan gọi mẹ bằng má. Là một người đọc, tôi tin như thế. Đó là sức mạnh của sự thuyết phục. Chi tiếtchiếc bình hoa ngày cưới/ thành bình hương là một chi tiết đắt trong chuyện kể, dễ gây xúc động ban đầu, nhưng tôi không hoàn toàn tin như thế. Tôi nghĩ nó là một ẩn dụ. Tài năng của Hữu Loan là ở chỗ đã kết hợp được tính nghệ thuật cao và tính công chúng về ngôn ngữ, hình ảnh, nhạc điệu. Thơ trữ tình là tiếng khóc và tiếng cười, là khổ đau và hạnh phúc, tình yêu của Hữu Loan với người vợ vui ít buồn nhiều, sum họp ngắn, chia ly dài, nhưng không phải không có những ngày vui ngắn ngủi.

Nang cười xinh xinh/ Bên anh chồng độc đáo

Tiếng khóc làm nên khúc bi ai, hạnh phúc làm nên thơ tình. MTHS vừa là thơ tình vừa là khúc ca ai oán. Một khúc ca bi ai, than khóc về cái chết hay về sự chia biệt, thường tĩnh lặng, hình ảnh của nó ít khi có chuyển biến, ít khi vận động.

Trăng của nhà ai trăng một phương
Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường
(Vũ Hoàng Chương)

Nhưng MTHS là một bài thơ buồn mà vận động, thay đổi. Điều đó trước hết là do sự vận động của cảm xúc. Đến lượt, cảm xúc vận động là thông qua các hình ảnh. Hữu Loan giới thiệu màu hoa sim như thế nào? Đầu tiên là hồi tưởng của người kể chuyện: Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím. Nhà thơ đã cẩn thận khắc sâu hình ảnh này một lần nữa: Áo nàng màu tím hoa sim.

Đây là một trong những hình ảnh mang tính tượng trưng hiếm hoi của bài thơ. Áo màu tím là tượng trưng. Nhưng mặt khác, hình ảnh ít khi thay đổi, trong trữ tình lại càng rất khó vận động. Nhờ phương pháp tự sự, chuyển từ kể chuyện thành mô tả:

Những đồi sim dài trong chiều không hết

Nhìn áo rách vai tôi hát trong màu hoa mà Hữu Loan đã làm cho hình ảnh trở nên sống động, cảm xúc có đời sống riêng. Khúc bi ai về cái chết của người thân trở thành một khúc hát cho chính mình, tiễn biệt mình. Trong các màu sắc: đỏ, xanh, vàng, lục, lam… thì màu tím là màu bâng khuâng hơn cả, rộng dài hơn cả, lưu luyến hơn cả đối với người Việt Nam. Sim không phải là loài hoa vương giả, mọc từng cánh không có gì đặc biệt, nhưng khi chúng tụ lại thành chùm, thành cây, thành rừng thì mênh mông, dào dạt, xúc động cả đất trời.

Nhiều chữ mới trong vỏ thân thuộc. Ví dụ: biền biệt không phải là một chữ lạ nhưng cách dùng mới. Biền biệt là gì? Xa cách, không gian, thời gian. Chiều hoang là gì? Chiều hoang dã, hoang dại, chiều mồ côi, bầu trời của người cô độc sau cái chết người thân. Chữ Hữu Loan sáng tạo. Bao nhiêu năm người ta hát hoài mà không cũ vì nó sáng tạo. Làm sao chống lại cái chết? Chỉ là bằng sự sống, bằng tình yêu đối với cuộc đời còn lại. Và với thiên nhiên, đồng ruộng, núi đồi. Bài thơ MTHS không phải là bài thơ viết về thiên nhiên nhưng câu chuyện buồn thương mà nó kể lại nhuộm đẫm mùi hoa cỏ. Thiên nhiên là tái tạo, mùa màng là trở đi trở lại: sự khổ đau cũng trở đi trở lại. Không có gì ngạc nhiên khi Hữu Loan dùng nhiều phương pháp điệp âm, điệp ngữ.

Hoa sim tím/ màu tím hoa sim/ những đồi hoa sim/ những đồi hoa sim dài/ màu tím hoa sim/ tím chiều hoang

Các nhạc sĩ cũng rất trung thành với phương pháp lập đi lập lại này của nhà thơ, vì họ nắm vững hiệu ứng lập lại trong âm nhạc.

Những đồi hoa sim ôi những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt/ vào chuyện ngày xưa nàng yêu hoa sim tím tóc thề đang chấm vai (Dzũng Chinh)

Tôi mới từ xa nơi đơn vị về/ tôi mới từ xa nơi đơn vị về/ thời loạn ly có ai đòi áo cưới/cưới vừa xong là tôi đi cưới vừa xong là tôi đi (Phạm Duy)

Lập lại điều gì là hình thức giản đơn nhất của âm nhạc. Sự lập lại gợi ra sự chú ý, tức tính hấp dẫn. Vì vậy các nhạc sĩ thường dùng kĩ thuật này. Lắng nghe một ngôn ngữ lạ, bạn sẽ ghi nhớ nhiều các mẫu lập lại trong câu. Trẻ con trong đồng dao cũng lập lại. Trong thơ sự lập lại tạo cảm giác thích thú, đồng điệu, thỏa mãn, nương nhờ:

Mai chị về em gửi gì không/ Mai chị về nhớ má em hồng (Nguyễn Đình Tiên)

Có khi tạo cảm giác căng thẳng:

Chúng tôi nhảy múa hò reo/ Thế là nó thoát thế là nó thoát (Nguyên Sa)

Lập lại không những là một yếu tố về tiết điệu mà còn có ý nghĩa cấu trúc đối với bài thơ. Hữu Loan cũng chọn từ rất kỹ; và trong nhiều đoạn đã cố tình làm nhòa ngôn ngữ. Thay vì viết: Thì thương/ người vợ bé bỏng/ chờ chiều quê

Thì ông viết: Thì thương/ Người vợ chờ/ Bé bỏng chiều quê

Nhờ thế, cả buổi chiều quê cũng trở nên bé bỏng. Người chết rồi được tự do trở lại với thiên nhiên, đất trời, vũ trụ, an bình, vĩnh cửu đời đời, trong khi người sống sót, người ở lại, sống trong thương tiếc bàng hoàng, ngậm ngùi, tự trách, trên cõi trần tạm bợ. Một bài thơ tình viết về cái chết, viết về người thân qua đời, sẽ thành công nếu nó truyền cho ta cảm giác trộn lẫn của đời sống và cái chết, về khung cảnh, trong trường hợp này là đất nước chiến chinh, và về ý nghĩa của sự mất mát, về hứa hẹn của một kết nối tâm linh.

Tôi nghe nói rằng Hữu Loan viết bài thơ một mạch, trong mấy tiếng đồng hồ, viết một lần là xong. Chi tiết này, dù đúng, có thể gây ra ngộ nhận đối với quá trình sáng tạo. Đọc kỹ bài thơ, quan sát Hữu Loan dùng chữ, tôi tin rằng ông đã cân nhắc nghiền ngẫm rất lâu khi hạ những chữ ngỡ ngàng, bé bỏng, biền biệt và rất nhiều chữ khác. Ông làm bài thơ bảy tháng sau khi được tin người vợ mất: bảy tháng là thời gian dài đối với nỗi tiếc thương, đủ để nung nấu một trong những bài thơ lừng lẫy.

William Wordsworth:

Poetry is the spontaneous overflow of powerful feelings: it takes its origin from emotion recollected in tranquillity (Lyrical Ballads)

Thơ ca chảy trào xúc động lớn: nó phải vọt lên từ cảm xúc được lai rai hồi tưởng trong tháng ngày tịch mịch.

Hữu Loan không chỉ có bảy tháng chuẩn bị cho bài thơ của mình. Ông còn “chuẩn bị” trước đó bằng bài Đèo Cả nổi tiếng, viết năm 1946, lấp lánh tài năng của một nhà thơ mới.

Núi cao ngút!/ Mây trời Ai Lao/ Sầu đại dương!/ …/ Về bên suối đánh cờ/ Người hái cam rừng ăn nheo mắt/ Người vá áo thiếu kim mài sắt/ Người đập mảnh chai vểnh cằm cạo râu

Cái nheo mắt của Hữu Loan đóng đinh bài thơ vào huyền thoại kháng chiến, không gian tình tự dân tộc. Thơ tự do của Hữu Loan có hai đặc tính: sử dụng nhiều vần điệu và tính đối xứng trong cấu trúc. Hai tính chất này cũng chi phối nền thơ Việt tự do thời kỳ vừa ra khỏi thơ cổ điển có vần của Thơ Mới, phản ảnh sự thay đổi về thẩm mỹ của các nhà thơ, tuy mới nhưng chưa hoàn toàn từ bỏ xúc động mỹ học cũ. Thơ ông vì vậy dễ đọc, dễ ngâm, được công chúng rộng rãi đồng điệu yêu mến.

Thơ dĩ nhiên là chữ nhưng các ý tưởng và cảm xúc mà thơ mang lại bao giờ cũng, hoặc hầu hết là, thông qua hình ảnh, trước tiên là hình ảnh. Cũng như ngôn ngữ, hình ảnh trong thơ có ít nhất hai loại nghĩa: nghĩa hẹp và nghĩa rộng hay nghĩa đen và nghĩa bóng. Sim vốn là một hình ảnh quen thuộc trong đời sống, nhưng người dân quê thường nói đến trái sim nhiều hơn. Thời chiến tranh chưa lan rộng, những ngày nghỉ học tôi cũng thường cùng bạn bè lang thang trên đồi hoang Cam Lộ, Gio Linh hái những trái sim có vị chát, ngọt bùi. Theo tôi biết Hữu Loan là người đầu tiên nhắc đến hoa sim trong văn học và nhắc một lần thì không ai quên được. Sở dĩ như thế là vì hoa sim trong bài thơ vừa là hình ảnh có thật, một hình ảnh đơn giản, vừa có vai trò như một ẩn dụ lớn.

Má tôi ngồi bên mộ con

Mộ là hình ảnh, nhưng chưa phải là ẩn dụ.

Chiếc bình hoa ngày cưới/ Thành bình hương

Bình hoa là hình ảnh, bình hương là ẩn dụ.

Không những thế, với sự phổ biến sâu rộng, phần lớn nhờ các ca khúc, hoa sim tím đã trở thành một biểu tượng. Sự khác nhau giữa ẩn dụ và biểu tượng hoa sim là: ẩn dụ có tính đặc trưng, cá nhân, nặng về cảm giác, trong khi biểu tượng có tính khái quát, tập thể, nặng về khái niệm. Người đọc và người nghe hôm nay đã phát hiện trở lại cho mình một biểu tượng tâm hồn. Thật an ủi biết bao. Người Việt cần đến chúng biết nhường nào trong giai đoạn hiện nay, một giai đoạn mà các ký ức văn hóa, các giá trị tinh thần đã bị tẩy sạch bởi chiến tranh và bạo lực tinh thần. Hoa sim được nhắc lại ba lần trong suốt bài thơ: Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím

Được nhắc lại: Chiều hành quân/ Qua những đồi hoa sim

Đừng quên rằng nhan đề của bài thơ là lần nhắc đến đầu tiên: vai trò của nhan đề đã được Hữu Loan sử dụng sớm trong thơ Việt Nam cận đại. Không phải cái nhan đề nào cũng quan trọng như thế. Nhờ sự lập đi lập lại này, mỗi lần lập lại là một lần biến đổi, lật qua một khúc quanh của câu chuyện, hình ảnh trong bài thơ trở nên vận động, có đời sống riêng, chuyển hóa thành một cái gì lớn lao hơn là một màu hoa:

Nhìn áo rách vai/ Tôi hát trong màu hoa

Thiên nhiên, trong khi vô tình tàn nhẫn, cướp đi một người thân yêu, thì lại mang khuôn mặt dịu dàng nữ tính, trở thành nơi nuôi dưỡng của người sống sót, chốn trở về của chàng trai mồ côi tình yêu, của người lính đau thương nhưng chung thủy hào hùng. Tôi chú ý đến chữ hát trong câu thơ của Hữu Loan: câu ca dao áo anh sứt chỉ đường tà đã được ông hát lên trước cả Phạm Duy, trước người khách của nhà tôi một chiều đầu thu năm 1975. Cái chết bao giờ cũng tìm cách đến giữa hai người yêu nhau. Nhà thơ có hai công việc: thông báo nó đến người đọc và kết thúc nó ngay trong bài thơ. Hữu Loan đã không chọn cách mô tả cái chết. Khác với các nhà thơ phương Tây, từ xưa đến nay, các nhà thơ Việt thường không có thói quen làm điều này: họ chỉ thông báo. Và, hệt như trong đời sống, đây là công việc khó khăn. Hữu Loan chọn phương pháp chuẩn bị tâm lý:

Nhớ về ái ngại/ Lấy chồng thời chiến chinh/ Mấy người đi trở lại

Số phận ba lần cay đắng: cái chết đã chọn không phải người đàn ông mà người phụ nữ; không phải người lớn tuổi mà người trẻ tuổi; không phải người trai khói lửa mà người gái hậu phương. Khuyết điểm của phương pháp tâm lý này là người đọc không biết được nguyên nhân cái chết của người vợ trẻ. Tôi còn nhớ thuở nhỏ đã có lúc ngờ rằng cô chết vì chiến tranh, cụ thể là vì bom đạn của Pháp. Tôi không chắc rằng cảm giác nghi ngờ ấy đã làm tăng lên hay làm giảm đi xúc động của mình như một người đọc, chỉ dựa vào văn bản thuần túy.

Một bài thơ tự sự cần “kết thúc”, nghĩa là sự kết thúc cụ thể, trong khi với thơ trữ tình điều này mơ hồ hơn. Có nhiều cách. Thông thường tác giả tìm cách tóm tắt câu chuyện và rút ra những “bài học”. Khuôn mẫu này được áp dụng nhiều ở các bài thơ của các nhà thơ nặng về luân lý đạo đức hay chính trị.

Anh đi bộ đội, sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.
(Núi Đôi, Vũ Cao)

Kết rất chặt. Cách này điển hình, nặng về ý, nhẹ về tứ, mặc dù vẫn đầy đủ hình ảnh, nhưng nếu nhà thơ không có tài dễ rơi vào sự sáo rỗng như có thể thấy ở nhiều bài thơ khác.

Hữu Loan chọn cách kết thúc phóng khoáng, trung thành với không khí u buồn hoài niệm của bài thơ mà vẫn mở ra:

Tôi hát trong màu hoa/ Áo anh sứt chỉ đường tà

Nếu sự xuống dòng bậc thang của bài Đèo Cả có thể được xem là thủ pháp nghệ thuật gây cảm giác chênh vênh hiểm trở, thăm thẳm của một vùng rừng núi, cuộc kháng chiến gian khổ, hùng tráng, thì việc ngắt nhiều câu thành những câu ngắn, thậm chí chia ra làm nhiều đoạn ngắn của bài MTHS là vì một tác dụng khác. Đó là sự nới rộng không gian và thời gian. Nới rộng thời gian có nghĩa là làm chậm lại một giây phút, kéo dãn nó ra, buộc thời gian chậm lại. Tốc độ tình cảm càng nhanh, thời gian tâm lý càng chậm. Đó là phương thức trầm tư, tập trung, trong đó nhà thơ không quan tâm lắm đến diễn tiến thời gian từ quá khứ sang hiện tại đến tương lai, mà quan tâm nhiều hơn đến một quãng ngắn, nơi quá khứ, hiện tại, tương lai chập chồng thành một.

Một bài thơ viết về cái chết, sự mất mát, sẽ thành công nếu nó đạt được một trong hai điều sau đây: sự mặc khải huyền nhiệm đối với cái chết. Và thứ hai, quan trọng không kém: tính chất liệu pháp đối với vết thương tâm hồn. Chỉ khi nào bài thơ có những hiệu ứng này đối với tác giả thì bài thơ ấy mới mong có tác dụng tương tự lên người đọc. Cấu trúc ngôn ngữ của bài MTHS có độ dung nạp cao đối với các biến thể về nhịp điệu. Có một tác giả mà tôi không nhớ tên mới đây đã nêu nhận xét thú vị rằng, bài thơ có nhiều phiên bản khác nhau, nhiều cách ngắt câu phân đoạn khác nhau; ngay chính bản thân Hữu Loan khi được yêu cầu ghi lại, thì mỗi lúc, cách ngắt câu xuống hàng cũng hơi khác.

Theo tôi, một lý do là bài thơ này dễ thuộc, có thể ngâm được, trong khi hầu hết các bài thơ tự do khác chỉ có thể đọc trên giấy, khó nhớ, không thể ngâm. Khi ngâm, người đọc sử dụng trí nhớ. Khi sử dụng trí nhớ, người ngâm trở thành người sáng tạo, vô tình hay cố ý truyền cho bài thơ cảm xúc và suy nghĩ riêng của mình vào chính thời điểm ấy đối với câu chuyện. Thử so sánh một khía cạnh của ba bài thơ thuộc vào loại hay nhất của thời kỳ kháng chiến chống Pháp: tính tổ chức âm nhạc của bài Màu tím hoa simthấp hơn bài Tây tiến của Quang Dũng nhưng cao hơn bài Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm. Như thế là ba yếu tố: kể chuyện - ngâm thơ - hát lên đã hòa vào nhau, khắc bài thơ vào trí nhớ của người đọc. Trong ba yếu tố ấy, nhịp điệu giữ vai trò quan trọng nhất, dù là khi kể, khi ngâm, hay khi hát, vì nhịp điệu và nói rộng ra là âm nhạc có khả năng tạo ra những trường tương tác vô thức mà các phương tiện ngôn ngữ không làm được. Hữu Loan mất đi, để lại thương tiếc cho nhiều người, vì nhiều lý do: số phận nghiệt ngã, quan điểm tự do, nhân cách hùng tráng, nhưng trước hết là vì ông đã nhuộm tím không gian văn hoá bằng tiếng khóc mối tình đầu. Suốt hai mươi năm của miền Nam, các ca khúc đã góp phần nuôi giữ tiếng khóc ấy, làm nó thêm lừng lẫy.

Hình tượng trong thơ, gồm những hình ảnh đơn giản, ẩn dụ, biểu tượng, tạo lập nên cái mà phân tâm học Jung gọi là vô thức cộng đồng. Ngay khi không thể chứng minh sự tồn tại của khái niệm này, màu tím hoa sim cũng đã trở thành một hình tượng của ý thức cộng đồng. Sự xúc động của công chúng là sự xúc động nhân đôi: thương hương tiếc ngọc hai lần.

Mỗi người đọc yêu mến một nhà thơ nào đó thường có những kỉ niệm về người ấy, khi này khi khác, dài lâu, như với một người bạn không bao giờ biết mặt. Tôi lai rai nhớ về Hữu Loan như thế. Không phải là hiện tượng làm thơ một bài, vì dù làm thơ ít, ông còn có những bài hay khác, mặc dù không quan trọng bằng Màu tím hoa sim, như Đèo Cả hay Tình Thủ đô (do nhà thơ Dương Tường ghi lại). Đầu những năm chín mươi, tôi tình cờ đọc một tập thơ Hữu Loan xuất bản tại Hoa Kỳ, gồm nhiều bài thơ thời sự chính trị mới viết, nhân một giải thưởng, hình như chưa thấy công bố bao giờ, nhưng trong đó không có bài MTHS. Tôi không giữ tài liệu này nên nhân đây ghi lại theo trí nhớ. Tôi cũng may mắn được nghe Thái Thanh hát Áo anh sứt chỉ đường tà lúc người ca sĩ này cùng Phạm Duy đến trình diễn ở Calgary nhiều năm về trước. Chính giọng hát trong như xé lụa, mỏng như tơ trời của Thái Thanh làm cho bài ca trở nên bất tử. Hoàng, ngồi bên cạnh tôi, quay lại hỏi: Hoa sim là hoa gì hả anh? Tôi trả lời nàng cho qua chuyện: khi nào đưa em về Việt Nam, anh sẽ chỉ cho. Mới đó mà đã hai mươi năm. Nhưng tôi lo lắng: nước mình bây giờ có còn cây sim nữa không? Để những người yêu nhau:

Đói lòng ăn nửa trái sim
Uống lưng bát nước đi tìm người thương.

N.Đ.T

___________________________________________________