Chủ Nhật, 19 tháng 6, 2011

Người ma ám

Truyện ngắn của Đoàn Lê

Tôi hơn bốn chục tuổi, một vợ hai con. Kéo mấy toa đi cho trơn tru không phải dễ. Hôm nào túi lép con vợ tôi hệt một mụ bà chằng. Cũng phải thông cảm với nỗi lo âu đàn bà thiển cận của hắn thôi. Lắm lúc phát cáu, tôi chỉ còn cách xách xe lao ra đường phố ồn ào, tìm sự quên lãng, khuây khỏa. Tôi muốn được sống, ngập chìm vào dòng đời, trước khi bệnh “viêm túi” có thể đánh gục.
Và tôi bật cười thấy mình thích thú khi được ra đứng đường thực sự. Dưới chân cầu Tràng Tiền, tôi bình lặng lại, nhận ra ngày tháng trôi lặng lẽ như dòng sông Hương trước mặt, hôm nay chẳng khác hôm qua, cũng không hơn ngày mai, cho đến lúc tôi biến khỏi thế gian này. Tôi thường nhìn mặt nước xanh trong, lơ đãng nghĩ về dăm câu thơ vô tích sự bật ra không đúng lúc. Những câu thơ, chúng tựa đám giấy bọc kẹo lòe loẹt vứt trên đường, len lén bám vào gót chân ta. Dân xứ Huế không ai không vướng vít một vài câu thơ trong đầu, cũng vô thưởng vô phạt như cái giấy bọc kẹo.
Mùa du lịch đã hết. Hết những trò láu cá của dân xế ôm, xích lô. Chúng tôi sẵn sàng nhận chở khách đi mua sắm với giá rẻ hơn bèo. Đừng tưởng chúng tôi thương khách. Cò mồi dẫn khách đến mua đặc sản, chúng tôi sẽ được nhận ngầm phần trăm từ nhà hàng, cửa hiệu. Có ngày kiếm tiền triệu. Gấp mười lần cò kè tiền cụng chở khách. Những đận ấy con mụ vợ tôi vếch mặt lên, cắp rá đi chợ, cái mông ngoáy ngoáy, cấm thấy cáu gắt. Nhưng giờ hết rồi. Kể cả những anh Tây ba lô cũng sợ mưa Huế dầm dề, không mấy vãng lai tham quan. Tôi chỉ còn được đón đưa đám bà con nghèo xứ này chưa có xe máy, vui vẻ nhận dăm đồng bạc còm. Lắm bữa chỉ đủ tiền cà phê, thuốc lá.
Vào một buổi sáng chán đời như thế tôi bỗng gặp người ấy, cái người hẳn do định mệnh xui khiến đã xuất hiện. Không, xin đừng nghĩ tới một thiếu nữ chim sa cá lặn. Các cô gái này tôi vốn không để ý. Họ thuộc thế giới khác, không liên quan tới tôi. Khách đi xe ôm tôi nói đây là một cô gái xấu xí, gày nhom, lại thêm vẻ nhút nhát, với cái va li khá nặng, chỉ được cái nói trong trẻo giọng Bắc.
- Anh cho tôi về đường Nguyễn Sinh Cung, nhà nghỉ Thành Đạt.
- Thưa, tôi biết nhà nghỉ đó. Xin cô mười lăm ngàn.
Cô gái không mặc cả. Vả tôi không hay nói thách cao giá, chờ khách nì nèo thêm bớt. Nói đi bấy nhiêu là bấy nhiêu. Đặc biệt với khách xứ lạ tôi càng giữ gìn. Để người thiên hạ không cười thói vếch vác quen chèo kéo bắt nạt của dân xứ Huế. Gì thì gì mình dân thần kinh thừa lịch sự kia mà. Có chặt chém cũng tùy chỗ.
Tới nhà nghỉ, tôi mang va li cho cô gái lên tận phòng gác ba.
- Chiều hai giờ anh tới đưa tôi ra ga xem vé tàu về Hà Nội, được không?
- Vâng thưa cô, cô muốn đi đâu cứ bảo tôi. Đúng hai giờ tôi sẽ tới đón. Đây là số điện thoại di động của tôi.
Buổi chiều sau khi ra ga đặt trước vé tàu, cô gái muốn tôi đưa dạo chơi vòng quanh thành phố. Trên đường, trong lúc chuyện trò tôi biết đôi chút về khách. Cô nói đi công tác, tiện ghé qua thăm lại Huế. Cô nói trước đây dạy múa. Vậy là một nghệ sĩ múa.
Nhưng tôi không tưởng tượng nổi trên sàn diễn với bộ váy áo mỏng tang của một nàng thiên nga, trông cô thế nào. Vẻ ngoài hiện tại khiến tôi nghĩ tới một cô giáo nghiêm nghị nhẫn nhịn hay bị học trò bắt nạt thì đúng hơn.
Ngày hôm sau tôi đưa cô đi thăm Đại Nội từ sáng sớm. Lẽ ra buổi chiều có thể tranh thủ thăm lăng Minh Mạng. Nhưng cô gái cứ nấn ná trên từng con đường nhỏ, như có ý ngóng chờ ai. Rút cục tới quá trưa tôi phải đưa cô vào một quán cơm bình dân lúc mặt trời đứng bóng.
- Anh ăn cùng tôi cho vui. Sau đó ta tranh thủ đi luôn.
Tôi thế nào cũng xong. Đã quen lệ ở nhà vợ con tôi không mong tôi về dùng bữa. Trong lúc ăn, khi đã trở nên thân tình, cô đề nghị hai hôm còn ở Huế, tôi đưa cô đi lang thang, và tính tiền xe cả một ngày cho tiện. “Như một hướng dẫn viên bình dân”, cô dè dặt nói thế. Tôi đã quá quen với các kiểu khách amatơ như cô.
- Thưa cô, thế nào cũng được.
Buổi chiều, tại một quán giải khát bên chùa Thiên Mụ ngồi nhâm nhi ly cà phê, sau rất lâu lơ đãng nhìn dòng sông trước mặt, cô gái bỗng dưng khe khẽ thổ lộ:
- Tôi thích ở Huế lắm. Đây cũng là nơi đầy kỷ niệm của tôi. Anh biết không, chút nữa tôi đã làm dâu xứ Huế đấy.
- Thưa cô, nếu cô làm dâu xứ Huế, chắc tôi đã được chở cô đi luôn luôn. Tôi xin lỗi được hỏi vì răng cô không thành dâu xứ Huế?
- Vâng, cuộc đời có biết bao thứ ta dự định nhưng không thành. Chừ để lại một kỷ niệm ít vui mà thôi.
Cô nói chừ, không phải giờ. Đôi mắt nhìn ra xa của cô gái hình như có ngấn nước, gương mặt tự nhiên thành có duyên, bớt đi vẻ xấu xí.
- Cũng cái quán đây, có người hẹn tôi giờ này, hôm nay, nhưng… anh thấy đấy…
Trời ạ, người ta cất công từ Bắc vào, để giữ ngày hẹn, giờ hẹn, nơi hẹn, mà cái thằng cha… Nhân danh các chàng trai xứ Huế chung tình, nếu gặp hắn tôi thì tống cho một quả bằng trời giỏng!
Tôi còn đang hình dung ra hắn, một người tình đỏm dáng, bỗng trước mặt tôi xuất hiện thằng cha làm quảng cáo phố tôi, người luôn nhom nhem sơn màu, đã thế lại nói lắp. Tôi đâu lạ hắn. Nhưng tôi vụ cựng kinh ngạc thấy hắn tiến lại phía mình.
- Anh xin… xin lỗi em… em…
Hắn nói với cô gái. Cô không trả lời mà òa khóc thành tiếng. Chao ôi, xưa có chuyện sọ dừa biến thành hoàng tử, chả biết cha nhom nhem này có biến hóa được vậy không? Đã thế tôi biết túi hắn chưa bao giờ dư tiền. Chơi cờ thế với tôi hắn luôn chạy làng. Còn may, bữa nay thấy hắn đi cái xe máy cà tàng, dù thế cũng vẫn là xe máy.
Tôi trợn mắt ra hiệu cho hắn dỗ cô gái, nhưng cái gã bị thịt cứ lúng ta lúng túng. Thấy ngồi lại chứng kiến cảnh tình cảm sướt mướt không tiện, tôi tìm cách rút lui.
- Thôi, cô đã gặp bạn rồi, tôi xin phép phải đi có chút việc. Khi nào cần cô cứ nháy máy cho tôi.
Cô gái bẽn lẽn lau nước mắt, cười vỏn vẻn ngước nhìn tôi. Trông bẽn lẽn thành dễ thương. Trước khi đi, tôi kịp kéo thằng cha họa sĩ nửa mùa, kín đáo móc hết tiền trong túi dúi cho hắn. Hắn liếc mắt nhìn tôi im lặng. Đợi đấy, thế nào mi cũng được vài quả phật thủ nếu mi lừa tình cô gái kia.
Về tới bến đỗ xe với cái túi rỗng không, tôi bỗng tá hỏa thấy mụ bà chằng đang đứng đợi ở đó.
- Đi mô mà tui đợi hoài đợi hủy ở đây không thấy? Đưa tui tiền mua cặp sách cho thằng Bảo. Bữa ni nó khóc đòi nghỉ học, làm sao thì làm. Nghe nói chở cô nào người Bắc từ sớm tới chừ à? Tiền đâu?
Tôi giựt chắc. Giải thích với mụ bà chằng thế nào đây? Lại thêm cái tội chở cô gái miền Bắc nữa. Tôi vội ghé tai hắn thì thào:
- Tau lạy mẹ mi, tau hết tiền túi rồi. Là tau cho người ta mượn nóng, mai trả. Cái thằng cha làm quảng cáo… quảng cáo phố… phố mình đó. Tau thề…
Nó trợn mắt ngó tôi tưởng đâu cháy mặt. Không hiểu sao tôi thấy mình cũng lắp bắp như thằng cha kia.
- Tau thề… tau thề với mụ.
- Trời ơi, ma ám ông sao đó?

Có thể ma ám chứ răng!

_______________________________________________________

Kinh ngạc Trần Dần văn xuôi

Toan Toan

TP - Sau 'Đi! Đây Việt Bắc', tập thơ xuất bản năm 2009, những người yêu mến Trần Dần lại có dịp khám phá lại một Trần Dần văn xuôi, tại cuộc tọa đàm quanh cuốn tiểu thuyết 'Những ngã tư và những cột đèn'.

Cuốn sách xuất bản tháng 10 năm ngoái, đến nay tái bản lần một, theo các nhà nghiên cứu đủ thời gian để dư luận kịp đọc, ngẫm. Dịch giả Cao Việt Dũng người biên tập bản thảo thì cuốn sách này là hiện tượng bất thường. Tác phẩm di cảo của nhà văn quá cố, gần 50 năm sau khi viết mới xuất bản được.

Sự bất thường càng rõ nét khi cuốn sách xuất hiện trong giai đoạn có sự khủng hoảng nhất định trong thể loại tiểu thuyết Việt Nam. Mỗi cuốn sách một số phận, dù in ra rất lâu sau khi viết, và khi nhà văn qua đời, văn giới kỳ vọng ở tác động tích cực đến khát vọng đổi mới văn phong hiện nay.

Nói như nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên: “Cuốn tiểu thuyết ra đời, giới văn học hân hoan, khoái trá. Bởi sau Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, rất lâu mới có một cuốn tiểu thuyết đọc sướng như thế. Những ngã tư và những cột đèn là cuốn viết nội dung, không phải kể nội dung. Đọc rồi, đọc lại tôi vẫn thấy háo hức, hồi hộp xem những gì xảy ra tiếp.

Trần Dần giải được bài toán văn chương không đề cao cách viết bấy lâu nay”. Nhắc lại lời nhận xét nói trong cuộc tọa đàm về thơ Trần Dần, Phạm Xuân Nguyên cho rằng hơn 30 năm ngồi trong bóng tối, Trần Dần bắt đầu lộ sáng. Cứ mỗi tác phẩm của ông lộ sáng, chúng ta đều “sốc”, “choáng”.

Đồng tình với ý kiến này đã đành, nhà thơ Dương Tường còn không tiếc lời khen người bạn Trần Dần: “Tôi có lẽ là độc giả đầu tiên của Những ngã tư và những cột đèn. Mỗi khi ông viết xong một chương, tôi được đọc.

Ở Việt Nam có ai đáng Nobel, người đó là Trần Dần. Nếu không in được tất cả di cảo của ông, không phải thiệt cho Trần Dần mà thiệt cho văn học nước ta. Đọc Trần Dần, người ta thấy khoái cảm chữ, tiếng. Cuốn tiểu thuyết như bữa tiệc ngôn ngữ. Có nhiều trang, chương như thơ”.

Buổi tọa đàm về văn xuôi Trần Dần thiếu hẳn không khí sôi nổi như khi người ta nói về thơ ông. Nhưng đa phần đều có chung cảm xúc kinh ngạc khi đọc xong Những ngã tư và những cột đèn. Nhà văn Lê Minh Khuê: “Với tư cách người viết, tôi kính trọng Trần Dần-một người trọng nghề nghiệp, một người lao động nghiêm khắc. Tôi đọc rất nhiều của ông, nhưng rất ngạc nhiên khi đọc Những ngã tư và những cột đèn. Và tôi nghĩ, nếu cuốn này được dịch tốt sẽ không thua kém tác phẩm tốt nào ở nhiều nơi, vùng đất khác”.

Ở tư cách người viết, Lê Minh Khuê cho rằng “Tiểu thuyết không được viết một cách điềm đạm, bình tĩnh, không phải là sự dễ dàng của một người kể chuyện. Nhà văn chọn cách viết, trong đó các nhân vật đi qua sắc như một nhát chém. Từ những trang đầu đã có cảm giác ông làm khó chữ nghĩa, có những đoạn lủng củng một cách cố ý”.

Một độc giả thuộc thế hệ 9X lại ấn tượng ở giọng điệu vui, cách thể hiện câu chữ “hiện đại như một blogger”, khi dùng chữ “iêu” thay vì “yêu”. Như một nhà nghiên cứu nhận xét, dù cuốn sách viết từ năm 1966 đến nay mới in, nhưng chưa dễ có cuốn nào hiện đại về kỹ thuật viết như vậy.

Cách tân về phong cách của Trần Dần ở Những ngã tư và những cột đèn, là điều dễ nhận thấy song vẫn tồn tại tranh cãi. Các diễn giả Phạm Xuân Nguyên, Cao Việt Dũng, thậm chí nhà thơ Dương Tường cho rằng tìm thấy chất Dostoevsky trong văn Trần Dần, bởi ông đưa Tội ác và trừng phạt (Dostoevsky) vào Những ngã tư và những cột đèn.
Nhưng nhà nghiên cứu sân khấu Nguyễn Văn Thành mạnh dạn: “Với tư cách người đọc, tôi thấy có không khí ngột ngạt của Kafka khi đọc tiểu thuyết Trần Dần. Trần Dần không đời nào chỉ là học trò của Dostoevsky, Trần Dần luôn thích cải tiến. Ông suốt ngày ở thư viện quốc gia, Trần Dần có thể đọc nhiều sách nước ngoài, nên rất có thể đã tiếp cận với Kafka”.

Ông cho rằng, Trần Dần chỉ có trùng lặp với Dostoevsky ở vẻ bên ngoài. Tình thế nhân vật Dưỡng thật ghê gớm-người lính đào ngũ của bên kia, bị sự săn đuổi của cả hai phía, không khác gì nhân vật của Kafka. Đó chính là cái mới, cái khác Dostoevsky của Trần Dần, và Dostoevsky không có cái xáo trộn không gian, thời gian. Điều này phải đọc tiểu thuyết mới-tiểu thuyết Kafka- thì mới có được.

Ông Thành nói thêm, Những ngã tư và những cột đèn đọc vừa thích lại vừa mệt, có cảm giác như Trần Dần chưa bộc lộ hết văn tài của mình trong đó. Trong số diễn giả, chỉ nhà văn Lê Minh Khuê đưa ý kiến hơi ngỡ ngàng về phần cuối của tiểu thuyết: Giống với tiếng thở hắt ra, có sự êm thấm, gọn gàng và sắp xếp của Trần Dần. Có lẽ con người trong sáng của ông không nỡ để mọi thứ nghiêm trọng mãi.

Trần Dần viết Những ngã tư và những cột đèn sau một thời gian dài tiếp xúc với nhiều ngụy binh cũ thời Pháp thuộc. Sở công an Hà Nội đã cấp giấy phép ra vào trại giam, để sau đó bản thảo được gửi lên Sở Công an, bản thảo đề năm 1966.

Năm 1988, Sở Công an Hà Nội mang trả nguyên vẹn bản thảo cho gia đình, nhưng các nhà xuất bản từ chối in. Sau này, Trần Dần một lần nữa sửa lại bản thảo, được cho là khác nhiều với bản đặt hàng đầu tiên.

_____________________________________________________________

Thứ Ba, 14 tháng 6, 2011

Một phần của lịch sử

KEVIN BOWEN

Bây giờ đã là 36 năm kể từ ngày chiến tranh kết thúc. Nhớ 36 năm về trước hoặc gần hơn là thời gian mươi năm sau chiến tranh, hầu hết những người Mỹ và Việt Nam không hề nghĩ rằng: đến một ngày quan hệ của hai nước lại có thể đến gần nhau như bây giờ. Nhưng nếu không có những "chỉ dẫn" của văn hóa, hai dân tộc sẽ không tìm được con đường đến với nhau trong ý nghĩa cao cả nhất của con người. Và sự "chỉ dẫn" của văn hóa không những tối quan trong đối với hai dân tộc đã có một lịch sử bi thương mà đối với tương lai của toàn nhân loại.
Nhân dịp kỷ niệm 36 năm ngày chiến tranh chấm dứt, TuanVietNam có giới thiệu một số bài viết của một số nhà văn, nhà thơ Việt Nam và Mỹ để bạn đọc có thêm một cái nhìn về sứ mệnh lớn lao của văn hóa trong việc chấm dứt chiến tranh, hàn gắn vết thương và tạo dựng lên một thế giới của những vẻ đẹp và chủ nghĩa nhân văn. Và họ chính là những người đã phác thảo một cách chân thực và chính xác nhất chân dung dân tộc mình - chân dung của một nền văn hóa. Bởi khi các công dân của một dân tộc không dựng được chân dung văn hóa cho dân tộc mình thì dân tộc của họ mãi mãi là một dân tộc mang đến nỗi ngờ vực và sự sợ hãi cho các dân tộc khác.


Được nhận Giải thưởng Phan Châu Trinh là một vinh dự lớn. Hiếm có giải thưởng nào có ý nghĩa hoặc được trao bởi một nhóm học giả độc lập và xuất sắc như vậy. Với lòng khiêm cung, tôi xin nhận vinh hạnh này, biết rõ rằng nó không chỉ được trao cho bản thân mình, mà cho cả gia đình tôi, trung tâm và trường đại học của tôi, cùng nhiều bằng hữu, văn sỹ, nghệ sỹ, học giả và cựu chiến binh, ở cả hai phíaViệt Nam và Hoa Kỳ, cùng các nơi khác trên thế giới, những người đã và đang là một phần không thể thiếu của những cuộc giao lưu đã gần hai mươi lăm năm nay của chúng ta.
Thế mà đã gần hai mươi lăm năm, vào cái đêm sau Giáng Sinh ấy, khi lần đầu tiên tôi trở lại Việt Nam kể từ sau cuộc chiến, trên một chuyến bay cất cánh từ New York. Phim Trung Đội vừa mới công chiếu ngày hôm đó. Tâm khảm tôi vẫn còn hằn rõ hình ảnh của chuyến trực thăng cuối cùng đưa tôi trở lại căn cứ để mãn hạn về nhà, bên dưới chỉ thấy những cảnh như trên mặt trăng, vùng thôn quê Tây Ninh, hoang tàn vì bom đạn và chất diệt cỏ. Ngay cả khi rời Việt Nam lúc ấy, tôi đã mơ đến một ngày trở lại trong hòa bình, nhưng đó là năm 1969, tôi đã không thể mường tượng được hòa bình sẽ như thế nào, sẽ đến ra làm sao.
Khi trở lại Việt Nam năm 1987 cùng với Dự án Hòa giải Đông Dương của John McAulliff, tôi đã có những trải nghiệm làm thay đổi hẳn con người mình. Trong những chuyến viếng thăm đền chùa và bảo tàng, gặp gỡ các cựu chiến binh, các giáo sư, đặt từng bước chân đi trên mảnh đất này, tôi đã cảm thấy mình đang thực sự sống trên mặt đất, lần đầu tiên sau biết bao nhiêu năm.
Các viên tướng trong chiến tranh gọi việc gia tăng quân số là "putting boots on the ground - cho ủng dẫm xuống đất", nhưng với tôi, một thường dân trở lại trong hòa bình, việc đặt chân xuống đất ở đây đã có ý nghĩa như thể lần đầu tiên tôi đứng trên đất thực sự, với cảm thức sâu thẳm rằng cả lịch sử, tinh thần và thi ca của xứ sở xung quanh đang thẩm thấu qua da thịt mình. Tôi cũng thấy một sự cởi mở tuyệt vời, một ước muốn được nói, nghe và tìm kiếm sự tương đồng.
Tôi đã thực sự kinh ngạc. Ở những giai đoạn ấy, mức độ tin cậy và hiểu biết giữa hai nước chúng ta còn thấp. Quan niệm về Việt Nam ở Mỹ và về Mỹ ở Việt Nam đều u ám bởi nhiều thập niên tuyên tuyền và xuyên tạc. Việc cắt hầu hết ngân sách cho các chương trình dạy ngôn ngữ, lịch sử và văn hóa Việt Nam ở Mỹ và những cắt giảm tương tự đối với các chương trình dạy tiếng Anh và nghiên cứu về Mỹ ở Việt Nam đồng nghĩa với tình trạng bất khả của những giao lưu trực tiếp và thực sự trong sáng.
Nhưng đó là buổi ban đầu. Là giám đốc Trung tâm Joiner, tôi may mắn có cương vị được trở lại Việt Nam, lần này qua lần khác. Năm 1988 tôi quay lại cùng một nhóm nhỏ cùng trung tâm, có David Hunt, Ralph Timperi, Gene Michaud và vợ tôi - Leslie. Lúc ấy chúng tôi muốn thu thập tài liệu về những tác động cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam và những hậu quả dai dẳng của cuộc chiến. Đó là những ngày gian khổ ở Việt Nam. Thiếu điện, thiếu thuốc men, khan hiếm thực phẩm, hiếm cả khách sạn hoặc xe gắn máy hoạt động theo đúng nghĩa của chúng. Năm ấy chúng tôi đi từ Hà Nội vào Tây Ninh, qua Huế, Cam Lộ, Hội An, Đà Nẵng, Hóc Môn. Leslie chụp ảnh các nghĩa trang, trại trẻ mồ côi, bệnh viện, nhà máy, các trung tâm người tàn phế, với ý đồ giúp người Mỹ hiểu về Việt Nam.
Lúc ấy chúng tôi là một phần của những hoạt động giao lưu đầu tiên, gửi thuốc men và thiết bị y tế, tổ chức trao đổi bác sỹ, các chương trình tiếng Anh và tiếng Anh cho người nước ngoài, giáo viên, nghệ sỹ và nhà văn. Như nhiều bạn đã biết, chúng tôi vẫn là một tổ chức bất thường.
Trung tâm chúng tôi không lấy tên một chính khách hoặc tướng lãnh nổi tiếng nào; nó không có trụ sở ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn; và nó cũng chả có nhiều tiền. Trung tâm chúng tôi lấy tên một người lính bình thường, một cựu binh Mỹ gốc Phi đã làm việc để trợ giúp các cựu binh khác và đã chết vì căn bệnh ung thư có liên quan đến việc tiếp xúc với chất độc màu da cam. Những người làm ở trung tâm chúng tôi lúc nào cũng vẫn chủ yếu là cựu chiến binh.
Như đã nói, chúng tôi chưa bao giờ có nhiều tiền, nhưng cũng như hầu hết cựu chiến binh, chúng tôi biết cách xoay xở, và điều đó thường có nghĩa là khi tiếp đãi khách từ Việt Nam sang, chúng tôi không để mọi người ở khách sạn, chúng tôi đưa họ về nhà mình.
Có lẽ tôi sẽ chả bao giờ có thể đủ lời hay ý đẹp để nhắc lại buổi ban đầu ấy một cách xứng đáng. Những vị khách đầu tiên của chúng tôi chỉ sang có ít ngày. Lê Cao Đài và Bùi Tụng sang dự hội nghị y tế công cộng Mỹ. Những người khác sang dài ngày hơn và trở nên gắn bó lạ kì. Lê Lựu và Ngụy Ngữ là những sứ giả văn chương đầu tiên. Lê Lựu đã thành bạn của nhiều người suốt từ Boston đến Washington nhờ những mẩu chuyện đời của chính mình trong và sau chiến tranh.
Biết nói gì đây khi nhớ lại cảnh ngay dưới mái hiên sau nhà mình, Nguyễn Quang Thiều, Hữu Thỉnh và Lê Minh Khuê thay nhau bế ẵm và hát ru Lily, đứa con gái mới 2 tháng tuổi của chúng tôi. Rồi cảnh Thiều, Phạm Tiến Duật và Tô Nhuận Vỹ cùng đá bóng với Myles - con trai chúng tôi, chạy quanh khắp sân sau; hoặc cảnh nổi tiếng nhất là Nguyễn Quang Sáng ném bóng rổ ở ngay gần đó.
Những chuyện ấy đều như có phép lạ. Có lẽ một phần là vì cái lạ lùng thật sự của chúng: cứ nghĩ mà xem, những kẻ cựu thù, gặp gỡ nhau như thế, nấu nướng, mua sắm, ăn uống, kể chuyện cho nhau nghe như thế, và sống với nhau như một gia đình trong ngôi nhà ấy ở Dorchester. Mà tất cả những cái lạ lùng ấy lại còn phong phú sâu sắc hơn lên nữa nhờ những bài ca điệu nhảy cùng nhau, những bài thơ cùng đọc cùng nghe, và một niềm vui giản dị khi hình như tất cả đã cùng tìm thấy một con đường thoát ra khỏi cuộc chiến, khỏi câu chuyện bao trùm xưa cũ của quá khứ.
Những hội thảo văn chương của chúng tôi hồi ấy thu hút mọi người từ khắp nơi đến chỉ cốt để gặp gỡ các nhà văn Việt Nam. Năm 1999 là thời điểm bước ngoặt của chúng tôi. Dự án Full Circle - Vòng tròn trọn vẹn - của chúng tôi đã đưa được hai nhóm cựu binh Mỹ trở lại thăm những chiến trường xưa ở Việt Nam và gặp gỡ những con người mà họ đã từng ngắm bắn.
Hội Nhà văn chủ trì cuộc hội nghị đầu tiên của các nhà văn cựu chiến binh Việt Nam và Mỹ. Tôi nhớ cả "Đêm thơ trữ tình" ở Hà Nội, ngồi trong gian phòng đặc khói thuốc lá, lắng nghe các tác giả Mỹ và Việt thay nhau đọc tác phẩm của mình, lần đầu tiên nhận ra những tiết tấu không thể quên được của những dòng chữ mà nhiều năm sau này một số chúng tôi đã may mắn dịch được sang tiếng Anh, hoặc chí ít thì cũng đã cố làm công việc ấy.
Và tôi cũng nhớ cái giây phút lúc đến thăm Hội Nhà văn, đang ngồi đó thì Vũ Tú Nam và Chính Hữu đến trao cho chúng tôi những trang giấy pơ-luya đánh máy của bản thảo sau này sẽ thành tác phẩm Mountain River. Đó chính là lịch sử, một lịch sử độc đáo, vì tôi không thấy có một giây phút nào khác sau chiến tranh mà những người lính làm thơ của nước này trao bản thảo tác phẩm của mình cho những người lính làm thơ của nước kia.
Năm 1992, tôi có dịp trở lại Việt Nam để phỏng vấn các nhà văn ở khắp mọi miền đất nước. Với tôi, đó là một trải nghiệm khải huyền. Tôi đã nghe Vũ Tú Nam kể lại những ngày tranh cãi về giải thưởng trao cho cuốn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, về những lá thư mà vợ chồng anh ấy viết cho nhau suốt những năm tháng xa cách trong chiến tranh.
Tôi đã nghe Nguyên Ngọc kể về thời thơ ấu của anh ấy, chuyện vợ anh ấy bị bắt, cuộc đoàn tụ kì lạ khi tù binh được trao trả năm 1973. Tôi đã gặp Lý Lan, người đã hỗ trợ công việc dịch thuật của tôi lần đầu tiên ở Sài Gòn. Tôi vẫn giữ những cuốn băng ghi âm ấy, âm thanh nền là tiếng gà gáy, tiếng xe đạp và xe máy thảng hoặc chạy qua chứ chưa thấy tiếng xe hơi rồ máy bóp còi.
Tôi nhớ một hôm ở Hà Nội, đang đánh vật với việc dịch ở báo Văn Nghệ Quân Đội thì có ai đó cúi xuống bên cạnh hỏi cái gì đó rồi rành rẽ nói mấy từ "La Colline des vaches machine" - đồi xay thịt bò, khiến tôi bỗng nhớ lại "Hamburger Hill", nơi diễn ra một trong những trận đánh khốc liệt nhất trong năm 1969.
Vào cái ngày có tin bình thường hóa quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam, tôi mới chợt nhận ra một sự thật là chúng ta đã là một phần của lịch sử, một phần của quá trình tiến lại gần nhau của hai đất nước chúng ta. Hôm đó, Nguyễn Duy đang ở chỗ chúng tôi và vừa rời nhà đi tham quan thủ đô Washington.
Kevin Bowen là nhà thơ, dịch giả, giám đốc Trung tâm William Joiner - Nghiên cứu về Chiến tranh và Hậu quả xã hội, thuộc Đại học Massachusetts, Boston.
Ông nhận bằng Cử nhân từ Đại học Massachusetts, Boston, bằng Tiến sĩ tại SUNY Buffalo và sau đó tiếp tục nghiên cứu tại Đại học New College, Oxford.
Ông đã nhận Giải Pushcart, nghiên cứu về Thơ và Hư cấu từ Hội đồng Văn hóa Massachusetts và học bổng nghiên cứu thơ từ Quỹ Nghệ thuật Quốc gia Hoa Kỳ. Năm 2011, ông và vợ con đã đến Việt Nam để nhận Giải thưởng Phan Châu Trinh cho những đóng góp của ông trong việc truyền bá văn học, văn hóa Việt Nam tới công chúng Mỹ.
Cùng ngày ấy, Nguyễn Duy đến thăm đài tưởng niệm các cựu binh của cuộc chiến tại Việt Nam và sau đó viết một bài thơ rất hay về nó. Cũng đúng hôm ấy, hoàn toàn không biết gì về sự có mặt của Duy tại Mỹ, tờ The Boston Globe đăng toàn bộ bản dịch một bài thơ của anh ấy - "A Small Song of Peace" - ngay trên trang xã luận để đánh dấu sự kiện bình thường hóa quan hệ. Hôm sau, trong mục thư gửi tổng biên tập của báo, một độc giả đã viết rằng cả số báo hôm ấy chỉ có bài thơ này là quan trọng nhất.
Thời điểm ấy đánh dấu một bước tiến quan trọng, tôi nghĩ vậy. Nó báo hiệu rằng công việc giao lưu và dịch thuật mà chúng tôi đã khởi sự như một mạo hiểm chung với các cộng sự Việt Nam đã trở thành một sự nghiệp với sức sống riêng của nó, rằng nền văn học Việt Nam cũng như các tác gia của nó nay đã được công chúng Mỹ đón nhận.
Một sự kiện xuất bản khác hồi đó cũng báo hiệu bước chuyển biến ấy là việc bài "To Return to the Urges of the Beginning" của Phạm Tiến Duật được chọn vào tuyển tập những bài thơ được yêu thích nhất tại Mỹ - một công trình lớn có ý nghĩa lịch sử của Robert Pinsky, thi khôi của nước Mỹ lúc bấy giờ. Một nhà giáo, nữ thi sỹ trẻ người Mỹ và một người bạn Việt Nam là học sinh của chị đã đề cử bài thơ này cho tuyển tập.
Công việc đã không phải lúc nào cũng dễ dàng. Visa phải xin và lấy ở Bangkok. Lê Lựu, Nguyễn Quang Sáng, Ngụy Ngữ và Nguyễn Khải đã bị một đám đông tấn công sau một sự kiện tổ chức ở thư viện công cộng Boston. Một nhóm cựu binh Mỹ đã phải làm rào cản để bảo vệ họ. Một trong số đó, nhiều các bạn đã biết, là nhân vật chủ ngân hàng Bob Glassman.
Dịch thuật lúc nào cũng là một thách thức. Những người cùng dịch cuốn Thời xa vắng - có David Hunt, tôi, Ngô Vĩnh Hải và Nguyễn Bá Chung, hai Việt hai Mỹ - chúng tôi đã học được rất nhiều khi cùng nhau đánh vật với từng dòng của cuốn sách đó, cố truyền đạt trung thực nhất những gì Lê Lựu đã mô tả, từ trời, đất, cuộc sống thành phố, nông thôn, rồi cuộc chiến, và cả những lối chơi chữ, tính hóm hỉnh và chất nồng ấm trong giọng văn của anh ấy. Được trở lại Việt Nam là quan trọng nhất, được về tận làng quê của Lê Lựu, thấy dân làng oằn mình ngoài đồng ruộng, bước dọc bờ sông vào ngày hội Tiên Dung, nhìn cờ phướn tung bay trong gió, những đội nhạc hỉ hội hè, tất cả thật không thể thiếu được.
Có một nhà phê bình vĩ đại đã từng nói mục đích của nghệ thuật là khiến ta nhìn thấy. Các nhà văn Việt Nam đã làm việc với chúng tôi từng bước một để giúp cho cái phần dịch giả trong con người chúng tôi nhìn ra được những gì cần phải thấy. Chuyện này thật nhiều ý nghĩa. Với tôi chẳng hạn, cái có ý nghĩa nhất là những trải nghiệm tuyệt vời trong chuyến viếng thăm làng quê của Nguyễn Quang Thiều, thấy con đê anh ấy từng nằm ngủ trên đó hồi còn bé, những con chuồn chuồn chao lượn trên mặt ao, nằm ngủ trên chiếc giường của bà nội anh ấy.
Như tôi đã nói, những chuyện ấy, cả cái quá trình ấy, không phải lúc nào cũng dễ dàng. Và khó nhất là với người Việt Nam ở hải ngoại. Có những người đã chống lại tiến trình giao lưu ấy cả trên báo chí và trên đường phố, với những cuộc biểu tình mỗi khi chúng tôi có khách từ Việt Nam sang. Đã có cả những lời dọa giết và đánh bom. Với nhiều người, nỗi đau ấy là chân thực và có vẻ không thể hàn gắn được.
Dù sao, qua suốt những năm tháng ấy, một cuộc đối thoại đã ra đời, một cuộc đối thoại đòi hỏi lòng dũng cảm ở cả hai bên. Chúng tôi biết danh tiếng Nguyên Ngọc, Tô Nhuận Vỹ, Trần Văn Thủy, những người sang Mỹ bằng học bổng Rockefeller. Và tất nhiên là cả hai nhân vật danh tiếng khác nữa, hai học giả đầu tiên sang với chúng tôi bằng học bổng Rockefeller: Giáo sư Nguyễn Huệ Chi và Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến - người đã vừa mới qua đời. Mặc những lời đe dọa chống đối, họ đã không lùi bước, đã sang với chúng tôi, và đã tạo lập được một cầu nối để nhiều người khác sau này tiếp bước họ.
Theo dòng thời gian, những tác phẩm dưới dạng sách, bài viết và thơ trên các tạp chí đã lần lượt được thế giới biết đến và tiếp nhận. Writing Between the Lines, Mountain River, Distant Road, Six Vietnamese Poets, Early Zen Poems from Vietnam, đã mở đường cho những tác phẩm mới nữa mà chúng tôi biết là sẽ xuất hiện.
Cuối cùng, cho phép tôi được nói một điều, rằng có lẽ tôi sẽ không thể có đủ lời để nói về chuyện toàn bộ những cuộc giao lưu ấy đã có ý nghĩa như thế nào đối với chính gia đình mình. Làm sao có thể quên được Đoàn nhạc Sông Hương của Võ Quê, đã diễn một đêm trên sông nước vằng vặc ánh trăng ở Huế, rồi lại diễn ở ngay sân sau nhà chúng tôi ở Doschester.
Hay cái đêm chúng tôi bị tấn công ở Thư viện Công cộng Boston. Rồi những lúc ngồi ở hiên nhà nghe ca khúc Trịnh Công Sơn với phần đệm guitar nhẹ nhàng, mà nhiều năm sau lại được ngồi với Duy trong một quán bar Sài Gòn, nghe chính Trịnh Công Sơn hát những ca khúc ấy. Lại còn Chu Lượng, Lương Tu Duc, Nguyễn Quang Thiều và Thuật con trai anh, đem niềm vui của nghệ thuật múa rối nước sang cho trẻ em ở Dedham và Boston, thậm chí cả diễn riêng cho buổi sinh nhật của con gái tôi. Hoặc ngồi trong vườn thơ ở Sông Bé với Thu Bồn, nghe hát ca kịch và giọng đọc của các nhà thơ vang vọng vào trời đêm trên những làn khói của lửa trại.
Hoặc ngồi ở Bắc Ninh, nhà Đỗ Chu, nghe các liền anh liền chị Quan Họ kể chuyện đời và cất tiếng hát. Hoặc cùng uống trà trên tầng áp mái của chúng tôi cùng với hàng chục nhà văn từ Việt Nam sang, mà Nguyễn Quyến và Paley thì mải mê trò chuyện đến tận khuya. Hoặc tất cả những buổi đọc văn đọc thơ ấy, khám phá những trang viết của những người sang làm khách ở nhà chúng tôi, mà lần lần tác phẩm của họ đã bắt đầu được dịch sang tiếng Anh; nghe những giọng văn độc đáo ấy - Lý Lan, Phan Thị Vàng Anh, Lê Văn Thảo, Cao Tiến Lê, Ý Nhi, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Khải, Nguyễn Trí Huân, Ma Văn Kháng, Trần Đăng Khoa, Đỗ Chu, Văn Lê, Bảo Ninh, Chu Lai, Nam Hà, Trung Trung Đỉnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Thị Như Trang, Ngân Vịnh, Bùi Ngọc Tấn, Dương Thuấn, và còn bao nhiêu người khác.
Với một hạnh ngộ lớn lao như thế này, tôi chỉ còn biết cứ thật lòng nói lời cảm ơn, cảm ơn, cảm ơn.

Trịnh Lữ dịch
______________________________________________________

Người đi tìm cơn mưa hoa mận trắng

Trong một cuộc phỏng vấn, một nhà văn già từng chia sẻ với tôi, đại ý rằng, có một bộ phận không nhỏ các nhà văn trẻ hôm nay rất biết dùng trí thông minh để tự PR làm cho mình trở nên nổi tiếng. Không ít người đã "ăn gian" được rất nhiều về mặt danh tiếng chỉ bởi họ lợi dụng được ưu thế của truyền thông, của Internet.
So với những giá trị thực mà họ tạo ra thì họ đang mặc một chiếc áo quá rộng. Ảo tưởng về bản thân, sự hấp dẫn bởi những phù phiếm từ hiệu ứng đám đông đã tước mất quyền được cô đơn của không ít người cầm bút. Sự lặng lẽ cần có đang mất dần đi trong tâm thế của người viết trẻ. Ý kiến này làm tôi không khỏi suy nghĩ, và tiếc là tôi đang nhìn thấy nhiều ví dụ minh chứng cho điều này. Nhưng đọc văn Phạm Duy Nghĩa, và nhất là khi gặp anh, thì tôi biết mình đã có một ví dụ khác.
Phạm Duy Nghĩa giành giải Nhất cuộc thi truyện ngắn 2003-2004 của Tuần báo Văn nghệ với tác phẩm Cơn mưa hoa mận trắng. Nhưng giải thưởng chỉ là một thước đo, và thậm chí chẳng làm cho người ta quan tâm đến một người cầm bút nào đó nhiều hơn, bởi tâm lý hoài nghi từ lâu đã có sẵn trong không ít bạn đọc văn chương.
Có những người cầm bút giành giải cao nhất rồi mất hút trong đời sống văn học. Họ không thể làm nên tên tuổi của mình. Nhưng với Phạm Duy Nghĩa, phải nói rằng, giải thưởng thực sự không phản ánh sự chạm ngõ của anh với văn học, mà ngạc nhiên là, nó làm cho những người quan tâm đến văn học giật mình nhận ra anh đã ở giữa làng văn rồi.
Bất ngờ với truyện ngắn giành giải nhất Cơn mưa hoa mận trắng, tìm đọc các tác phẩm trước đó của anh, bạn đọc có thể có cảm giác "ngỡ ngàng", thì ra cái anh chàng giáo viên Trường Cao đẳng Sư phạm Lào Cai trẻ trung kia đã viết từ rất lâu và anh đã kể những câu chuyện hay không kém gì cái giải nhất anh vừa chạm tới, chỉ là anh quá khiêm nhường, quá lặng lẽ mà ít người biết đến đấy thôi.
Trong thời buổi đa số đang mắc chứng bệnh ngại đọc thì một cuốn sách, một tác phẩm văn học chẳng dễ gì trở thành món ăn trong thực đơn tinh thần của chúng ta, nếu nó không thực sự hấp dẫn. Người ta thường mong chờ những cuốn sách kéo mình đi, hơn là cái cảm giác phải cố để đọc nó.
Với tôi, những câu chuyện của Phạm Duy Nghĩa đã làm được điều tuyệt vời này, là nó kéo mình đi, mình tự nguyện, thậm chí hạnh phúc với những vui buồn, bất an, dằn vặt bởi các nhân vật có mặt trong chuyến đi đã không ngừng "hành hạ" mình. Đó có thể là một cô gái bán dâm khát khao được yêu, một người đàn ông Mèo kém thông minh và tốt bụng đến khó tin, một cô giáo cắm bản ở vùng cao, một chàng trai biết nói chuyện với những bông hoa cẩm tú cầu…
Những nhân vật trong truyện ngắn của Phạm Duy Nghĩa thực sự đã khuấy đảo ta, "làm phiền" ta và buộc ta phải suy nghĩ. Anh đã viết về miền núi theo một cách riêng, không "đơn giản, thật thà đến ngớ ngẩn như một số người đã và đang viết, mà là thế giới miền núi lung linh, huyền ảo và gợi cảm" (nhận xét của nhà văn Sương Nguyệt Minh).
Phạm Duy Nghĩa quan niệm: "Miền núi, tự bản thân nó đã đẹp, nên văn cũng phải đẹp cho xứng đáng với nó. Viết về miền núi mà nhạt nhòa, không thấy cái tươi xanh hùng vĩ của nó ở đâu, thì tự thấy xấu hổ với chính thiên nhiên miền núi. Là một trong những cây bút trẻ người Kinh (khá ít ỏi) viết về miền núi hiện nay, tôi cố gắng trình bày cái thế giới còn lắm mời gọi này với một màu sắc riêng, cố gắng không lẫn, ít lẫn vào khu rừng văn chương vốn rất sum suê của những người đi trước".
Hơn 10 năm làm nghề dạy học, gắn bó với vùng núi cao Tây Bắc là những trải nghiệm quý giá của Phạm Duy Nghĩa, và là chất liệu làm nên những trang viết đẹp nhưng không kém phần quyết liệt của anh về đời sống, về phận người.
Đó là những chuyến đưa sinh viên đi làm công tác tình nguyện xóa mù chữ ở các bản làng xa xôi, những câu chuyện dọc đường, những mối tình thầm kín giữa thầy và trò, những lần nhỡ xe phải đi bộ hàng chục cây số đường rừng, chỉ nhìn xuống chân, không biết bên phải, bên trái hay trước mặt mình là gì, vì xung quanh sương mù dày đặc …
Và không ít những truyện ngắn hay đã được Phạm Duy Nghĩa xây dựng trên nền của những câu chuyện có thật. "Cái cô Diễm chỉ quen sơ sơ anh chàng văn sĩ trên một chuyến tàu mà dám liều mạng về thủ đô ở với anh ta mấy ngày, trong Cô gái xuống ga Vĩnh Yên là có thật. Hiện cô gái này vẫn bán cà phê trên quãng đường vắng ở thành phố Lào Cai, mỗi lần về qua, tôi đều ghé thăm. Còn cái chuyện giáo viên cắm bản, vì "hoàn cảnh vùng cao" nên một nam một nữ phải ở chung phòng mấy tháng liền trong Cơn mưa hoa mận trắng chính là thực tế tôi đã chứng kiến tại một xã hẻo lánh ở Lào Cai".
Ngồi trước tôi bây giờ không còn là một Phạm Duy Nghĩa thầy giáo nữa. Anh đã xa rời cái không gian miền núi mình gắn bó để trở về Hà Nội, bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ Văn học với đề tài "Văn xuôi Việt Nam hiện đại về dân tộc và miền núi", và là Trưởng ban Lý luận phê bình của Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
Cuộc bỏ rừng về phố của Phạm Duy Nghĩa là một quyết định khó khăn: "Tôi không hề có ý định về Hà Nội và nói thật là tôi không yêu cái cuộc sống đô thị ồn ào. Tôi là người thích viết trong sự tĩnh lặng. Ở miền núi, tâm thế tôi thanh thản hơn, tĩnh hơn". Sau khi giành giải Nhất báo Văn Nghệ, Phạm Duy Nghĩa nhận được nhiều lời mời về làm việc ở thủ đô. Nhà phê bình Văn Giá tha thiết mời anh về làm Phó chủ nhiệm Khoa Viết văn Nguyễn Du của Trường Đại học Văn hóa, là một ví dụ.
Trở thành một nhà văn mặc áo lính trong khu nhà số 4 Lý Nam Đế, Hà Nội với Phạm Duy Nghĩa chỉ đơn giản là một sự xê dịch, hoàn toàn không phải một tham vọng nào khác. "Tôi nghĩ người cầm bút thì ở đâu cũng viết được. Tuy nhiên, tôi cũng thấy một thực tế là có nhiều nhà văn lúc sống ở địa phương thì viết hay hơn".
Phạm Duy Nghĩa đã chọn lấy một sự đổi thay là tự bứt mình ra khỏi môi trường sống quen thuộc mà anh đã gắn bó nhiều năm tháng, cũng chính là vùng đất đã cho anh những chất liệu độc đáo để anh tự viết tên mình trong đời sống văn học bằng những truyện ngắn hay. Tôi nghĩ, đây cũng là một cuộc thử nghiệm của chính anh. Chắc chắn là không tránh khỏi những loay hoay, nhưng là những loay hoay thú vị.
Vốn là một thầy giáo, Phạm Duy Nghĩa lúc nào cũng cho ta cảm giác nghiêm ngắn, chuẩn mực. Trong văn chương phóng khoáng bao nhiêu, thì ngoài đời Phạm Duy Nghĩa chỉn chu bấy nhiêu. Một vài bạn văn nhà số 4 Lý Nam Đế thường kể cho tôi nghe, anh chàng nhà văn, tiến sĩ này không bao giờ mặc áo thun, áo không có cổ, áo sơ-mi ngắn tay đến cơ quan. Anh ăn mặc bao giờ cũng nghiêm túc nhất có thể. Anh khó tính đến sốt ruột cả trong cuộc sống và văn học.
Bước vào phòng văn của Phạm Duy Nghĩa, bạn hoàn toàn có thể nhầm tưởng căn phòng đã được trang trí, cắt đặt bằng đôi tay của một người con gái nào đó. Nhưng bạn đã nhầm đấy. Bình hoa màu trắng thanh nhã với những bông hoa tím và trắng đan xen là tự tay chủ nhân mua về bày biện. Chủ nhân cũng tự tay lau dọn căn phòng của mình sạch sẽ và ngăn nắp.
"Với văn chương, tôi lúc nào cũng cẩn thận chăm chút từng câu từng chữ. Tôi không bao giờ viết một lần là xong. Bản thảo của tôi luôn bị sửa chữa chi chít. Trong biên tập, tôi khó chịu với từng lỗi chính tả bị bỏ sót. Tôi ghét cay ghét đắng những câu văn viết sai ngữ pháp. Điều này có lẽ tôi chịu một phần ảnh hưởng của những năm tháng làm nghề dạy học, luôn phải chấm bài của học trò. Tôi là người cầu toàn và duy mỹ. Những cái sai, cái xấu, dù ở hình thức biểu hiện nào cũng đều làm tôi dị ứng. Tôi cũng là người khó chịu đến nỗi, nếu một cô gái nhắn cho tôi một cái tin mà sai lỗi chính tả thì tôi không chơi với cô ấy nữa. Tôi nhắn tin cho một người bạn, lâu quá họ không nhắn lại thì tôi cũng có thể xóa số của họ ngay".
Cực đoan đến mức không chịu thỏa hiệp với những cái bất bình thường, khó tính với mình và thừa nhận khó tính cả với người nên tuổi gần 40, anh chàng nhà văn, tiến sĩ Phạm Duy Nghĩa vẫn là lính "phòng không". Bạn văn ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội không ít người sốt sắng lo tìm người mai mối cho tác giả Cơn mưa hoa mận trắng sớm có tổ ấm đi về, nhưng anh chàng vẫn bình chân như vại.
Hài hước, Phạm Duy Nghĩa kể cho tôi nghe câu chuyện anh được người lái xe của Tạp chí làm mai mối cho một cô gái. "Nàng làm ở ngân hàng và đang theo một khóa cao học. Sau màn giới thiệu đôi bên, nàng nói nàng chưa nghe nhắc đến Tạp chí Văn nghệ Quân đội bao giờ. Anh bạn lái xe của tôi gỡ điểm cho nàng bằng cách cho biết Văn nghệ Quân đội là nơi nhà thơ Trần Đăng Khoa từng công tác, nàng đáp nàng không biết Trần Đăng Khoa là ai.
Bạn tôi lại hỏi, nàng có biết nhà văn Nguyễn Minh Châu không, nàng lắc đầu. Hỏi nhà văn nào nàng cũng không biết và trả lời nhát gừng. Tôi giục anh bạn "bỏ của chạy lấy người". Trên đường về anh bạn cứ trách tôi thiếu kiên trì, tôi thừa nhận nhưng vẫn hậm hực, lẽ nào nàng không biết tên các nhà văn đã được đưa vào sách giáo khoa giảng dạy trong nhà trường? Hay nàng chưa học hết phổ thông?".
Chúng tôi đã cùng cười vang trước câu chuyện đi tìm người trong mộng của anh chàng nhà văn- tiến sĩ trẻ, tác giả của nhiều truyện ngắn được bạn đọc yêu mến. Thực là khó cái chuyện tình yêu trên đời. Sự gắn kết của một người đàn ông và một người đàn bà xưa nay vốn được xem là cái duyên Trời cho. Nếu đúng như vậy thì Phạm Duy Nghĩa chẳng cần phải sốt ruột.
Rồi cái ngày người phụ nữ mang theo tình yêu nguyên khôi đáp xuống đời anh từ một Cơn mưa hoa mận trắng, như anh mong muốn, chắc chắn sẽ đến. Người phụ nữ ấy sẽ làm cuộc sống của anh bận bịu hơn, sôi động và nhiều màu sắc hơn, không còn những ngày thứ bảy, chủ nhật đến cơ quan làm việc vì không có ai để trò chuyện, không còn cảnh một mình lẻ bóng đường về nhà nữa.
Và hy vọng trong lúc chờ đợi người phụ nữ của mình, Phạm Duy Nghĩa sẽ kể cho chúng ta nghe những câu chuyện mới của anh, không phải ở miền núi, mà ở thành thị, nơi anh đang sống và trải nghiệm mỗi ngày

theo Bình Nguyên Trang
__________________________________________________________

Cơm gạo mới

Truyện ngắn của Hương Thị

Giữa thu, gió heo may thổi se se trên cánh đồng. Làng đói đã mấy tuần nay, từng đôi mắt háo hức hướng ra cánh đồng mờ mịt trong sương. Thoắt cái lúa đã chuyển sang mầu vàng chanh. Cả làng ào ra đồng, hối hả dưới cái nắng dịu nhẹ chưa đủ để làm chín già những ruộng lúa xác xơ. Gié lúa lép kẹp nằm lọt thỏm trong tấm thân gầy còm, lơ thơ vài mảnh lá sâu sia. Mồ hôi từng dòng nặng nề bò trên gương mặt nhăn nheo của người già. Thanh niên cũng chẳng muốn trêu chọc nhau nữa, tất tả, ủ rũ, thở dài thõng thượt. Cô tôi nén tiếng thở dài trong lồng ngực hóp heo, nhẫn nại như chiếc máy khâu nhịp những nhịp đều đặn xuống mặt ruộng, đặt về phía sau từng đon, gốc lúa nặng trịch mà đầu bông tun ngủn, loe hoe. Mỗi lần vươn dậy cho khỏi mỏi, xương sống cô kêu rắc một tiếng, tưởng chừng lìa ra. Rồi cô lại cắm cúi, nhấp nhô trên lúa, lúa còm không cao hơn nổi thân người chia đôi.
Những con chim cuổng, chim én mất tổ dáo dác bay lên đen trời, như tàn tro hóa vàng ngày ba mươi tết. Vài đứa trẻ nhảy loi choi khi vớ được ổ trứng nằm gọn trong lúa vàng ươm, hò hét nhau đã đánh thức lũ chim. Bất chấp những cái vợt giơ lên, chúng điên cuồng lao vào lũ trẻ hòng giằng lại ổ trứng, miệng phát ra những tiếng kêu kinh hoàng. Cuộc hỗn chiến xảy ra, đến lúc ấy cánh đồng mới có chút âm thanh náo động. Tôi lầm lũi đi sau cô. Gom những đon lúa lại, cẩn thận sẽ sàng kẻo rụng mất những hạt quý báu, bó lại thành từng ôm to để lên bờ ruộng, thèm thuồng nhìn lũ trẻ vô tư đùa nghịch chạy khắp cánh đồng.
Quết trầu trên môi bà khô lại, thâm xịt. Mình bà cong gập xuống ruộng như một dấu hỏi dường đã tuyệt vọng. Theo bước chân thoăn thoắt của cô, gánh lúa cao lút đầu người nhún nhảy về làng, không ít trai làng và cả các bà già trông theo ao ước, giá như cô là người nhà họ. Cô tôi hai mấy tuổi rồi tôi chưa đếm nổi, mà cô cũng chẳng cần biết, vì một vài năm sau khi quá tuổi lấy chồng, chẳng ai hơi đâu mà đếm tuổi mình nữa. Nhiều lúc tôi thấy cô nép vào bụi cúc tần, tần ngần nhìn đám cưới nhà ai đi qua ngõ.
*
Hai đon lúa to, xâu vào hai đầu đòn xóc, tôi phải gánh oằn lưng mà đập ra chỉ được vài đấu. Cô tôi đội thúng thóc lên cao trên đầu, từ từ nghiêng miệng thúng, lúa từ trên tuôn xuống vù vù, bay lả tả, hết cả buổi chiều mà đống tụ lại chỉ bằng nửa đống văng ra nhưng cô dường như không để ý. Đôi lúc mái tóc dài mượt của cô xổ tung, óng ánh trong nắng, bay quấn quýt cả vào những hạt thóc vàng chanh. Ánh mắt cô nhìn xa hun hút, sẫm mầu sim chín. Rồi cô ngồi bệt xuống giữa sân, tẩn mẩn bóc những thân lúa vàng ươm, bóc những bầu đòng còn sót lại, tẩn mẩn tách ra từng tí một xem cây lúa chửa như thế nào. Bóc chán, cô nhấm nhẳn nhằn những gié lúa ngòn ngọt, thấy tôi, cô chìa ra một nắm. Tôi lắc đầu, cô cắp cái thúng con con chạy vụt đi.
Đồng làng mê mải nắng, đám trẻ con gáy cháy khét đang tranh nhau chí chóe vạt thóc rụng góc ruộng. Khắp cánh đồng trẻ con vừa mót thóc vừa đùa nghịch túm tụm, bóng xeo xéo gẫy khúc dài nghêu trên san sát gốc rạ, cô tôi cứ lủi thủi một mình, chỗ nào chúng mót chán rồi mới lê la đến, cắm cúi như con chim sẻ nhẫn nại, thi thoảng bị lũ kiến lửa đốt nhói tay. “Tao mà giầu, tao sẽ nuôi chúng mày bằng cả một nhà thóc”... Đàn kiến vẫn lầm lũi theo nhau ngoằn nghoèo, li ri, moi móc rồi hỉ hả lôi lên những hạt lọt sâu trong khe rãnh. “Lép cả thôi, chúng mày ăn thế nào được mà cứ cố”? Cô vừa lẩn mẩn nói chuyện với lũ kiến, vừa hát những câu gì không rõ. Chỉ miên man, da diết như cứa buốt ruột gan. Tôi không dám lại gần cô những lúc ấy. Sau này lớn lên, tôi mới biết rằng mình hoàn toàn có lý. Khi lặn sâu vào trong nỗi đau, người ta sẽ thấy những gì đã qua chẳng thấm tháp vào đâu để tiếp tục chịu đựng thêm những gì sẽ đến. Cô tôi cứ ngồi thế cho đến khi hoàng hôn đã phủ sẫm đồng, những đống rấm cháy ngun ngún, khói lênh loang mờ ảo. Cái thúng con con chơ chỏng vài hạt lót đáy. Hơi lạnh miên man trải khắp cánh đồng sương buồn hiu hắt.
*
Chú Hiệp cụt uống hết hai lần ấm chè xanh rồi lệch thệch cái nạng gỗ ra tận hàng rào cúc tần ngóng cô. Bà tôi thương hại bảo chú vào nhà cho khỏi muỗi đốt. Chú cười hề hề, vỗ vỗ vào hai cái chân gỗ: “Có giỏi muỗi đốt vào đây, cong vòi. Bà cứ mặc con”. Bà lắc đầu, toan nói gì đó lại thôi. Cô tôi về, người ngai ngái mùi khói. Chú Hiệp le te lấy nước, cầm quạt quạt lấy quạt để. Cô chả nói gì, ngồi vào bếp ăn cơm. Cô lấy một cái bát tô to, xới cơm, chan canh, và húp soàm soạp, chú Hiệp vẫn ngồi bên cạnh, vừa quạt vừa cười âu yếm, xót xa. Ăn xong, cô ra giếng. Trăng lên lấp lóa sau những tán lá bưởi, lá mít. Chú Hiệp nháy nháy mắt với tôi, lộc cộc chống nạng theo cô. Chiếc dây chuyền vàng trên cổ áo mở rộng của chú bắt trăng sáng lấp lánh. Cô tôi cúi xuống múc nước. Chú Hiệp nhìn hút vào tấm lưng và đường cong lượn tròn ôm lấy thành giếng, nuốt nước bọt. Đột ngột, cô giơ gầu nước dội từ đỉnh đầu xuống. Tóc cô sổ tung, nước bắn tung tóe. Chú Hiệp nhảy lùi ra, sững sờ. Nước bết dính áo vào khuôn người cô, ánh trăng tràn vào ngời ngợi. Cô cứ múc nước, cứ dội. Chú Hiệp dùng dằng rồi cũng phải đánh tiếng chào bà tôi, ra về.
Nửa đêm tỉnh dậy, tôi nghe tiếng bà thủ thỉ: “Nó đồng ý ở rể, còn chê nỗi gì?” Tiếng cô tôi thút thít hồi lâu, rồi nghẹn ngào: “Đã lỡ thì lỡ cho luôn. Đèo bòng làm sao được hai cái chân gỗ hả bu?” Bà tôi: “Nhà nó có của ăn, của để. Mày vất vả gần nửa đời rồi”. Cô tôi bật khóc tức tưởi: “Chân người ta bị què là do đào vàng sập hầm, u biết không?”
*
Những ngày sau, cô tôi tối nào cũng ở ngoài đồng ngoài bãi rất muộn để tránh phải gặp chú Hiệp. Tôi cũng không thiết tha với những cái bánh khảo, kẹo bột hay cái súng cao su làm từ chạc cây ổi nhẵn bóng mà chú dúi cho nữa. Chú lại rủ tôi tối tối sang nhà Tiến Chính xem video. Toàn phim chưởng Hồng Kông, đấm đá tít mù, yêu đương tay ba tay tư, không phải làm mà vẫn có tiền phiêu bạt khắp giang hồ, ăn ngon mặc đẹp, đúng là sở thích của tôi. Giá vé mỗi lần xem là một trăm đồng, tôi thèm lắm nhưng đào đâu ra, nên toàn chờ chiếu được nửa buổi, chủ nhà phải vào sân để quản lý cái rạp chiếu tại gia, bảo quản cái ti vi to đại đặt giữa sân và đầu băng, không bị bọn trẻ con mải chơi, tuột khỏi tay người lớn chạy lên quấy phá, lúc ấy tôi mới trèo tường vào. Chắc có lần nhìn thấy tôi nhảy tường xuống ngã tập tễnh nên chú Hiệp cứ ăn cơm xong là sang nhà tôi chờ. Chú chả vội. Tôi có ăn cơm muộn, tắm muộn, chú càng mừng. Vừa chờ vừa tranh thủ kể những chuyến đi đường xa, thu được tiền thế nào, chuẩn bị mua sắm cái gì, giọng vói cao đến căng cuống họng để cô tôi dù đang giặt quần áo ngoài giếng hay cho lợn ăn phía sau nhà cũng phải nghe thấy. Vài lần cô cố tình sai tôi làm việc này, việc kia để chú sốt ruột mà đi xem trước. Nhưng sau thấy như thế càng có lợi cho chú nên cô phải gọi tôi ra nói thẳng:
- Đừng bán rẻ cô lấy mấy buổi xem phim nhé.
Tôi lặng lẽ gật đầu. Cô thở dài, xoa xoa đầu tôi, dịu giọng:
- Tranh thủ ôn lại bài vở đi. Lên cấp ba mà học dốt thì lớn rồi cô vẫn nọc ra đánh đít.
Vậy là ý cô đã quyết. Tôi vẫn ngán học hơn cả đi hót phân trâu. Ngồi trong lớp, chân tay thì tù túng, đầu óc cứ phải căng ra. Tôi thích được chạy nhảy tung tăng ngoài đồng, được tắm sông cùng trâu, được hò hét cho căng lồng ngực. Mắt thì nhìn trân trân lên bảng, nhưng đầu tôi lẩn vẩn những tính toán chiều nay sẽ đánh trận giả với bọn thằng Tong xóm Bến ra sao. Lần trước bên tôi thua to, chỉ tại bọn chúng chọn được chiến lũy là dãy núi đất, nơi có nhiều hầm hào lô cốt thực dân Pháp còn bỏ lại. Lần này, nếu chúng tôi chiếm lĩnh rồi cố thủ ở đấy trước thì chúng cũng đã biết hết mọi ngõ ngách để tấn công. Lại còn cuộc đua trâu ngày kia, cuộc thi bắn chim sẻ ngoài đồng Cói ngày kìa... Cứ thế, tôi được lên lớp là may. Nên khi hết cấp hai, tôi nằn nì cô cho đi học lái máy cày, vừa được suốt ngày ngoài đồng, lại có tiền đỡ bà, đỡ cô. Cô tôi không nói gì, quằn lưng gánh nốt gánh thóc cuối cùng trong chum, đi nửa ngày trời lên chợ huyện bán được giá hơn chợ quê mới đủ mua cho tôi bộ quần áo kẻ sọc, vài quyển vở, một chiếc bút Kim Tinh và hai quyển sách. Tôi lại lấy cớ, từ nhà lên trường huyện những mười lăm cây số, dù tôi không muốn cũng phải nghỉ học thôi. Đi bộ làm sao ròng rã ngày hai buổi suốt ba năm trời. Đến nước ấy thì cô có vẻ đầu hàng thực sự. Cô ngồi xoài xuống phản. Chỉ chờ có thế, tôi nhảy tót ra đồng. Đến khi tôi về, trời đã tối sẫm, cô tôi mới uể oải đứng dậy nổi lửa, khua nồi.
Mấy hôm nay nhà tôi đã phải ăn cháo độn sắn. Nuốt không trôi nhưng tôi vẫn không dám kêu ca. Tuổi ăn tuổi lớn, tôi ăn như hùm đơm đó, vì thế, có ăn cho đầy bụng là may. Khi lang thang ngoài đồng bãi hoặc tạt vào bờ rào hàng xóm kiểu gì tôi cũng sẽ vớ được cái gì đó cho vào mồm. Một đống cuống rạ đốt khói mù mịt, vài con chuột đồng, sẻ đồng hay củ khoai mót nướng lên thơm lừng hay quả ổi, quả sim hay bất cứ thứ hoa trái gì vớ được ở ruộng đồng hoặc dãy núi đất là đủ cho những trò đùa nghịch từ nửa chiều cho đến tối. Cái chính là tôi thương cô, thương bà. Dường như trời phú cho những đứa trẻ mồ côi và nhà nghèo sự mẫn cảm trước tuổi. Nếu tôi kêu nửa lời, có lẽ bà sẽ phải làm việc bằng hai, bằng ba bây giờ. Còn cô tôi, hoặc cô sẽ suốt đời không lấy chồng, hoặc sẽ phải lấy đại một người nào đó như chú Hiệp để làm cho tôi đầy cái bụng.
Nhưng đi học là đi học. Mười lăm cây số, không thể vừa vắt chân lên cổ vừa mắt trước mắt sau kiếm hoa quả dại bỏ bụng. Tôi nhắc lại:
- Những mười lăm cây số, cháu không đi bộ được suốt ba năm đâu. Cô cho cháu ở nhà đi làm.
Cô lại nhìn tôi, hai chân mày cau lại, ánh mắt đầy uy lực. Bà bảo, cô và bố tôi giống nhau như đúc, suốt ngày chả nói câu nào, nhưng đã mở miệng thì chẳng ai nói lại được. Tôi không còn bố để mà so sánh. Nhưng tôi chắc, ánh mắt kia, nếu là của bố tôi, thì ngay lập tức tôi đã phải tự mang roi lên để trên mông mình rồi.
*
Bỗng dưng tối ấy, chú Hiệp đến nhà rõ sớm, ăn mặc bảnh bao, đầu chải mượt, nháy nháy mắt nhìn tôi, rồi đưa cho tôi gói kẹo lạc rõ ngon. Cô tôi đưa cho tôi một trăm, bảo đi xem phim. Bà thì đã đi hội kể hạnh với các cụ trong xóm. Tôi thấy nghi nghi, không đi xem phim nữa mà lén rình ở hàng rào cúc tần. Chỉ thấy chú Hiệp đưa ra một gói giấy báo, cô tôi cầm lấy cất vào buồng. Chú Hiệp đi theo, định ôm choàng lấy cô, bị cô đẩy ra suýt ngã. Cô khẽ nói câu gì đó không rõ, nhưng tôi thấy chú ra về, miệng huýt sáo vang lừng.
Hôm sau tôi đã có chiếc xe đạp Thống Nhất nữ, tuy bong tróc hết sơn nhưng vẫn còn khá bắt mắt. Tôi bắt đầu tập xe quanh sân vì không dám ra ngoài đường, sợ bọn cùng xóm chê cười hoặc bu vào đòi đi thử thì hỏng hết cả xe. Cô cũng không biết đi, chỉ biết gồng tay giữ cho tôi, hai chân líu ríu chạy theo, vừa thở hổn hển cô vừa luôn miệng nói cô thấy ngoài huyện người ta đạp thế này, chống chân thế kia. Rồi tôi cũng mắm môi mắm lợi đạp được những vòng đầu tiên trước ánh mắt thán phục của cô tôi. Thêm năm vết bầm giập tóe máu ở đầu gối nữa thì tôi đã đi vững. Tôi guồng chân đạp như bay, chở theo cô tôi mắt nhắm tịt, mặt rạng ngời hạnh phúc lướt qua trước mắt bọn thằng Tong, con Mẹt và kết thúc chuyến du hí đầy tiếng cười của hai cô cháu ở chân đống rơm. Cô tôi cũng bị một cái u ở đầu gối, vì thế mà chú Hiệp càng được thể tối nào cũng mang sang cho mượn lọ dầu Thái Dương chú mua tận ngoài tỉnh.
*
Có xe, tôi đi học chăm chỉ, nhưng cũng không giỏi hơn là bao. Tôi đi tối ngày, thậm chí, chỉ ra đầu ngõ mua mấy trăm nước mắm cũng vác xe đi, đâm phải con trâu, nước mắm đổ, bát cũng rơi vỡ mất. Cô không mắng, bà cũng không có thời gian để mắng. Bà xin vào một cơ sở đan lát rổ rá dần sàng tư nhân, ngày làm không hết việc thì đêm về chong đèn đan tiếp. Còn cô tôi, ngày nào cũng theo đò vượt sông sang làng bên đóng gạch, gánh gạch oằn vai. Đêm nào cô cũng bóp dầu vào vai rồi vỗ bồm bộp, bẻ lưng kêu lục khục. Nghe tiếng cô ngáy, tôi khẽ tắt đèn, lên giường. Nhưng chỉ năm phút sau, tôi đã thấy cô đến bên, túm dậy, ấn đầu vào quyển sách.
*
Thấm thoắt lại đến vụ chiêm. Năm nay cả làng như vào hội. Lúa được mùa cứ trĩu cả lưng gánh mà lòng vui phơi phới. Tôi vẫn thấy bà buồn, cô buồn. Mấy tuần nay, không biết ở đâu ra tin đồn chú Hiệp sắp cưới cô tôi. Lễ đã sắm đủ, ngày cũng đã chọn, chỉ chờ gặt xong là rước dâu. Thậm chí, tôi còn nhìn thấy giữa quán rượu, chú Hiệp ngồi dương dương tự đắc, khoe đã tắm sông cùng cô trước gần chục đôi mắt hau háu của trai làng. Tôi phóng xe đâm rầm vào cửa quán, chú ngừng bặt, nhưng lại vẫy tôi đến cho gói lạc rang làm bọn trai làng cười ầm lên, tôi cáu tiết vờ như không nghe thấy, vội vàng lao đi, tiếng cười ô ố vẫn đuổi theo sau lưng. Ngày thường, đi làm từ sáng đến tối, cô không phải nghe ai hỏi han. Giờ cả làng tập trung ra đồng, tránh không được, trả lời mãi không ai tin, cô bực mình sắp giờ gặt vào sáng sớm và đêm khuya cho khỏi nghe tiếng eo sèo.
Mải vồ chuột, tôi còn nghe tiếng cô khẽ nói với bà, giọng ưu tư:
- Bán đi một nửa lúa vẫn chưa đủ.
Bà ngập ngừng:
- Hay là bán đi cả, rồi có đồng ra đồng vào thì đong gạo của hàng xáo ăn sau?
- Không được. Thằng bé đang tuổi ăn tuổi học, “ăn vóc học hay, ăn mày học dốt”. Thôi con sẽ có cách bu ạ.
Túm được con chuột đồng béo mẫm, quay lại vẫn thấy cô lấy nón quạt cho bà, hai mắt nhìn về đâu xa xăm, chợt nhớ ra, tôi hớn hở:
- Năm nay cháu được học sinh tiên tiến đấy. Gặt xong là cháu đi nhận phần thưởng.
- Thật không?
Tôi thấy bà cười, những nếp nhăn giãn ra trên gương mặt nhăn nheo. Tôi thấy cô đi đi lại lại bên đống lúa vừa gặt xong, chân tay như muốn múa lên cùng chiếc nón. Tim tôi cũng đập rộn lên như muốn vọt ra ngoài lồng ngực để guồng chân đi khắp cánh đồng.
*
Thức trắng đêm đập lúa, ai cũng mong có bữa cơm gạo mới vì đã phải ăn khoai sắn quá lâu. Nhìn thấy đống thóc ít ỏi nhà tôi, chú Hiệp có vẻ mừng. Trăng sáng vằng vặc, mồ hôi trên trán cô long lanh, vài sợi tóc bết lại, loăn quăn phủ trên gáy. Chú Hiệp ngây ngất. Chú lâng lâng tiến lại, như muốn ôm ngay cô vào lòng. Cô trừng mắt:
- Anh Hiệp, nốt vụ này là tôi có thể trả hết tiền anh.
Chú Hiệp khựng lại, vò vò hai tay, bối rối:
- Cô hiểu lầm tôi rồi, tôi không sang để đòi tiền cô. Số tiền ấy có đáng là bao. Cô cho tôi giúp là tôi mừng rồi. Cô cho tôi đi lại thường xuyên cho... tình cảm.
- Mẹ con bà cháu tôi đội ơn anh - Cô tôi bình thản - Nhưng cái gì phải ra cái nấy. Khi nào có, tôi sẽ mang sang tận nhà anh trả để khỏi phiền anh sang đây, hàng xóm dị nghị.
*
Rơm phơi vàng ươm khắp làng cũng là lúc mùa lũ tràn về. Dòng sông như con ngựa bất kham lồng phăng phăng từ thượng nguồn, bao nhiêu gỗ, thân cây rừng, và cả những xác người trương to như con bò mộng theo dòng lũ ầm ào về xuôi, chỉ còn củi rều dạt lại bến sông cùng bọt trắng xóa. Năm trước bao nhiêu củi vớt được cả làng đều phơi ngay tại chỗ, mối xông lên mất gần hết. Mùa đông cả làng xo xeo. Thỉnh thoảng bà trở dậy, cặm cụi vét đáy bao góc nhà được một nắm vụn bỏ vào cái thau đồng đặt dưới gậm giường. Khói vẩn quanh nhà, ho sặc sụa. Nhưng rồi củi sưởi cũng hết. Chẳng nhà nào còn để vay. Cái rét làm héo mặt cả làng. Năm nay lũ về, nhà tôi đập lúa xong sớm, tranh thủ ào ra vớt trước. Vật lộn cả ngày với sóng nước, bù lại từng súc gỗ rừng to cứ chất lên như núi. Cô hăm hở cướp từ sóng những gốc cây to bằng nửa chiếc chiếu, gò mình quyết liệt như mang sức lực điền. Cô chắc mẩm, cố thêm hai ngày nữa, bán chỗ gỗ đi cầm chắc có món tiền để trả nợ. Nhanh tay vớt trước khi làng ào ra thì cả mùa đông không lo đói lo rét. Nhưng trời chẳng chiều lòng người, được một ngày suôn sẻ, ngày sau bão đã rầm rập kéo về. Tôi đi bế giảng, nhận phần thưởng, dặn đi dặn lại cô và bà đừng cố, chờ bão tan hãy ra vớt tiếp. Cô vừa cười vừa nói tưng bừng:
- Đi đi, đi về cho cô xem cái phần thưởng học sinh tiên tiến trường huyện thế nào.
*
Nếu không vì cô, không vì bà, có lẽ tôi đã bỏ dở chừng quãng đường mười lăm cây số gió táp phần phật. Nhận phần thưởng xong, bọc kỹ càng năm quyển vở và tờ giấy khen vào tấm ny lông, tôi đội mưa đạp như bay. Về làng vẫn muộn. Sông đã cuốn cô đi trong sóng dữ đục ngầu.
Hai ngày sau, người làng dưới vớt được cô nhờ mái tóc dài nổi lập lềnh. Đám ma cô, không ai trong làng thiếu. Đoàn người lặng lẽ bên nhau trong cái nắng hè chói chang sau bão, những vòng hoa trắng rưng rưng trên tay trai làng. Chú Hiệp xin bà vành khăn, bà lưỡng lự mãi rồi khẽ khàng:
- Tôi không muốn anh buồn, nhưng anh không đeo thì hơn. Cho con tôi nó được nhẹ lòng.
Chú Hiệp đấm ngực thùm thụp. Chú bám theo quan tài, vừa khóc vừa kể lể. Chú Hiệp ơi, day dứt mà làm gì. Có nợ thì phải trả, cô tôi mất đi là số không may, chứ đâu phải do chú dồn ép. Chẳng có duyên, lại không có phận, chú tha thiết với cô tôi như thế cũng khiến người chết ngậm cười rồi. Tôi đốt giấy khen, mấy quyển vở phần thưởng để cô được nhìn thấy, được vui nốt niềm vui cuối cùng.
*
Vậy là cũng xong một kiếp người, cô mất mà chưa kịp ăn cơm gạo mới. Bữa cơm gạo mới năm ấy ở làng chẳng còn mấy hào hứng. Mấy năm sau, bà khuất núi. Chú Hiệp tháng đôi lần lê đôi chân gỗ thắp hương mộ bà rồi ngồi bên mộ cô. Còn tôi, từ đó trên bước đường đời lầm lụi của mình, năm nào cũng phải cố mua được một vài bữa cơm gạo đầu mùa, lạ kỳ, năm nào cơm mới cũng rưng rưng nỗi nhớ quê, nhớ tuổi thơ lam lũ, nhớ cả những người đã khuất hay còn đang nghỉ ngơi sau mùa lúa nhọc nhằn.

_________________________________________________________________

Thứ Tư, 8 tháng 6, 2011

“Đi chơi chùa Hương” và cái ngộ của “Em đi chùa Hương”

Thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp nổi danh trong trào lưu Thơ Mới những năm 30 thế kỷ trước với chất giọng tươi trẻ, hài hước, hiền lành mà có duyên như nhận xét của Hoài Thanh: “Đọc thơ Nguyễn Nhược Pháp, lúc nào cũng thoáng thấy bóng một người đang khúc khích cười”.

Nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp là một trí thức con nhà dòng dõi. Cha ông là nhà văn, nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh, từng dịch tập thơ “Ngụ ngôn” của La Fontaine ra tiếng Việt rất đặc sắc. Nguyễn Nhược Pháp sinh năm 1914 tại Hà Nội, đỗ bằng Tú tài Tây, làm thơ từ năm 16 tuổi. Ngoài ra, ông còn sáng tác kịch, truyện ngắn và viết báo. Ông viết báo tiếng Pháp khá nhiều, năm 1935 xuất bản tập thơ “Ngày xưa”, trong đó có bài thơ “Chùa Hương” rất nổi tiếng. Nhưng tiếc thay, thi sĩ tài danh Nguyễn Nhược Pháp mất đột ngột khi mới 24 tuổi, vào năm 1938.

Bạn thân nhất với nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp từ lúc còn trẻ là nhà thơ Nguyễn Bính. Sau khi Nguyễn Nhược Pháp mất, Nguyễn Bính đã viết một bài thơ khóc bạn.

Bài thơ “Chùa Hương”, nguyên bản của bài hát “Hôm qua em đi chùa Hương” có một lai lịch khá kỳ thú. Mùa xuân năm ấy, Nguyễn Nhược Pháp cùng Nguyễn Vỹ và hai cô bạn đi hội Chùa Hương. Trèo lên đến rừng Mơ thì họ gặp một cô bé rất xinh đi cùng mẹ lên chùa. Hai mẹ con đang vừa đi vừa chắp tay niệm Phật, thấy hai chàng bước bên cạnh, cô bé bỗng nhìn họ trân trối rồi bẽn lẽn không niệm Phật nữa.

Nguyễn Nhược Pháp và Nguyễn Vỹ liền hỏi tại sao cô bé không niệm Phật nữa thì cô bé liền đỏ bừng đôi má, tỏ vẻ bối rối muốn khóc. Nguyễn Nhược Pháp thấy vậy thích lắm liền cố bắt chuyện để an ủi cô bé. Và câu chuyện vẩn vơ đã diễn ra cùng họ cho đến chùa Ngoài. Mải chuyện với người đẹp, Nguyễn Nhược Pháp và Nguyễn Vỹ bị hai cô bạn gái đi cùng bỏ rơi lúc nào không hay.

Không tìm được hai cô bạn trong đám đông trẩy hội, đêm ấy hai chàng liền ngủ lại trong chùa Hương cùng hai mẹ con cô bé quê. Sáng hôm sau gặp lại hai cô bạn, Nguyễn Vỹ phải xin lỗi mãi, còn Nguyễn Nhược Pháp chỉ tủm tỉm cười. Về đến Hà Nội được mấy hôm, Nguyễn Nhược Pháp sáng tác nên bài thơ “Chùa Hương” (Theo Nguyễn Vỹ thì trong bản chép tay đầu tiên, bài thơ có tên là “Cô gái Chùa Hương”).

Bài thơ dài 34 khổ 144 dòng, lấy cuộc gặp gỡ lý thú của tác giả với cô gái quê ở Chùa Hương làm đề tài và tưởng tượng thêm. Điều đặc biệt là dưới tên bài thơ, Nguyễn Nhược Pháp mở ngoặc đơn dòng chữ “Thiên ký sự của một cô bé ngày xưa”. Cuối bài thơ còn ghi thêm: “Thiên ký sự đến đây là hết. Tôi tin rồi hai người sẽ lấy nhau, vì không lấy được nhau thì cô gái còn viết nhiều. Lấy nhau rồi là hết chuyện”.

Trước năm 1945, bài thơ đã được nhạc sĩ Trần Văn Khê phổ nhạc thành bài hát “Đi chơi Chùa Hương”, bài hát này khá dài, chỉ có ca sĩ Mộc Lan ở Huế hát thành công nhất, được nhiều người hâm mộ nhất. Giữa những năm 1980, ca sĩ Trung Đức phỏng theo mấy đoạn thơ phổ thành bài hát “Em đi Chùa Hương” và được phổ biến rộng rãi hơn vì nó mộc mạc chân thành, đậm chất dân ca xứ Nghệ, dễ hát và dễ nhớ.

Nhưng nếu Nguyễn Nhược Pháp sống lại để nghe bài hát này, chắc ông sẽ lại tủm tỉm cười khi thấy câu thơ “Chân đi đôi dép cong” của ông đã bị đổi thành “Chân em đi đôi guốc cao cao” bởi vì đi Chùa Hương phải leo dốc, xuống hang rất ghập ghềnh, đi guốc cao thì làm sao mà đi nổi.


Hôm qua em đi chùa Hương

Hoa cỏ còn mờ hơi sương

Cùng thầy mẹ em dậy

Em vấn đầu soi gương.

Nho nhỏ đuôi gà cao;

Em đeo dải yếm đào;

Quần lĩnh, áo the mới;

Tay cầm nón quai thao...

Thuyền đi qua Bến Đục

Mỗi lúc gặp người ra,

Thẹn thùng em không nói

"Nam mô A Di Đà"...

(sưu tầm)
________________________________________________________________

Trò chuyện cùng tác giả bài thơ 'Tổ quốc nhìn từ biển'

"Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển/ Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa/ Ngàn năm trước con theo cha xuống biển/ Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa", những vần thơ được Nguyễn Việt Chiến viết ra từ năm 2009, đang được lan truyền mạnh mẽ trong cộng đồng.

Dưới đây là cuộc trò chuyện giữa nhà thơ Nguyễn Việt Chiến với VnExpress.

- Sau khi được đăng tải trên báo Thanh Niên, bài thơ “Tổ quốc nhìn từ biển” của ông được lan truyền mạnh mẽ trên mạng. Ông có thể chia sẻ về sự ra đời của bài thơ?

- Sau khi bài thơ “Tổ quốc nhìn từ biển” đăng trên báo Thanh Niên ngày 29/5, tôi cũng không ngờ nó lại có sức lan tỏa nhanh đến thế. Bài thơ đã được rất nhiều trang mạng điện tử trong và ngoài nước cùng hàng nghìn blog đưa lại.
Người ta vẫn nói, nhà thơ thường có những câu thơ tiên tri. Tôi nghĩ giản đơn hơn, nhà thơ phải nói lên tiếng nói của nỗi đau và khát vọng dân tộc mình. “Tổ quốc nhìn từ biển” là bài thơ đầu tiên tôi viết sau chuỗi ngày hoạn nạn. Ba tháng sau khi trở về tiếp tục nghề báo tại Báo Thanh Niên, tháng 4/2009, tôi được mời đi dự trại sáng tác văn học của Quân đội Nhân dân Việt Nam tại Hạ Long. Trại sáng tác do Tạp chí Văn nghệ Quân đội phối hợp với Cục chính trị quân chủng Hải quân tổ chức với đề tài sáng tác "Biển, đảo và người chiến sĩ hải quân” với sự tham gia của đông đảo các cây bút sung sức trong và ngoài quân đội. Hôm khai mạc trại sáng tác, một sĩ quan cao cấp của quân chủng hải quân đã nói chuyện cả một buổi sáng với các nhà văn về tình hình biển - đảo của chúng ta hiện nay. Có lẽ đã rất lâu, tôi và một số nhà văn mới tiếp cận được những thông tin có thể gọi là khá nhạy cảm và nóng bỏng từ nhiều phía về đề tài này.
Tôi nghĩ, đối với những người cầm bút hôm nay, vượt lên trên tất cả vấn đề thời sự nhạy cảm ấy là tình yêu Tổ quốc. Tình yêu đó được nuôi dưỡng trong tâm hồn mỗi con người Việt Nam qua nhiều thăng trầm, và hình như lại đang được khơi dậy trong những tháng năm này. Chính tình yêu đó đã thôi thúc tôi viết bài thơ “Tổ quốc nhìn từ biển” ngay trong ngày đầu dự trại sáng tác văn học Hạ Long.

- Ông sáng tác bài thơ trong bao lâu?

- Tôi viết bài thơ khá nhanh. Tôi dự trại viết có một ngày, hôm sau phải về Hà Nội vì có công việc báo chí. Trên đường về, có nhà văn quân đội hỏi tôi: “Ông đi dự trại sáng tác có một ngày thì liệu viết được gì?”. Tôi tự tin nói: “Tôi sẽ có một bài thơ để đời về đề tài biển - đảo vì tôi đã nghĩ ra một tứ thơ khá hay và độc đáo. Điều quan trọng là vốn sống văn học đã được tích lũy nhiều năm và trên hết là tài năng, sự hứng khởi và tấm lòng của người cầm bút đối với đất nước”. Chỉ cần một buổi sáng nghe lãnh đạo hải quân thuyết trình về những hiểm họa đang rình rập đất nước, tôi đã thấy mình như lên cơn sốt, muốn viết ngay một khúc tráng ca về những người con của Tổ quốc đã hy sinh ở Hoàng Sa và Trường Sa. Bài thơ tôi hoàn thành trong có một ngày.

- Tâm trạng của ông khi viết ra những câu thơ trong "Tổ quốc nhìn từ biển"?

- Đó là sự thao thức, bồn chồn trước những hiểm họa đang đến gần trên các vùng biển đảo của Tổ quốc thân yêu. Đất nước của chúng ta liên miên trận mạc suốt bao đời, những nỗi đau thương chiến tranh còn ghi dấu nơi rừng sâu, biển thẳm. Và qua nhiều thế kỷ, hàng triệu người con ưu tú của dân tộc chúng ta đã dâng hiến tuổi thanh xuân của mình, đã vĩnh viễn nằm dưới cỏ để gìn giữ non sông này, để mang lại tự do và hạnh phúc cho thế hệ mai sau... Những cảm xúc trên đã thao thức trong tôi suốt một ngày dài ở trại sáng tác văn học Hạ Long.

- Những câu thơ nào khiến ông phải day dứt nhất khi viết ra?

- Ngay câu thơ đầu tiên mở đầu bài thơ “Tổ quốc nhìn từ biển” tôi đã phải cân nhắc rất kỹ, nâng bút lên, đặt bút xuống nhiều lần. Câu thơ nguyên bản ban đầu là: “Nếu Tổ quốc bị xâm lăng từ biển / Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa” - ba chữ “bị xâm lăng” ở đây nghe có vẻ rất phù hợp vì Hoàng Sa của ta bị chiếm cứ rồi. Nhưng sau khi xem xét lại, tôi cho rằng, nếu để ba chữ “bị xâm lăng” ở đây thì câu thơ nghe có vẻ hơi nặng nề, nên tôi quyết định thay ba chữ ấy bằng “đang bão giông”. Do vậy khi in ra, câu thơ chính thức trên mặt báo là: “Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển / Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa”. Tương tự như vậy, có nhiều câu thơ khác tôi cũng phải suy ngẫm và xem xét khá kỹ trước khi cho công bố.

- Bài thơ đã được nhạc sĩ Phạm Minh Thuận phổ nhạc. Ông nhận xét thế nào về bản nhạc này?

- Thật ra, tôi không biết ký xướng âm và cũng chỉ nghe nhạc sĩ Phạm Minh Thuận hát cho nghe đôi câu qua máy điện thoại nên cũng chưa dám có nhận xét gì về bản nhạc phổ bài thơ của tôi. Điều quý giá là tấm lòng của người nhạc sĩ phổ thơ tôi. Nhạc sĩ Phạm Minh Thuận cho rằng “Bài thơ này đã quá nổi tiếng rồi nên khi phổ nhạc cũng phải cân nhắc lắm”. Tuy nhạc sĩ đã cắt bỏ một số đoạn trong bài thơ và có sửa một số chữ, nhưng nhìn chung vẫn giữ được cái tinh thần cốt lõi của bài thơ.

- Tổ quốc và đất nước là nguồn cảm hứng lớn trong thơ ông. Sau “Thời đất nước gian lao”, ông lại tiếp tục gây xúc động với “Tổ quốc nhìn từ biển”. Theo ông, điều quan trọng nhất để những bài thơ Tổ quốc trở nên gần gũi, đi vào lòng người là gì?

- Có người cho rằng, có thể tình yêu Tổ quốc đồng nghĩa với trách nhiệm công dân của mỗi một con người trước số phận của dân tộc, của đất nước mình. Thôi, xin hãy bớt nói những điều lớn lao, những lời vĩ đại như vậy. Chúng ta là con dân của đất Việt, ông cha ta từ ngàn năm trước đã lên rừng, đã xuống biển để khai phá, dựng xây non nước này. Và, biển đảo ấy là một phần gia tài nghèo khó mà ông cha ta tự ngàn xưa đã không tiếc máu xương, công sức để giữ gìn, để truyền đời lại cho cháu con hôm nay.
Có thể nói, khi viết bài thơ này, tôi đã vượt được qua nỗi đau đời thường của riêng mình để nghĩ về Tổ quốc, để xúc động theo cách một nhà thơ khi cảm nhận tự do trong mỗi ngày đang sống. Không hiểu đấy có phải là điều đáng mừng hay đáng lo, bởi bài thơ đầu tiên khi tôi trở lại cầm bút lại là bài thơ viết về Tổ quốc - một đề tài lớn lao. Tôi nghĩ rằng hình tượng Tổ quốc trong thơ tôi (và trong thơ của nhiều nhà thơ Việt Nam yêu nước) là một chủ đề bất tận, có tính sử thi xuyên suốt qua nhiều năm tháng. Điều quan trọng là nhà thơ phải thở hơi thở đời sống của dân tộc mình và trái tim nhà thơ phải đập cùng nhịp với những khổ đau, mơ ước của nhân dân mình.

Tổ quốc nhìn từ biển

Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển
Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa
Ngàn năm trước con theo cha xuống biển
Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa
Đất Tổ quốc khi chập chờn bóng giặc
Các con nằm thao thức phía Trường Sơn
Biển Tổ quốc chưa một ngày yên ả
Biển cần lao như áo mẹ bạc sờn
Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển
Mẹ Âu Cơ hẳn không thể yên lòng
Sóng lớp lớp đè lên thềm lục địa
Trong hồn người có ngọn sóng nào không
Nếu Tổ quốc nhìn từ bao quần đảo
Lạc Long cha nay chưa thấy trở về
Lời cha dặn phải giữ từng thước đất
Máu xương này con cháu vẫn nhớ ghi
Đêm trằn trọc nỗi mưa nguồn chớp bể
Thương Lý Sơn đảo khuất giữa mây mù
Thương Cồn Cỏ gối đầu lên sóng dữ
Thương Hòn Mê bão tố phía âm u
Nếu Tổ quốc nhìn từ bao thương tích
Những đau thương trận mạc đã qua rồi
Bao dáng núi còn mang hình goá phụ
Vọng phu buồn vẫn dỗ trẻ, ru nôi
Nếu Tổ quốc nhìn từ bao hiểm họa
Đã mười lần giặc đến tự biển Đông
Những ngọn sóng hoá Bạch Đằng cảm tử
Lũ Thoát Hoan bạc tóc khiếp trống đồng
Thương đất nước trên ba ngàn hòn đảo
Suốt ngàn năm bóng giặc vẫn chập chờn
Máu đã đổ ở Trường Sa ngày ấy
Bạn tôi nằm dưới sóng mặn vùi thân
Nếu Tổ quốc neo mình đầu sóng cả
Những chàng trai ra đảo đã quên mình
Một sắc chỉ về Hoàng Sa thuở trước *
Còn truyền đời con cháu mãi đinh ninh
Nếu Tổ quốc nhìn từ bao mất mát
Máu xương kia dằng dặc suốt ngàn đời
Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất
Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi

(Trại viết Văn nghệ Quân đội Hạ Long 4/2009)

Nguyễn Việt Chiến
----------
* Mới đây người dân huyện đảo Lý Sơn đã tìm thấy một sắc chỉ của vua triều Nguyễn năm 1835 cử dân binh ra canh giữ đảo Hoàng Sa.

Theo Lưu Hà
__________________________________________________________

Khi nhà thơ mê thiết bị IT

Trần Đăng Khoa, một tên tuổi đã quá quen thuộc với nhiều "vai" trên văn đàn Việt Nam: thần đồng thơ, cây bút phê bình hóm hỉnh, nhà báo sắc sảo và nhà văn hài hước...

Nói điều gì về cây bút này để độc giả thấy mới mẻ? Hànộimới đã có cuộc trao đổi với anh quanh chuyện nhà văn mê IT (công nghệ thông tin) và mối bận tâm ngày càng nhiều hơn của Trần Đăng Khoa cho văn xuôi…

- Thưa anh, giới văn sĩ nói rằng Trần Đăng Khoa sở hữu khá nhiều thiết bị IT để phục vụ công việc và nghề viết. Ngay cả câu chuyện sách điện tử còn xa lạ với nhiều người thì anh cũng đã sử dụng từ khá lâu?

- Đúng là tôi có nhiều thiết bị IT, từ thứ phổ thông như điện thoại, máy quay phim, máy ghi âm chuyên dụng đến thiết bị đa ứng dụng như Galaxy, Ipad, Ipod… Đi đâu, chỉ mang chiếc Galaxy hoặc Ipad theo là tôi có thể duyệt chương trình VOV, đọc sách điện tử và viết lách. Hiện trong chiếc Ipad 2 của tôi đã có trên 500 đầu sách, bằng một thư viện di động rồi. Đây không phải a dua, hay chạy theo mốt. Đơn giản, tôi chỉ là gã thực dụng. Công nghệ thông tin giúp tôi rất nhiều trong công việc và cuộc sống. Tôi nghĩ đời sống ngày một văn minh, mình phải tận dụng thiết bị hiện đại để làm việc tốt hơn.

Trước đây, khi nhiều nhà văn còn bỡ ngỡ, tôi đã sử dụng vi tính để đi, viết, nuôi chuyên mục trên một số tờ báo như “Nhịp cầu” (Báo Nông nghiệp), “Dạ đàm” (Báo Sức khỏe đời sống), “Trò chuyện văn chương” (Tuổi trẻ cười), “Đốp chát với Trần Đăng Khoa” (Toán tuổi thơ), “Hầu chuyện Thượng đế” (Văn học và tuổi trẻ)… Tôi có một thói quen chẳng biết tốt hay xấu, là cứ phải thúc mới ra được tác phẩm. Với “Góc sân và khoảng trời”, có đến 80% số bài là tôi viết theo “đặt hàng” của khách vãng lai. Ấy là bởi người ta không tin Trần Đăng Khoa từng ấy tuổi mà viết được thơ, nên thường đến thăm, họ hay ra đề cho tôi viết trực tiếp. Thoạt đầu rất khó chịu. Nhưng rồi quen dần.

- Những tiện ích mà máy tính và internet mang lại cho nhà văn chỉ là một câu chuyện nhỏ. Việc số hóa tác phẩm văn học, bản quyền sách điện tử và rất nhiều vấn đề mới nảy sinh giữa IT và văn chương khiến nhà văn bỡ ngỡ. Theo anh, nhà văn phải ứng xử thế nào?

- Theo tôi, chúng ta nên làm quen dần với các phương thức văn minh. Không phải ngẫu nhiên mà người ta chọn phương thức đọc sách điện tử, nó phải có điểm tối ưu chứ?! Tôi cho rằng, sách và cả báo điện tử nữa sẽ phát triển rất mạnh. Vừa qua, tôi đã ký tham gia nhà sách điện tử đầu tiên của Việt Nam. Hiện nay, có nhiều nhà văn ứng dụng công nghệ thông tin vào nghề viết, các blog của văn nghệ sĩ là một ví dụ. Có thể kể đến Xuân Đức, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Quang Lập, Trần Nhương, Phong Điệp, Lê Thiếu Nhơn… Tôi nghĩ đây là một kênh thông tin có tính cập nhật rất cao. Ở đó cũng có nhiều cuộc trao đổi sinh động, đa chiều, có cái rất sâu sắc và cũng có cái rất chủ quan.

- Anh có tác phẩm mới nào sắp ra mắt bạn đọc không?

- Tôi có mấy cuốn sách, nhưng vẫn ngổn ngang lắm. Cuốn “Hầu chuyện Thượng đế”, gồm những bài trả lời phỏng vấn, những bài tiểu luận mini viết theo yêu cầu độc giả của tôi được chọn lọc từ các chuyên mục trên tờ “Toán tuổi thơ”, “Văn tuổi thơ” - NXB Giáo dục và “Nhịp cầu” trên báo Nông nghiệp. Xuất phát từ các bài báo, nên khi vào sách thì phải viết lại cho đầy đủ, gọn nghĩa. Hiện bản thảo đã lên đến hơn nghìn trang. Tôi không chối từ bất cứ câu hỏi nào, cả những câu hỏi hóc và sốc. Bên cạnh đó, tôi cũng đang hoàn thiện tiểu thuyết “Lão đấu” khởi thảo từ hồi còn học lớp 5, đã in đôi chương trên báo Người Hà Nội và Tạp chí Nhà văn.

- Thưa anh, chắc không phải ngẫu nhiên mà gần đây anh tập trung nhiều cho văn xuôi như vậy?

- Quả là gần đây tôi dồn nhiều tâm sức cho văn xuôi. Bởi đời sống không ngừng mở ra những vấn đề mới mà chỉ văn xuôi mới tải hết được. Hơn thế, gần đây bạn đọc cũng xa lánh với thơ, ngay cả thơ hay cũng khó gây được tiếng vang. Ấy là chưa kể thơ hay còn bị vùi lấp bởi hàng loạt thơ dở, nhưng lại được một vài nhà phê bình quảng cáo, nên rất nhiễu. Ngay đến các nhà thơ cũng không chịu đọc của nhau một cách nghiêm túc.

- Anh có đọc các cây bút trẻ không?

- Có chứ. Bản thân tôi đã viết tựa sách cho nhiều cây bút trẻ.

- Anh đặc biệt chú ý đến ai?

- Nhiều đấy. Tôi thích văn xuôi của họ hơn thơ, một số bạn khá như Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Ngọc Thuần, Đỗ Bích Thúy, Phạm Duy Nghĩa, Đỗ Doãn Hoàng....

- Ngoài những” vai” đã tham gia, thời gian tới anh có mong muốn thử nghiệm vai trò gì mới không?

- Khát vọng thì lớn, nhưng sức lực lại có hạn. Tôi cũng không còn trẻ nữa. Thêm nữa, công việc hiện tại lại rất nặng. Không ngoại trừ tôi sẽ xin nghỉ sớm để dồn mọi tâm lực cho các trang viết...

- Xin chân thành cảm ơn anh!

theo Hải Giang (thực hiện)
______________________________________

Thứ Bảy, 4 tháng 6, 2011

“Mùi” của văn chương

PHAN TÙNG SƠN

QĐND - Người ta thưởng thức văn chương bằng gì? Bất cứ ai cũng có thể trả lời được câu hỏi này. Ấy là người ta sử dụng các giác quan: mắt (để nhìn), tai (để nghe), tay (để sờ - đối với người khiếm thị, để ra dấu hiệu - đối với người khiếm thính) và con tim, khối óc. Lẽ thông thường, không ai công nhận văn chương có thể cảm nhận bằng... mũi.

Và vì thế, nói văn chương có “mùi” xem ra khó chấp nhận.
Nhưng quả thực là văn chương có... mùi!
Dân gian Việt Nam có câu chuyện “Ngửi văn” rất hay. Chuyện kể rằng ở làng nọ có một ông thầy bói mù. Ông bị một ông tú ở làng bên khinh ra mặt vì cái nghề mạt hạng “Bói ra ma, quét nhà ra rác” kia. Thầy bói ức lắm, bèn tuyên bố rằng, mình tuy mù nhưng lại rất sành thưởng thức văn chương, chỉ ngửi hơi văn cũng biết văn hay dở thế nào. Ông tú nghe vậy liền đến thử. Ông chìa ra trước mặt thầy bói bộ sách “Hồng Lâu Mộng”. Thầy bói lật qua lật lại rồi bảo: “Sách Hồng Lâu Mộng đây mà”! Ông tú hỏi: - “Sao biết”? Thầy bói đáp: “Tôi ngửi thấy mùi phấn sáp”! Ông tú lại đưa bộ Tam Quốc ra. Thầy bói hít hít rồi bảo: “Tam Quốc Chí đây mà. Tôi ngửi thấy mùi binh đao”. Ông tú phục thầy bói sát đất bèn đem tập sách của mình ra. “Thế còn sách này, ông có biết là văn của ai không”? Thầy bói ngửi rồi phán: “Đích thị là văn của ông đây rồi”. Ông tú trố mắt: “Giỏi! Quá giỏi. Vì sao ông biết tài thế”? Thầy bói bịt mũi, quay mặt đi chỗ khác cười đắc ý: “Vì tôi ngửi thấy mùi... thum thủm”!
Ấy là chuyện của dân gian. Chẳng ai biết lão thầy bói và ông tú kia mồm ngang mũi dọc thế nào? Nhưng đến giai thoại về các bậc văn tài tiền bối thì đích thực, đã có bằng chứng xác đáng cho việc văn chương quả có... “mùi”. Chẳng hạn chuyện của Cao Bá Quát. Ông vốn là người nổi tiếng viết chữ đẹp. Chữ của ông được ví như rồng bay phượng múa. Lần ấy vua Tự Đức cho triệu Cao Bá Quát vào viết một câu đối do một viên quan cận thần trong triều đặt. Cao Bá Quát một tay cầm bút viết, một tay bịt mũi. Các quan thấy lạ, hỏi lý do thì được người họ Cao trả lời: "Tại thứ văn này... khó ngửi quá".
Văn chương có “mùi” thì thời kỳ nào cũng có những hiện tượng... “bốc mùi” trong các sáng tác.
Thế thì văn học hiện nay có “mùi” gì?
Đem câu hỏi ấy đến tâm sự với một nhà văn tên tuổi, được nhiều anh chị em viết văn trẻ tôn là “sư phụ”, “tiền bối” trong làng văn. Ông nói: “Môi trường văn chương của ta bây giờ nó giống như một nồi “lẩu thập cẩm”. Bên cạnh những loại “thực phẩm” tươi ngon, đắt tiền, được chế biến cẩn thận, dậy “mùi” hấp dẫn, kích thích trí tò mò của độc giả... thì vẫn có quá nhiều những loại “thực phẩm” ôi, thiu, thậm chí là “thực phẩm” giả, được bôi, nhuộm hóa chất để đánh lừa người tiêu dùng. Loại này nó “bốc mùi”...
Văn chương được ví như một “thánh đường” hoặc như một “ngôi đền” thiêng. Trước khi có ý định đặt chân vào đó, tự bản thân mỗi tác giả phải xem mình có cái gì, cái tâm của mình đã thực sự trong sáng hay chưa? Bởi không gian ấy không thể dung nạp thói giả dối, vụ lợi, hợm hĩnh. Nó sẽ làm hoen ố sự linh thiêng.
Thế nhưng dường như môi trường văn học của chúng ta đang bị xâm hại, lạm dụng bởi những thứ đi ngược lại với sự linh thiêng kia. Một người mẫu chỉ cần “chuông reo là... cởi”, khả năng sáng tác ở mức chưa viết nổi một câu văn cho sạch nước cản, cũng nhảy vào ngồi chễm chệ trên cái ghế tiểu thuyết, được một nhà xuất bản tiếng tăm cấp phép cho xuất bản sách. Cô tổ chức họp báo, tiếp thị sách rình rang. Sách in đẹp, sang trọng, trình bày rất bắt mắt... nhưng hóa ra tất cả chỉ là những thứ phẩm màu hóa chất để nhuộm thức ăn. Khi cho vào “nồi lẩu”, văn chương của cô “bốc mùi” xú uế. Nó không thể “ăn” được bởi đó là thứ “thực phẩm” rất mất vệ sinh.
Có một thứ “mùi” khác trong văn học trẻ hiện nay mà theo nhà văn tên tuổi nọ nhận định, đó là “mùi”... ám chỉ. Thứ văn này rất nguy hiểm bởi nó được ngụy trang dưới lớp vỏ cách tân, tiếp biến, giao thoa văn hóa. Họ lấy lý do giải phóng tình dục theo một số học thuyết phương Tây để đưa vào văn chương những thứ bầy hầy, nhơ nhớp, từ đó ám chỉ xổ toẹt văn hóa truyền thống, cốt cách gia phong... Những thứ “thực phẩm” bầy nhầy ấy “bốc mùi” tanh hôi, thum thủm.
Trong xu thế tự do sáng tác, sự trộn lẫn những thứ “mùi” ấy trong môi trường văn học rất khó để ngăn chặn một cách triệt để. Thiết nghĩ chúng ta nên học cách của tiên sinh họ Cao, hãy bịt mũi lại khi bắt gặp những thứ văn “bốc mùi” ấy. Và quan trọng hơn hết là hãy giúp công chúng biết cách “ngửi văn” để tẩy chay những sản phẩm có “mùi” thum thủm, xú uế.

_____________________________________________________________

Tiếng kêu vẳng từ gốc si

Truyện ngắn của Hoàng Công Danh

Sân chùa không phải là nơi có tất cả mọi thứ trên đời, nhưng với điệu Sanh, chỉ khoảnh nhỏ ấy thôi cũng đủ để vui chơi một mình. Chẳng hiểu cơn cớ nào run rủi để rồi một cậu bé ở làng trở thành chú tiểu điệu Sanh như hôm nay. Có thể đấy là duyên, là nghiệp. Sanh không để ý lắm đến điều ấy. Một khi đã vào đây buộc phải chấp nhận cảnh sống khác, lối sống khác. Sanh hầu như không có bạn cùng trang lứa, ngoại trừ những dịp sóc vọng lễ vía có vài đoàn sinh Phật tử đến viếng chùa. Thôi thì làm bạn với những gì sẵn trong khuôn viên chùa, chẳng sao, mọi thứ dưới con mắt của nhà Phật đều là loài hữu tình và đáng được trân trọng.
Chớm hạ, nắng vàng dần lên, trời bắt đầu oi nực, từng chiếc lá si khô cong lại. Buổi trưa Sanh hay ra ngồi nơi thềm hiên, gió thoảng qua mát dịu. Lâu lâu có cơn gió bạt mạnh, một đàn lá si cuộn tròn lăn lăn xô nhau dồn về góc sân. Sanh thích ngồi chơi như thế, bỏ quên cả giấc ngủ trưa.
Ngôi chùa này tuy nhỏ nhưng chánh điện niệm Phật luôn trang nghiêm và khuôn viên sẵn có vườn cây hai bên phủ bóng mát. Lũ gà xem ra cũng khôn nên thường lui tới đây kiếm cái ăn và cả kiếm ái tình, thứ mà nhẽ ra ở chùa không nên có. Buổi trưa, một chú gà trống của nhà bên xóm lẻn vào vườn chùa, đứng khệnh khạng dưới gốc si rồi cất tiếng gáy vang như thể không chịu nổi cái nắng sang mùa đột ngột. Sanh nghĩ thế vì có hôm nực quá, điệu đã kéo xệch cổ áo rồi hét toáng lên, sư thầy phải bước ra răn ngay đừng có làm náo lên nữa. Khuôn viên chùa cần phải yên tĩnh và người xuất gia luôn giữ tâm mình an nhiên, khẩu xuất cũng phải thanh tịnh nhã nhặn. Riêng tiếng gà gáy thì thầy không mắng, cũng không xua đuổi chúng đi. Chỉ có tiếng người mới lụy khổ chăng?
Lát sau đã thấy một con gà mái từ phía ngoài nhè nhẹ lần đến gốc si, vừa đi vừa gật gật đầu cúi xuống thẹn thùng. Chú gà trống lượn đi một vòng quanh gà mái, vỗ cánh xoạp xoạp vài cái rồi bất ngờ nhảy lên lưng con khác giới. Gà mái thở rựt rựt mấy tiếng khó nhọc, nhưng rõ ràng nó không hề muốn hất tung con trống đang chễm chệ trên lưng mình. Điệu Sanh vỗ tay khen cú nhảy diệu nghệ của gà trống và cười vui, tỏ ra thích thú với cặp bạn đang cõng nhau.
Thầy lại bước ra định nhủ điệu Sanh vì lần này điệu cười quá to, cứ như hét. Khi thầy ra đến cửa thì con gà trống đang cắm mỏ vào nhúm lông trên đầu gà mái, vỗ cánh đánh ụp một phát. Còn điệu Sanh tay đang cầm hòn sỏi giương lên chuẩn bị ném hai con gà. Trò này hồi còn ở nhà mấy đứa trong xóm hay dùng để phá, thể nào hai con cũng kêu toáng lên như chửi lũ trẻ phá đám. Sư thầy kịp nhủ điệu Sanh bỏ hòn sỏi xuống rồi ngay lập tức quay vào trong, không răn dạy thêm một điều gì. Nhẽ ra thầy nên quát hai con gà mới đúng, hoặc chí ít là xúi huầy cho chúng bỏ đi vì đã quấy quả cửa chùa bằng trò dung tục. Sanh nghĩ thế. Cửa chùa không thể chấp nhận những trò ấy. Vậy mà sư thầy lại nỡ can điệu Sanh, tức là thầy dung túng cho chúng chăng? Sanh vẫn không hiểu nổi. Nhưng Sanh không giận thầy, điệu luôn tin sư thầy xử sự mọi việc đều có cái lý riêng, thế là Sanh đổ tất cả sự tức giận lên hai con gà. “Đợi đấy! Không ném đá thì có cách khác. Ta sẽ cho chúng bay biết tay!”.
Hôm sau thầy bắt Sanh phải vào nằm nghỉ trưa, chú tiểu này hở ra một chút là lại sinh chuyện, mà toàn chuyện khiến thầy khó xử. Nhưng sao thầy thấy mến điệu Sanh quá chừng. Hình như trên con đường đi tìm chân lý của một vị sư luôn có những chướng ngại do chính con người tạo ra. Và Sanh là một nhân sứ làm nhiệm vụ tạo ra trở lực ấy. Sanh ngoan ngoãn lên giường nằm để đánh lừa thầy, rồi nhẹ chân lẻn ra thềm hiên. Con gà trống vẫn đến chỗ gốc si, đưa ánh mắt thách thức điệu Sanh và thản nhiên rướn cổ lên gáy. Gà mái trễ hẹn. Chắc có chuyện gì đó không ổn. Đến khi thoáng thấy đầu gà mái chui ra khỏi lùm cây thì Sanh mừng. Chẳng nhẽ điệu Sanh cũng ủng hộ cái trò chơi của lũ gà, cái trò mà hôm qua Sanh định phá ngang ấy. Hôm nay gà mái đau chân, nó đi cà nhắc. Gà trống không leo lên lưng nữa, nó dẫn gà mái đi quanh vườn cùng kiếm mồi. Khó khăn thông cảm, hoạn nạn đỡ đần. Sanh biết vậy.
Mấy bữa sau gà mái đẻ trứng, không nhớ chính xác là mấy hôm từ cái bữa điệu Sanh thấy chúng chơi trò cõng nhau vì sau bận ấy Sanh không để ý tới cặp gà nữa. Ngay cả chuyện gà mái đẻ trứng Sanh biết được cũng là sự tình cờ. Buổi chiều, điệu chạy ra vườn thì thấy con gà mái chui ra khỏi bụi cây dại, gáy cục ta cục tác một hồi. Sanh tò mò tiến đến gần. Vẫn chưa thấy gì ngoài mấy nhành cây dại phủ kín. Gần thêm chút nữa mới thấy được hai quả trứng nằm lọt giữa bụi rậm. Cái ổ đẻ được xoáy từ mấy cọng lá quanh đó, vo tròn lại như một búi tóc rối. Hồi còn ở nhà, mỗi khi con gà mái cục ta cục tác, mạ nói “gà sắp nhảy ổ”. Rồi mạ lấy cái thúng cạn, lót ổ rơm đặt trên chuồng cho con gà mái nằm đẻ. Còn bây giờ, con gà mái hôm trước mới ngả ngớn chơi trò trong sân chùa lại đẻ khuất trong bụi.
Sanh ngó quanh ngó quất, mắt láo liếc như kẻ trộm, biết không có ai, không con gà nào nhìn thấy mình, điệu nhặt lấy một quả trứng, đem giấu tít sau nương chùa. Đúng chiều hôm đó con gà mái cũng đánh mắt canh dò rồi nhảy vào cái tổ hoang để đẻ tiếp quả thứ ba. Mẹ gà nhận ra mất một quả trứng, liền nhảy phóc ra ngoài bụi cây hét toáng lên. Lạy ông tôi ở bụi này. Đẻ hoang còn la làng thì hỏng rồi. Sư thầy đang ngồi trong thư phòng, nghe tiếng gà mái náo náo ngoài vườn liền chạy ra. Bụng nghĩ chắc điệu Sanh lại gây ra trò gì đây. Lần này trên tay Sanh không cầm hòn sỏi nào cả. Quả trứng thứ hai điệu đã giấu kỹ, chắc là sư thầy cũng không lần ra được đâu.
Thầy ghé tai nói nhỏ một câu gì đó với Sanh. Chỉ một câu thôi, nhưng đủ khiến điệu Sanh chạy lui sau chùa và đem quả trứng đặt vào chỗ cũ. Con gà mái thất thần, như người mẹ mất con, cần mẫn đi tìm suốt buổi chiều vẫn chưa thấy quả trứng mới đẻ hôm qua đâu. Người mẹ nhận ra mất một đứa con thì đau khổ lắm, nhưng còn một đứa con nữa cần bảo vệ, gà mái chạy về tổ. Như một giấc mơ, hai quả trứng nằm sát nhau trong tổ. Chiều hôm đó gà mẹ yên tâm cho ra quả trứng thứ ba.
Không rõ con gà mái này của nhà ai bên xóm vào đây đẻ sòn sòn ra thế. Thầy định nhủ điệu Sanh đi quanh hỏi coi của nhà ai thì đến mà bưng về, chứ để thêm vài bữa nữa là con gà nằm vạ ra đấy mà ấp. Tội nghiệp! Định bụng thế thôi chứ thầy cũng không bảo điệu Sanh nữa. Thà cái của nả rơi rớt, đi kiếm chủ trả lại, chứ đằng này cái tổ gà, đi hỏi khó chịu lắm. Thôi thì cứ để yên đấy. Trước đây đã mấy lần người ta bỏ rơi con trước cổng chùa, thầy đem vào nuôi nấng đến vài tuổi cũng có người đến nhận nuôi.
Sư thầy mong rằng sẽ có người đến bế cái tổ trứng kia về. Qua mỗi ngày, cái tổ thêm một quả tròn, một chủng tử sinh linh xuất hiện trong vườn chùa là thêm một nỗi dây oan. Mười cái trứng giống nhau quây kín một hình tròn giữa ổ lá. Những cọng lá cũng đã khô hết, nâng niu trên đó mười mầm xanh sắp hiện ra. Không có ai đến nhận. Bỏ rơi mẹ gà. Đẻ hoang và bỏ rơi hình như luôn đi cùng nhau. Nhưng con gà mái thì không bỏ con, nó nhẹ nhàng lên nằm ấp trứng.
Hai thầy trò lấy hai miếng tranh cũ làm một cái lều tam giác đơn sơ cho gà mẹ ấp trứng. Mùa này chưa có mưa gió mạnh, nên cái lều chủ yếu che sương đêm thôi. Ngày ngày, Sanh lấy nắm gạo bỏ bên ổ cho gà mẹ, lấy cái gáo dừa múc ít nước đặt đấy. Gà mẹ đưa mắt hàm ơn rồi cúc cúc từng tiếng trong cổ như nghẹn ngào xúc động. Sanh nhận ra những loài hữu tình đúng thật cái nghĩa của nó, luôn có thứ tình cảm chân thực nếu mình xử sự tốt với chúng. Thế mà hồi còn ở làng, nhiều lần Sanh cùng lũ trẻ trong xóm đi rình bắt tổ chim, có khi gặp được một ổ trứng chim đồng xoáy tổ giữa ruộng lúa, đem chia nhau hút sống quả trứng luôn. Nghĩ lại Sanh chợt thấy ơn ớn lờm lợm trong cổ. Vào chùa, Sanh nhận ra dần những việc phải trái, bỏ đi nhiều những thói xấu mà hồi ở làng không ai chỉ dạy cho biết, cứ nghĩ đấy chỉ là trò chơi trẻ con thôi.
Điệu Sanh từng ngày ngóng chờ đàn gà con chui ra khỏi vỏ trứng, khi ấy có cả một đàn gà rộn ràng vườn chùa, càng vui. Còn sư thầy lại nghĩ, không biết rồi chúng sẽ ra sao. Chắc thầy phải nuôi rồi. Mà chủ trương của thầy là không nuôi động vật gia cầm. Hồi trước thầy có nuôi con chim dòng, sau trận bão cái lồng bị gẫy nan, con chim đã bay đi. Từ đó thầy phát nguyện không nuôi thêm con gì nữa, kể cả sinh vật cảnh, bởi đến một ngày tất cả rồi sẽ rời bỏ nơi đây, để lại cho thầy những nỗi day dứt xen lẫn ân hận. Bầy gà cũng thế, thầy sợ cưu mang chúng rồi đến một ngày to lớn, mấy ông nghiện rượu quanh đây thể nào cũng mò đến bắt về thịt. Sư thầy không muốn mình vô tình trở thành người nuôi dưỡng cho lòng tham sân của người khác. Điều này cũng là một giới nghiêm trong luật trì của bậc tu hành.
Đàn gà con từ từ chui ra khỏi vỏ trứng, chiêm chiếp kêu rộn ràng sau gốc cây si. Gà mẹ mừng rỡ nhảy ra khỏi ổ vươn cánh xù lông sau quãng thời gian hun đúc tình thương vào lũ con. Con gà trống mất tăm từ bữa dắt con mái đi kiếm mồi. Đến giờ vẫn chưa về, Sanh thèm nghe một tiếng gà gáy giòn giã quá.
Đêm cuối tháng tối mò. Canh hai đã nghe tiếng gà thét lên. Tiếng kêu làm hai thầy trò thức giấc. Linh cảm thấy điều chẳng lành nhưng thầy không vội vàng, chuyện đâu đã có đó. Hai thầy trò từ từ đi ra sân. Đàn gà con nháo nhác không tìm thấy mẹ ở đâu trong đêm tối. Sắc không thoáng chốc phiêu bồng.
Bên gốc si, bữa nọ tiếng gà trống giục tình đã mở ra một con đường sinh. Rồi tiếng đàn con chiêm chiếp chui khỏi vỏ sừng khóc gào kêu khổ. Cuối cùng, tiếng gà mái rống hết sức lực van lời tạm biệt. Tất cả những tiếng kêu ấy vẳng lên từ dưới gốc si. Biết thế, nhưng khó mà chặt cây đi.

__________________________________________________________________

Thứ Tư, 1 tháng 6, 2011

Một mối tình của nữ sĩ Xuân Hương

Uông Triều


Ngoài những bài thơ chữ Nôm đặc sắc được truyền tụng rộng rãi trong dân gian, Hồ Xuân Hương (1772 - 1822 ) còn sáng tác thơ chữ Hán. Trong tập Lưu Hương ký, chủ yếu là các bài thơ chữ Hán được nhà nghiên cứu văn học Trần Thanh Mại phát hiện năm 1963, có hai bài thơ chữ Nôm nhắc đến vùng đất Yên Quảng (Quảng Ninh ngày nay) và liên quan tới mối tình của bà với Tham hiệp trấn Yên Quảng: Trần Phúc Hiển.

Hai bài thơ đó là Bạch đằng giang tặng biệt (Tặng bạn khi chia tay ở sông Bạch Đằng) và Lưu biệt thời tại An Quảng, An Hưng (Ghi lại lúc chia tay tại An Hưng, An Quảng). Sau này học giả Hoàng Xuân Hãn còn phát hiện ra chùm thơ chữ Hán của Hồ Xuân Hương viết về vịnh Hạ Long - khi đó có tên là vũng Hoa Phong - Chu thứ Hoa Phong tức cảnh (Đậu thuyền ở Hoa Phong) trong tập Đại Nam dư địa chí ước biên, ở cuối mục giới thiệu tỉnh Quảng Yên, càng khẳng định Hồ Xuân Hương đã có thời gian sống ở vùng đất Yên Quảng.

Nữ sĩ họ Hồ là một tài thơ hiếm thấy và có mối kết giao rộng rãi với các bậc văn nhân tài tử đương thời. Xuân Hương đã từng kết bạn với Nguyễn Du, Tốn Phong Thị, Chiêu Hổ, Tham hiệp trấn Sơn Nam Hạ Trần Quang Tỉnh... và đã từng làm lẽ vài lần. Những mối tình của bà luôn gắn với giai thoại lưu truyền trong dân gian và trong thơ ca. Mối tình cuối cùng của Hồ Xuân Hương là với Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiển. Hồ Xuân Hương làm vợ lẽ Trần Phúc Hiển vào khoảng năm 1814 đến 1818, và đây có lẽ là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của bà.

Trần Phúc Hiển là người đàng trong. Ông vốn con nhà thi thư, năm Gia Long thứ 2 (1803), được bổ chức Hàn lâm viện thi thư, sau đó làm Tri phủ Tam Đái thuộc trấn Sơn Tây. Đến năm Gia Long thứ 12 (1813), Trần Phúc Hiển được thăng chức Tham hiệp trấn Yên Quảng, trấn lỵ Yên Quảng bấy giờ đóng tại Quảng Yên. Trần Phúc Hiển khi đó đã có vợ ở quê nhưng người vợ không theo chồng ra Bắc nên đã lấy lẽ Hồ Xuân Hương và đến sống ở Quảng Yên.

Trong thời gian yêu và lấy Trần Phúc Hiển, Xuân Hương đã vài lần phải tạm xa chồng, bằng chứng là có hai bài thơ Nôm trong tập Lưu Hương ký ghi lại việc này. Bài thơ vừa đề tặng và cũng để nhắc nhở đấng phu quân chớ quên tình nghĩa vợ chồng. Đây là bài Bạch Đằng giang tặng biệt (Tặng bạn khi chia tay ở sông Bạch Đằng).

Khấp khểnh đường mây bước lại dừng,
Là duyên là nợ phải hay chăng.
Vín hoa khéo kẻo lay cành gấm,
Vục nước xem mà động bóng giăng.
Lòng nọ chớ rằng mây nhạt nhạt,
Lời kia này đã núi giăng giăng.
Với nhau tình nghĩa sao là trọn,
Chớ thói lưng vơi cỡ nước Đằng.

Khi chồng giữ chức Tham hiệp trấn Yên Quảng, Xuân Hương đã được chồng nhờ giúp các công việc hành chính ở công đường và nổi tiếng là một tài nữ. Thời gian này, Xuân Hương đã đi thăm nhiều nơi. Trấn Yên Quảng có phủ Hải Đông gồm ba huyện (Yên Hưng, Hải Đông, Hoành Bồ) và ba châu (Tiên Yên, Vạn Ninh, Vân Đồn) với 16 tổng, 123 phường, phố, vạn, xóm. Vịnh Hạ Long - vũng Hoa Phong đã gây cho bà những ấn tượng đặc biệt, chùm thơ chữ Hán của Xuân Hương viết về vịnh Hạ Long là cảm nhận riêng về cảnh vật, con người và những hoạt động trên vùng quê sông nước. Năm bài thơ chữ Hán đó là Độ Hoa Phong (Qua vũng Hoa Phong), Trạo ca thanh (Trỗi tiếng ca chèo), Nhãn phóng thanh (Mắt tỏa màu xanh), Thủy vân hương (Về chốn nước mây) và Hải ốc trù (Ngóng đỉnh Toan Ngoan). Cả năm bài thơ về vịnh Hạ Long đều ghi lại những cảnh đẹp khác nhau của vùng biển và con người nơi đây. Dưới đây là bài Độ Hoa Phong (Qua vũng Hoa Phong).

Lá buồm thủng thỉnh vượt Hoa Phong,
Đá dựng bờ son mọc giữa dòng.
Dáng nước lần theo chân núi chuyển,
Mình lên nghiêng lối để duềnh thông.
Cá rồng lẩn nấp hơi thu nhạt,
Âu lộ cùng bay bóng xế hồng.
Băm sáu phòng mây cùng động ngọc,
Đâu nào là cái Thủy tinh cung?
(HOÀNG XUÂN HÃN dịch)

Nhưng ngày vui chẳng được bao lâu, năm Gia Long thứ 17 (1818) Trần Phúc Hiển bị người châu Vạn Ninh (Móng Cái) tố cáo nhận hối lộ, Phúc Hiển bị bắt giam và bị xử tử vào năm sau (1819). Sau năm 1819, câu hỏi về cuộc đời Xuân Hương vẫn còn bỏ ngỏ. Có ý kiến cho rằng sau đó Xuân Hương đã lên núi Yên Tử viết đơn, mong giải cứu cho chồng. Mặc dù mối tình của Xuân Hương với Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiển chưa hoàn toàn như ý nhưng chính mối tình này đã khiến chúng ta thấy được tình yêu của bà với vùng đất Yên Quảng qua hai bài thơ chữ Nôm và năm bài thơ chữ Hán miêu tả cảnh đẹp vịnh Hạ Long, điều hiếm thấy và đáng tự hào cho vịnh Hạ Long.

_________________________________________

Đội ngũ sáng tác văn học trẻ các tỉnh phía Nam 10 năm qua

PHẠM PHÚ PHONG

Đối với sự tồn tại và phát triển của một nền văn học không thể không kể đến đội ngũ những người sáng tác trẻ. Đó là lực lượng sung sức, giàu nhiệt tình và báo hiệu những năng lực mới cần được liên tục bổ sung.

Chăm lo xây dựng một cách toàn diện lực lượng những người viết văn trẻ và giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ và sự phát triển kế tục có tính quy luật giữa các thế hệ nhà văn, từ lâu vẫn là một trong những mối quan tâm hàng đầu trong sự nghiệp xây dựng nền văn học cách mạng của chúng ta. Trong thư gửi đại hội Hội nhà văn lần thứ III, đồng chí Phạm Văn Đồng đã từng căn dặn: “Trong đội ngũ nhà văn cần hết sức chú trọng các nhà văn lớp trước đã bền bỉ phấn đấu trên mặt trận văn học từ trên dưới nửa thế kỷ nay và hiện vẫn hăng hái tiếp tục sáng tác; đồng thời sự quan tâm đặc biệt về mọi mặt, bồi dưỡng, nâng đỡ, khuyến khích, tạo điều kiện vươn lên phải được giành cho lớp nhà văn trẻ đã được thử thách trong kháng chiến chống Mỹ và trong tám năm qua, là bộ phận rất quan trọng và sung sức của đội ngũ hiện nay, và là ngày mai của nền văn học nước ta”. (1)

Nếu lấy năm 1975 làm cái mốc quan trọng để nhìn lại sự xuất hiện các cây bút trẻ trên phạm vi cả nước, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra những thành tựu đáng mừng, nhất là ở các tỉnh phía Nam vừa mới được giải phóng khỏi bàn tay sắt khủng khiếp của chế độ Mỹ - tay sai.

“Thế hệ thứ tư” - thế hệ những người sau thời chống Mỹ - là sản phẩm của mười năm, sản phẩm của chế độ mới, sinh ra và lớn lên gắn bó với mảnh đất quê hương, với truyền thống quá khứ, ít nhiều có chứng kiến hoặc nghe kể lại số phận con người dưới chế độ cũ, có dịp đối chiếu, so sánh; có điều kiện tiếp thu truyền thống văn hoá, văn học lâu đời của cha ông lồng trong âm hưởng, trong hào khí của thời đại cả nước độc lập tự do đi lên chủ nghĩa xã hội.

Miền Nam - nơi kẻ thù chà đi xát lại, nơi trực tiếp diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa thực dân mới và tinh thần yêu nước của nhân dân, nơi kẻ thù tiến hành cuộc xâm lăng văn hoá tư tưởng hòng làm thay đổi diện mạo đời sống tinh thần của dân tộc. Đó cũng là nơi hứng chịu nhiều bom đạn, chất độc, nơi đã từng thắm máu nhiều thế hệ những người cầm bút và cầm súng. Sự hình thành đội ngũ những người cầm bút hôm nay ở các tỉnh phía Nam là sự bước tiếp những gì còn dở dang của các anh chị Dương Tử Giang, Nguyễn Thi, Lê Anh Xuân, Chu Cẩm Phong, Dương Thị Xuân Quý, Nguyễn Mỹ, Nguyễn Trọng Định, Lê Vĩnh Hòa, Trần Quang Long, Ngô Kha, Trần Triệu Luật… Đó là những người đã đem cả tâm huyết, trí tuệ và cả mạng sống đời mình hiến dâng cho sự nghiệp văn học, sự nghiệp cách mạng. Họ đã ngã xuống khi tuổi đời còn rất trẻ, còn đứng bên này dốc cuộc đời, dù những trang viết họ để lại mới chỉ là những bông hoa đầu mùa nhưng tên tuổi vẫn còn sống mãi trong nền văn học cách mạng. Con đường văn học của họ, tất cả dường như đang còn ở phía trước. Những người cầm bút hôm nay, trên vùng đất ấy, phải bước tiếp.

***

Đội ngũ những người sáng tác trẻ ở các tỉnh phía Nam hiện nay khá đa dạng (2). Một bộ phận quan trọng là các anh chị đã xuất hiện vào cuối cuộc kháng chiến, trên chiến hào đánh Mỹ hay trong phong trào đô thị, đứng ở vị trí “giáp ranh” - cái gạch nối giữa thế hệ những người đi trước và những người mới cầm bút trong mười năm qua. Họ đã rèn luyện, thử thách trong cuộc chiến đấu quyết liệt ở cả hai miền Nam Bắc, và chính cuộc chiến đấu đó đào tạo nên. Gọi là trẻ nhưng tuổi đời đã trên 30, đã từng đi qua cuộc chiến tranh vào loại ác liệt nhất và sâu sắc nhất của thế kỷ, không phải chỉ là người chứng kiến mà là người trong cuộc, là người góp xương máu, gắn bó và am hiểu sâu sắc về cuộc chiến đấu đó. Với xuất phát điểm ấy, hôm nay họ tự khẳng định mình một cách nhanh chóng và dần dần trở thành lực lượng chủ yếu trong nền văn học chúng ta. Đó là các anh chị Lâm Thị Mỹ Dạ, Hoàng Vũ Thuật, Lê Thị Mây, Đỗ Hoàng, Ngô Minh, Hải Kỳ, Thái Ngọc San, Võ Quê, Phạm Tấn Hầu, Thái Bá Lợi, Thanh Quế, Hoàng Minh Nhân, Đỗ Văn Thông, Phan Duy Nhân, Đông Trình, Trần Hoàng Phố, Trương Văn Ngọc, Ngô Thế Oanh, Thanh Thảo, Lệ Thu, Lê Văn Ngăn, Đinh Xăng Hiền, Cao Duy Thảo, Thế Vũ, Nguyễn Âu Hoàng, Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Duy, Trần Mạnh Hảo, Thái Thăng Long, Đào Chí Hiếu, Lê Hà, Nguyễn Xuân An, Lê Chí, Nguyễn Thanh, Anh Động, Trung Phương, Lê Tân, Lý Cẩn, Song Hảo, Hồ Thi Ca… hầu hết những cây bút này thật sự được người đọc biết đến từ sau 1975, nhưng đã nhanh chóng trở thành những tên tuổi được cả nước yêu thích, với sự đóng góp về nhiều thể loại, nhiều đề tài khác nhau, nhưng chủ yếu vẫn là những trang hồi ức về chiến tranh, về chân dung đồng đội đã ngã xuống, nỗi trăn trở, nhức nhối về cuộc đời… Lâm Thị Mỹ Dạ có Bài thơ không năm tháng (1982), Hoàng Vũ Thuật có Những bông hoa trên cát (1978), Đinh Duy Tư và Thanh Ba có Dưới chân thành cổ (1978), Thanh Quế có Cát cháy (1982) rồi Trong lòng hồ (1984), Đinh Xăng Hiền có Giản đơn và im lặng (1984), Vĩnh Quyền có Vầng trăng ban ngày (1984), Nguyễn Duy có Phóng sự 30-4-1975 (thơ 1981) rồi Ánh trăng (1984). Cao Duy Thảo có Im lặng của đá (1979) rồi Ngọn đèn (1985), Lê Tân Hoa nắng (1981) rồi Với biển mênh mông (1985), Sông Hảo có Khoảng trời nhiều gió (1983) rồi Dòng sông của em (1985), Nguyễn Thanh có Đêm đồng Phong Thạnh (1976) rồi Xóm lỡ (1981), Anh Động với Đứng thẳng (1975) rồi khẳng định mình với tiểu thuyết Ven rừng tràm (1978)… Người đọc dễ dàng bị thuyết phục bởi những tình cảm êm đềm mà sâu lắng trong những vần thơ lục bát của Nguyễn Duy; những miên man, đằm thắm của sông nước mênh mông vùng châu thổ đồng bằng sông Cửu Long trong thơ Song Hảo, Lý Cận, Lê Tân, những tình cảm nhỏ nhẹ hòa nhập giữa cái chung và cái riêng trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, bên cạnh cái thiết tha khao khát của Lê Thị Mây, hay những tiếng nói mạnh mẽ, gân guốc mà sâu sắc trong thơ và sự điềm tĩnh giàu chất tự sự trong truyện ngắn Thái Ngọc San, hay cái mộc mạc trực tiếp trong văn xuôi Anh Động bên cạnh những suy ngẫm giàu chất triết lý trong văn xuôi Cao Duy Thảo, cái cởi mở, hào hiệp giàu “chất Nam Bộ” của Nguyễn Thanh bên cạnh sự mộc mạc, hóm hĩnh giàu chất thơ của Thanh Quế… Đặc biệt, đóng góp nổi bật của lớp người này vào hai thể loại công nghiệp nặng của văn học là tiểu thuyết của trường ca. Đây cũng là hai thể loại đóng vai trò quan trọng trong thành tựu văn học mười năm qua.

Nhìn lại tiểu thuyết sau năm 1975, không thể không kể đến Thái Bá Lợi với Thung lũng thử thách (1978) và Họ cùng thời với những ai (1979). Đó là những hồi ức về những ngày chiến đấu gian khổ, ác liệt, trong đó hoàn cảnh diễn ra gắn liền với số phận một lớp người, một thế hệ; thông qua những thử thách, người viết làm nổi rõ chủ đề đạo đức trong những tình huống nghiệt ngã nhất của chiến tranh. Nguyễn mạnh Tuấn vào Nam sau 1975, vốn liếng chỉ mới hai tập truyện ngắn, chỉ với một thời gian chưa dài, anh đã nhanh chóng chiếm cảm tình người đọc và trở thành “hiện tượng” của văn học, với sự xông xáo vào những vấn đề thời sự, những mũi nhọn của cuộc sống: về cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh anh có Những khoảng cách còn lại 1978, về cải tạo quản lý trong công nghiệp anh có Đứng trước biển (1980), cải tạo quản lý trong nông nghiệp anh có Cù lao tràm (1985). Hãy khoan nói về giá trị vĩnh cửu của tác phẩm, người ta vẫn nhìn rõ những trang viết giàu chất thời sự này đặt những vấn đề có ích cho cuộc đời. Hơn nữa, thành công của Nguyễn Mạnh Tuấn còn thể hiện ở chỗ anh am hiểu đến tường tận tâm lý, phong thái Nam Bộ, ngay cả trong văn phong, trong cấu trúc câu trong ngôn ngữ đối thoại.

Với những đóng góp nổi bật của Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm (Bài ca chim chơ-rao, Mặt đường khát vọng…) và nhiều người khác nữa, trường ca như một bước chuyển được mùa. Thanh Thảo với hàng loạt trường ca xuất hiện gần như cùng một thời điểm, đã nhanh chóng trở thành một trong những người có đóng góp nhiều nhất về thể loại này: Những người đi tới biển (1978), Những ngọn sóng mặt trời, Trẻ con ở Sơn Mỹ, Những nghĩa sĩ Cần Giuộc (1982), Khối vuông ru-bích (1984). Bên cạnh đó, Trần Mạnh Hảo cũng nhanh chóng được khẳng định với Đất nước hình tia chớp (1979) rồi Mặt trời trong lòng đất (1982). Đến đây, sự trưởng thành của người viết gắn liền với sự vận động của thể loại. Những trường ca này không phải là những tác phẩm loại tự sự như những bài thơ dài truyền thống, mà là những bài ca trữ tình về Tổ quốc - nhân dân - Đất nước, ý thức về thế hệ mình, những người cầm súng ở chiến trường những năm tháng ấy:

Người ta không thể chọn để được sinh ra
Nhưng chúng tôi đã chọn cánh rừng phút giây năm tháng ấy
(Thanh Thảo)

Thế hệ chúng con ồn ào, dày dạn
Sống thì đi mà chết thì nằm
(Trần Mạnh Hảo)

Một thế hệ mới, một lớp người cầm bút tiếp theo các anh chị vừa kể trên, là sản phẩm thực sự của mười năm qua lớp sau thời chống Mỹ - là những anh chị em tuổi đời còn rất trẻ, mới trên dưới hai mươi đến ba mươi, đang hăng hái bước vào văn học. Dù được đào tạo ở các trường ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa hay đã học ở các trường vùng tạm chiếm miền Nam, nhưng so với thế hệ chống Mỹ, họ được học hành tương đối có hệ thống hơn. Phần lớn những anh chị em này hiện đang là cán bộ trẻ trong các ngành kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật hoặc đang học ở các trường đại học. Nghĩa là, họ còn đang gắn bó với cơ sở xã hội, ở các cơ quan, xí nghiệp, trường học, đơn vị bộ đội, các hợp tác xã nông nghiệp. Cuộc sống đặt cây bút vào tay họ và những cái tên đang ngày càng trở nên quen thuộc với người đọc như Nguyễn Quang Lập, Đinh Duy Tư, Đặng Ngọc Khoa, Thuận Hữu, Đào Chí Thanh, Ngô Xuân Hội, Nguyễn Đức Thọ, Nguyễn Nhật Ánh, Phạm Sỹ Sáu, Đỗ Trung Quân, Nguyễn Đông Thức, Trần Hội Nhân, Nguyễn Trọng Nghĩa, Nguyên Tùng… Đặc biệt, như một sự nở rộ, cũng như cây bút nữ xuất hiện ngày càng đông đảo, rộng rãi và nhanh chóng được chú ý: Trần Thùy Mai, Trần Thị Hiền, Trần Huyền Trang, Ngô Thị Kim Cúc, Ái Duy, Tôn Nữ Thu Thủy, Thu Trâm, Lê Thị Kim, Lý Lan, Khánh Chi, Đinh Thị Thu Vân, Nguyễn Thị Trà Giang, Dạ Ngân, Hoàng Thị Diệu, Phạm Thị Mỹ Dung… và nhiều người khác nữa, không thể nào kể hết tên tác giả và tác phẩm. Thử làm một phép tính, sẽ thấy thư mục ngày một dày lên, khó mà tính hết, chỉ trong một thời gian ngắn, đã có đến hàng trăm tên tuổi mới xuất hiện. Chưa bao giờ đội ngũ sáng tác trẻ đông đảo, rộng rãi đến như vậy. Gần như cùng một thời điểm, hàng loạt tập thơ, truyện ngắn, ký, tùy bút, và cả tiểu thuyết được in ra hoặc xuất hiện rải rác trên báo chí. Mỗi người một giọng điệu, một “ngữ pháp” khác nhau, tạo thành sắc thái, chân dung riêng của một thế hệ. Họ viết để khẳng định sự có mặt của thế hệ mình trong cuộc sống hôm nay.

Con đường đi đến với văn học mỗi người mỗi khác, nhưng đặc điểm chung của lớp người này là ở chỗ họ là những người của thời kỳ xây dựng, quá khứ chiến tranh chưa hề khuất bóng, trong họ vẫn còn nỗi nhức nhối, sự ám ảnh về quá khứ đau thương mà anh hùng của dân tộc. Đồng thời, những hiểu biết, sự mẫn cảm và cả tấm lòng của họ đang hướng về hiện tại, về cái đương thời, cái đang thành. Sự xuất hiện những cây bút trẻ này đã thổi một luồng sinh khí mới, phong phú hơn, vào đời sống văn học.

Gắn bó với đời sống, họ kể về những gì xảy ra trong cuộc sống thường ngày. Viết về chiến tranh, về quân đội có Phạm Sỹ Sáu, Nguyễn Quang Lập, Dạ Ngân, Thái Thăng Long… viết về thanh niên xung phong có Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Đông Thức… viết về giáo dục có Lý Lan, Nguyên Tùng… tuy mỗi người đều đi vào những đề tài khác nhau, nhưng tất cả đều có mối quan tâm chung là khẳng định con người trong xã hội mới. Đề tài không phải là điều họ “hướng về” một cách hình thức mà điều họ quan tâm hơn chính là sự suy ngẫm, nỗi trăn trở trong công việc, trong đời sống hàng ngày. Từ đó, những vấn đề về lối sống, về quan hệ giữa con người trong sinh hoạt, trong công việc, về đạo đức, nhân cách xã hội chủ nghĩa… được đề cập đến một cách sinh động, tự nhiên như cuộc sống cần diễn ra như thế. Điều đáng chú ý hơn, trong các cây bút trẻ các tỉnh phía Nam đã bước đầu tạo được những sắc thái riêng, giọng điệu riêng mà nhiều anh chị em đã hình thành được ngay ở những trang viết đầu tiên. Qua các tập thơ Thay cho lời hát ru anh (Đinh Thị Thu Vân), Thành phố tháng tư (Nguyễn Nhật Ánh, Lê Thị Kim), Nha Trang thơ (nhiều tác giả), Thơ trẻ Huế (nhiều tác giả)… các tập văn xuôi: Bài thơ về biển khơi (Trần Thùy Mai), Cỏ hát (Trần Thùy Mai, Lý Lan), Ngôi nhà trong cỏ (Lý Lan), Vị ngọt hòa bình, Tam Giang thứ ba, Vết cháy (Ngô Thị Kim Cúc), Cú phạt đền trước vòng chung kết (Nguyễn Nhật Ánh)… người đọc dễ dàng nhận ra những nét riêng của từng người. Đinh Thị Thu Vân được bạn đọc biết đến với bài Con tem quân đội như những lời tâm tình rất riêng. Nỗi thương người lính trong tem, chính là thương lắm người bên cạnh mình… xin cho em được ân cần, phong thư nhỏ dán tem gần tên anh. Với sở trường về thơ lục bát, thủy chung với đề tài anh bộ đội, chị đã tạo cho thơ mình sự dịu hiền, nôn nao mà sâu lắng. Đinh Thị Thu Vân viết rất chậm (gần như mười năm chỉ được một tập mỏng, 22 bài). Có lẽ vì thế mà thơ chị bài nào cũng nói được những điều cần nói, với một sức liên tưởng thông minh:

Phải không từ lúc yêu người
Là tôi mới biết yêu đời thiết tha
Hay từ lâu lắm, chính là
Tôi yêu đời để thiết tha yêu người.

Là một kỹ sư hóa học, Lê Thị Kim còn là một trong những cây bút tiêu biểu của lớp trẻ các tỉnh phía Nam mười năm qua. Kể từ bài thơ đầu tiên (Khi tình yêu đến, 1978), đến nay chị vẫn “thích làm thơ tình, cho nhẹ bớt những số liệu và công thức hóa học suốt ngày chen chúc trong óc” (Tâm sự với bạn đọc báo "Tuổi trẻ"), nhưng thơ của chị bao giờ cũng đi từ cái riêng đến cái chung, từ chuyện của mình nói ra những tình cảm khái quát. Lê Thị Kim giỏi liên tưởng. Có những điều chị biết được khá rõ mà không hề trải qua, chỉ nghe Lời anh kể dẫn tôi ra, bước lên ghềnh đá chim sa xuống đầu. Chị rất thành thực:

Qua báo chí, qua đài
Em biết rừng như thế
Còn anh thì chỉ kể
Đến hoẵng và sóc thôi.

Những đức tính của một người phụ nữ miền Nam phả vào tâm hồn chị, tạo nên vẻ dịu ngọt mà sâu sắc, nhẹ nhàng mà chân thành, đó là tiếng thơ riêng của chị. Ngược lại thơ Nguyễn Nhật Ánh mang chất “con trai Nam bộ”, hơi thở cởi mở, phóng khoáng, pha chút ngang tàng:

Đầu xuân ra sông giặt áo
Vai sờn, đâu dám mạnh tay
Mùi gió, mùi sương, mùi nắng
Theo nhau xuống bến sông này
Da thịt đứa nào cũng chai
Nắng táp càng thêm gân guốc
Chỉ sợ ba cái áo quần
Mưa nắng làm sao khỏi mục.

Viết về những người thanh niên xung phong, Nguyễn Nhật Ánh có dịp nhìn lại cuộc đời người thanh niên dưới chế độ cũ, có dịp so sánh đối chiếu, nên thơ anh là những lời tâm huyết, lạc quan, tươi tắn và đằm vị đồng dao.

Ngô Thị Kim Cúc đã có vài ba truyện ngắn gọi là “thử bút” trước năm 1975, nhưng chị vẫn là người trưởng thành trong mười năm qua với giọng văn điềm tĩnh, ấm áp pha chút lãng mạn, tự nhiên nhưng không thiếu sự chân thành. Những trang viết làm cho bạn đọc tin ở chị, cảm động theo từng câu từng chữ, ẩn chứa nỗi niềm về số phận con người dưới chế độ cũ, đang đổi đời theo từng đổi thay của đất nước. Nhân vật của chị bao giờ cũng được đẩy ra giữa dòng đời và bước đường trưởng thành của chị gắn liền với sự lớn lên của nhân vật. Đó không phải là con đường êm đềm và dễ dàng mà trải qua sự trăn trở, lo toan, thậm chí đó là “con đường đau khổ”, của những người trẻ tuổi đi đến với cách mạng. Mai (Bên kia tường). Yên (Những ngày sấm dậy). Hà Lam (Vị ngọt hòa bình). Diệu (Dòng sông buổi chiều). Xuân (Trong trung đoàn chặn dòng) và cả Ẩn (Sắc biển) đều là những thanh niên như thế cả. Ngược lại, Lý Lan hướng ngòi bút của mình vào những con người lần đầu tiếp xúc với đời sống xã hội, với cách mạng. Đó là những người như Dung (Người mẹ) lần đầu tiên đến đất Củ Chi, như Hà lần đầu tiên nghe Hạnh kể về tội ác của bọn Pôn Pốt - Iêng Xary (Cỏ hát), như Hồng Giang lần đầu tiên hiểu về những người cách mạng (Chiếc lá me bay)… Kết cấu truyện của Lý Lan được vẽ theo hình câu hỏi và kết thúc là một khám phá, một sự hiểu ra những điều mới mẻ. Sự kết hợp giữa ngôn ngữ tự sự xen cài với độc thoại nội tâm, vừa gẫy gọn vừa đằm vị dân gian. Đọc truyện của chị như được đi vào thế giới của những “vườn cổ tích” thông qua đó làm nổi lên ý nghĩa giáo dục, đào tạo những người kế tục của đất nước. Bên cạnh đó, truyện của Trần Thùy Mai không hề quá chú trọng đến việc xây dựng kịch tính, lối gài thắt nút thường thấy mà chăm chú vào từng câu chữ, lối văn trong sáng, tươi mát nhằm trình bày những sự việc nhẹ nhàng, hướng vào cuộc sống thường ngày với những tình cảm đầm ấm trong gia đình, trong quan hệ vợ chồng, mẹ con, bà cháu… Làm nên cho cái đầm ấm vẫn là tình thương được biểu hiện một cách kín đáo, nhỏ nhẹ như tâm hồn cô gái Huế. Nhân vật của chị thường là nữ, những con người trong sáng giản dị mà sâu sắc (Tiểu Phượng trong Huyền thoại về chim phượng, Kim trong Cuốn sách, Phương Thảo trong Khúc nhạc rừng dương…). Khác với chất liệu cụ thể trong thiên nhiên đi vào tác phẩm của những cây bút ở đồng bằng Nam Bộ (Tôi và cỏ, Viết cho chuồn chuồn kim, Hòa âm chim sẻ của Lê Thị Kim; Cỏ hát, Ngôi nhà trong cỏ, Vườn cổ tích… của Lý Lan); thế giới của Trần Thùy Mai hơi trừu tượng, là âm thanh, màu sắc, là thế giới bên trong của con người (Một chút màu xanh, khúc nhạc rừng dương, Bài thơ về biển khơi…). Do vậy, bút pháp của chị thiên về lãng mạn trữ tình, giàu nhạc điệu, gần gũi với thơ.

…Thật khó mà kể hết, điểm hết giọng điệu của từng người, từng tác phẩm, nhưng âm hưởng chung của họ là ngợi ca, khẳng định bản chất của xã hội mới, mang đầy đủ ý thức trách nhiệm trước đời sống, đồng thời phân tích, lý giải, phê phán đến tận cùng những tồn tại, những hiện tượng tiêu cực còn nặng nề trong đời sống chúng ta. Từ đó, mở ra hướng tiếp cận vấn đề cốt lõi của con người là vấn đề đạo đức, đặt con người trong các mối quan hệ đạo đức, đấu tranh để xây dựng một nhân cách mới - nhân cách xã hội chủ nghĩa - gắn liền với truyền thống đạo đức từ lâu đời cha ông truyền lại.

Với một thái độ thẩm mỹ tích cực, với bầu nhiệt huyết và ý thức trách nhiệm công dân, người cầm bút trẻ có những đòi hỏi mạnh mẽ về sự công bằng, trong sạch trong đời sống xã hội, họ muốn thấy những lý tưởng cách mạng cao cả, đạo đức con người được khẳng định, được thực hiện ngay trong đời sống. Do sự nôn nóng này mà những “khuyết tật” thường dễ lộ ra. Đây là nhược điểm thường thấy ở những người mới bước vào nghề.

***

“Nghệ thuật là chuyện muôn đời”, mười năm chưa phải là một thời gian có thể cho phép tính được những kết quả chuẩn xác.

Nhìn lại chặng đường bốn mươi năm văn học cách mạng, chúng ta nhận ra rằng, con đường đi đến chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa ở mỗi nhà văn đều có những điểm xuất phát và có cách đi khác nhau. Song sự sinh thành nên ngòi bút của mỗi người đều phải đi qua những chặng đường gian khó, vất vả. Nhưng cũng trong thời gian ấy, chúng ta đạt được những thành tựu nổi bật, thể hiện đặc điểm của một phương pháp sáng tác ưu việt, mà một trong những dấu hiệu của sự tiến bộ nghệ thuật là sự lớn mạnh không ngừng của đội ngũ sáng tác, sự mở rộng phạm vi chiếm lĩnh thế giới khách quan của con người về mặt thẩm mỹ - nghệ thuật. Điều đáng chú ý hơn, trong mười năm qua, người viết không chỉ chú ý đến cái thực tế đang vận động - Công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc - mà còn có thời gian suy ngẫm về cái thực tế đã lắng lại - hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Nếu có sự phân chia theo một quy ước thông thường, chúng ta thấy rằng, tuy sau 1975 có một bước chững lại, nhưng chưa có giai đoạn nào có những tác phẩm, tác giả mới xuất hiện nhiều như mười năm qua (chưa tính những tác phẩm dịch của nước ngoài), trong đó không ít những tác phẩm nổi bật thuộc về sáng tác của những cây bút trẻ. Như một dòng sông gặp lũ đang bắt đầu chảy xiết, và những người viết trẻ đang tiến ra giữa dòng chảy đó. Điều này làm cho người đọc tin tưởng vào triển vọng ở thế hệ những người mới đến với văn học.

Cố nhiên, còn nhiều điều để phàn nàn về chất lượng, về chi tiết đời sống đi trực tiếp vào tác phẩm một cách thô thiển, hoặc có trường hợp đi vào sáo mòn, tự lặp lại mình trong những trang viết đầu tiên… Do vậy, các Hội văn nghệ địa phương cần đầu tư công sức, các cơ quan xuất bản cần có ưu tiên để động viên, các nhà văn đàn anh phải hết lòng dìu dắt, tạo điều kiện cho anh chị em rèn luyện tay nghề. Điều quan trọng hơn, những người viết văn trẻ cần bám sát cơ sở, lấy vị trí công tác, ngành nghề của mình làm bệ phóng theo tọa độ của văn học. Bởi vì sự trưởng thành về nghề nghiệp và tác phẩm của mỗi thế hệ cầm bút đều gắn liền với từng chặng đường cách mạng của dân tộc.

-------------------
1. Phạm Văn Đồng - Đối với nhân dân ta - chủ nghĩa xã hội là cuộc gặp gỡ hay và đẹp như cùng hẹn trước (in trong văn học trong giai đoạn cách mạng mới. Nhà xuất bản Tác phẩm Mới, 1984, trang 20).
2. Nhà văn trẻ là khái niệm rất co giãn và nếu coi Văn học là sự kế tục, đan cài các thế hệ với nhau, thì khó mà phân chia một cách rạch ròi, rõ ràng, tính theo độ tuổi hay theo sự xuất hiện, là hội viên hay chưa là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, đều có chính xác.

________________________________________________