Thứ Năm, 27 tháng 1, 2011

Bao giờ đi hết giấc mơ (1)

Truyện ngắn của VĂN THÀNH LÊ

1. Lão ngồi. Cái áo được cởi ra, ném sang bên từ hồi nào. Trần trụi và lừng lững. Lão ngồi mà như không ngồi. Chẳng phải lão đang luyện công hay nhập thiền gì. Lão vót nan rổ. Ánh trăng vàng vọt chiếu chênh chếch vào. Ánh điện bằng cái bóng tròn 25W ở trong nhà vàng vọt không kém phả ra. Người lão không nhúc nhích, tay dao tay nan đều đều giữa hai luồng ánh sáng. Cứ thế. Lão nhòe dần, mờ dần, vàng vàng như thứ ánh sáng èo uột đang bao trùm lão. Chẳng hôm nào khác hôm nào. Có chăng nếu đêm không trăng, lão có thêm cái đèn dầu. Hình như lão chẳng đoái hoài tới điện. Đèn dầu cũng phả ra thứ ánh sáng vàng vàng nhấp nhô bằng hạt đỗ. Vì vậy, nếu nhìn từ sau lưng không biết hôm nào có trăng hay không trăng. Lão ngồi đúng giờ cứ như quỳnh tới khắc ấy mới bung hoa; thủy triều đến giờ nước mới dâng; như chớm xuân cây mới nảy lộc; tiếng chim cuốc kêu là chớm hạ; vào thu cây mới thay lá; sang đông bàng mới trần trụi giữa trời. Lão ngồi. Mặc tất cả chuyển động của thế giới vạn vật xung quanh. Như bỏ ngoài mọi tạp niệm. Như đã ngộ. Đã đắc đạo. Nhưng xem ra lão chẳng giống một vị thiền sư hay một người đang tấp tểnh tu luyện. Trông bóng lão trượt dài lên bậc tam cấp, phả vào góc tường nhà kìa. Lớn vậy mà cứ rúm ró kiểu gì. Giống bức tranh được một tay họa sĩ nhiều tâm trạng vẽ. Những nét gãy, giật liên hồi. Quá nhiều giằng xé và vật vã trong ý tưởng trùm lên nhau. Nét sau đè lên nét trước. Nhưng cái tài chưa tới độ nên không thoát ra được. Cứ thế. Lão ngồi. Đêm này qua đêm khác. Đơn điệu và buồn tẻ. Ngồi như không biết sợ sự lặp lại. Không biết sợ thời gian.
Phải, thời gian, chao ôi thời gian. Thời gian là cái thứ gì mà có thể khiến vạn vật đổi thay, chuyển mình giữa vật vã đớn đau hay hân hoan hạnh phúc. Một con nghé có thể thành con trâu. Một cây rêu có thể thành cả cánh đồng rêu. Một con virus mắt thường nào có nhìn thấy có thể giết cả cộng đồng, sau một trận dịch. Một đứa trẻ mới biết đái dầm, chưa sạch mùi sữa đã thành ông già bà lão. Thời gian là cái thứ gì mà lũ trẻ cứ mong trôi thật nhanh để được làm người lớn, được tự do, được bay nhảy; người già lại mong chậm lại để được kéo dài sự dẻo dai, sự sống còn. Đấy là thời gian. Vô hình mà đáng ngưỡng mộ hay đáng sợ, khiến loài người, kẻ thì chạy trốn kẻ thì vồ vập, từ cái thời cụ tổ biết đi bằng hai chân, biết săn bắn hái lượm, biết che đậy những nơi dùng để duy trì nòi giống. Không biết lão có bao giờ nghĩ về thời gian. Thời gian đã biến lão từ một người giang sơn một cõi thành một kẻ rúm ró thế kia.
***
2. Chắc tới đây bạn đọc đang tò mò muốn biết lão là ai. Vâng, lão tên Hạng, một chân bị teo, đi cà thọt cà nhắc nên vẫn gọi là Hạng cà thọt, gọn hơn là Hạng thọt. Nhưng lão Hạng là con ai, quê ở đâu, tại sao lại tới cái làng này thì chỉ lão biết. Mà chưa hẳn lão Hạng biết. Bởi chưa thấy khi nào lão Hạng nói nửa lời về gốc gác của lão. Lão Hạng như khúc thân sắn, ngọn mía cắm xuống đất làng rồi tự mọc rễ mà sống, mà lớn lên, chứ chẳng phải từ cái hạt mọc có gốc rễ từ trước mới lên. Người ta chỉ biết lão tới làng cùng bao gia đình trong đoàn xe chở dân đi kinh tế mới từ miền biển lên, hồi sau cải cách không lâu.
Nơi lão Hạng đến, tức vùng đất kinh tế mới, là làng bây giờ, hồi ấy bốn bề đồi và núi. Ngẩng mặt lên gặp cây, cúi mặt xuống thấy cỏ. Lác đác vài chục nóc nhà người Thượng. Có dân kinh tế mới lên, người Thượng co cụm về một góc, nhường lại rừng rậm phía trên. Mỗi nhà được chia đất hay tự nhận đất khai hoang, bắt đầu cuộc sống mới. Ban đầu Hạng cũng được dựng cho một cái chòi, chia đất phát rẫy làm ăn. Nhưng chui vào chui ra được vài ngày. Rẫy chưa kịp phát lấy một sợi cỏ. Ít gạo và muối được phân phát ban đầu chưa ăn hết, anh chàng Hạng đã làm chấn động cả làng. Nhất là với người Thượng.
Cái buổi chiều nhá nhem định mệnh ấy, Hạng tính ra suối kiếm mấy con bống về kho đỡ nhạt miệng. Ngồi câu mà cứ nghe nước động, chẳng thấy tăm hơi bóng cá nào. Gã bực, ngó ngược ngó xuôi, thấy phía bụi cây rung rung. Bỏ cần, gã xăng xăng tới tính quát thì… đứng tim. Một sơn nữ đang tắm. Bầu ngực trắng nõn cứ nhấp nhô lên xuống. Sơn nữ hết lặn lại nhún nhảy rắc nước ra khỏi tai. Chao ôi trắng. Người miền biển có ai được làn da trắng vậy đâu. Trông cứ như ngó cần hay bẹ chuối hột mới bóc. Hạng đứng trân trân. Chết giấc. Tiếng con hoẵng lạc mẹ tác lên, gã giật mình co chân, ngã nhào. Thì ra gã giẫm phải váy áo sơn nữ bỏ lại trong gùi, bên tảng đá. Gã ngồi thụp xuống. Hết nhìn người con gái tắm lại rúc mũi vào mớ áo váy hít lấy hít để. Mười sáu tuổi. Lúc ấy, Hạng là một gã trai lún phún vài cọng ria mép và còn lông măng trên mặt, người chỉ có bộ khung, kiểu thiếu ăn, chưa bao giờ được tận mắt thấy cả một tòa thiên nhiên thế này chứ nói gì tới mùi vị con gái. Trong mắt gã mới thấy chó nối đuôi, trâu bò cưỡi nhau hay gà trống đạp gà mái. Mà sao cái thứ ấy nó hút người ghê gớm. Một thằng người, nói như làng là không hoàn hảo, như gã mà không thể cưỡng nổi. Nấp sau tảng đá mà bụng dưới cứ tưng tức, miệng nuốt khan liên tục, liên tục. Cho đến khi sơn nữ lên thì… vỡ chuyện. Việc vỡ ra, lão Hạng bị xạc một trận nên thân và tống đi chăn bò cho hợp tác xã trong núi.
***
3. Trông bò. Hạng chẳng lấy gì làm phân vân lắm. Tuy lúc đầu nghĩ hơi rùng mình khi phải một mình nơi rừng rú, thâm sơn cùng cốc. Nhưng nghĩ lại, người ta không đóng bè cho trôi suối là may. Cái tục người Thượng trên này vậy, trai gái sàm sỡ, chẳng cần biết tự nguyện hay cưỡng ép, cạo trọc đầu, đóng bè làm ma sống, cho trôi cả hai. May thay người Kinh lên, có hợp tác xã, có chính quyền, có chủ trương nên Hạng thoát chết. Thoát chết nhưng bị ném vào chỗ mới khác gì chỗ chết. Nhưng gã tặc lưỡi, có là gì, sống ngày nào hay ngày ấy, dù sao cũng đã biết mùi đời. Hạng quảy gạo, muối và cá khô theo đàn bò hợp tác xã, vào núi.
Đàn bò hợp tác xã cả trăm con, được đánh số thứ tự trên mông. Nhiệm vụ của Hạng là nhìn… mông bò. Bao giờ thấy đủ từ 1 tới 100 là ổn. Núi cách làng vài cây số. Trong núi cỏ nhiều, thả bò trong ấy bò ăn cả đêm, ăn cỏ sương nên béo tốt. Chỉ tội buồn. Nhưng chẳng sao. Hạng cũng béo tốt lên vì ăn toàn thứ, nói như bây giờ là đặc sản rừng. Hết rùa đá đến gà rừng, chuột nứa, chim chóc, cầy hương. Bẫy là gặp. Tháng tháng Hạng dẫn cả đàn bò về cho người ta kiểm tra, lấy thêm gạo muối rồi lại vào núi.
***
4. Theo mông bò được ba năm thì Mỹ leo thang ra Bắc. Làng vẫn bình yên, tuy máy bay có chao qua chao lại nhưng không bao giờ là mục tiêu bắn phá, thi thoảng mới có vài quả bom sót chúng thả bừa cho hết để về. Hạng ở trong rừng, cũng nghe ầm ầm ù ù nhưng rừng giăng bốn phía trên đầu nên nào có biết cái máy bay. Ấy vậy mà chính lão, lần nữa, làm chấn động cả làng. Lần này chấn động ghê gớm hơn. Một chiếc máy bay sau khi trút hết bom, đang bay về thì dính đạn của dân quân dưới xuôi, bay chao đảo ngang núi rồi bốc cháy, phi công bung dù. Ở dưới thông báo lên, dứt khoát máy bay rơi phía rừng của làng, giao nhiệm vụ cho huyện phải bắt bằng được kẻo nó gọi liên lạc tới cứu. Huyện đội lùng sục cả đêm, nhận diện được xác máy bay mà không thấy tên phi công đâu. Rừng núi âm u, bao la với bập bùng là đuốc mà đến dấu giày thằng giặc lái cũng bặt tăm hơi. Cứ như người Mỹ biết tàng hình. Mấy bố huyện đội lo cấp trên xạc thì bỏ bà. Thế mà rạng sáng Hạng dẫn một thằng mũi lõ, cao lêu nghêu đến gần hai mét về làng. Chiếc dù tên phi công mắc ngay trên cái cây làm chòi ngủ đêm của gã. Phải vất vả lắm Hạng mới trói ngang người, chặt phăng cả dù dong thằng Mỹ gần tạ rưỡi xuống. Vừa xuống tới đất, thằng Mỹ dù bị trói ngang người vẫn vái gã như vái ông bà ông vải, vừa lạy vừa nói ồm oàm một thứ tiếng gì đó như gió lùa vào rừng mùa khô mà từ ngày cha sinh mẹ đẻ gã chưa từng nghe. Hạng dong ngay tên phi công về làng. Đi được nửa đường thì gã thở ra khói, vì tên phi công đi nhanh như chạy. Chả là chân nó dài cỡ tới nách gã. Hạng bực quá tháo luôn đôi giày của nó. Thế là nó vừa đi vừa mếu. Hạng ung dung đi mà nó bước cứ dặt dẹo. Có muốn trốn cũng không chạy được. Bọn Mỹ sướng quen, có lẽ không đi chân đất được, vứt chúng ra đất ruộng đang mùa cày ải có mà khóc tiếng mán, thế thì đánh đấm nỗi gì. Hạng có vẻ thích thú về sự phát hiện của mình. Gã hồ hởi kể lại cho những cái đầu tò mò, há hốc miệng nghe.
Là người đầu tiên trong tỉnh bắt được phi công, Hạng được đi báo cáo, nói chuyện bắt phi công ở các cuộc họp hay tổng kết, lấy kinh nghiệm cho cả tỉnh. Nói như bây giờ là lão Hạng hồi ấy đắt “sô” hơn ối ca sĩ ngày nay. Chuyện Gagarin bên Liên Xô bay vào vũ trụ khiến làng xôn xao thế nào thì chuyện lão Hạng bắt phi công cũng máu lửa chẳng kém cạnh gì. Lão Hạng thành anh hùng. Từ một tên nhìn… mông bò, người ta tính đưa lão về làm chủ nhiệm hợp tác xã. Phải tội văn hóa lão yếu quá. Một lớp cấp tốc xóa mù được đặc cách cho riêng lão. Nhưng lão đánh vật hết mồ hồi mẹ mồ hôi con mà không xong. “Chơi cái này khó quá, ông đếch cần vẫn bắt được Mỹ”. Không thành, họ đưa lão Hạng sang làm thủ kho hợp tác xã, khi vừa biết cộng trừ làng nhàng. Nếu để ông đi trông bò nữa thì mất mặt quá. Ai lại để anh hùng đi giữ bò. Có đi báo cáo, bảo giới thiệu làm gì thì làng và hợp tác xã ê mặt à, thế ra cái làng này không biết sử dụng người tài. He he. Từ đây lão được thể lên mặt. Nói cứ gọi là khạc ra lửa. Đời lão Hạng như sang trang.
***
5. Lên thủ kho, lão Hạng trông càng phổng phao ra. Thời giữ bò tiếng là miếng thịt không thiếu nhưng gạo thì chẳng được mấy. Giờ lão trông cả cái kho lương thực của hợp tác xã, coi như no lưng ấm cật. Gì chứ ních căng bụng là đời chẳng gì bằng. Lão ngày béo tốt. Mỗi cái chân lặc vẫn vậy, không lớn được. Lão Hạng vẫn phải loẹt quẹt loẹt quẹt như thế. Nhưng đã khác xưa. Xưa chân lão Hạng loẹt quẹt, miệng lão cũng loẹt quẹt. Giờ chân loẹt quẹt nhưng miệng hét ra lửa. Thủ kho to hơn thủ trưởng. Mà loẹt quẹt cũng có cái hay. Tới lúc ấy lão Hạng mới thấy phát cắn của con chó dại hồi bé quả rất hữu ích. Nó tợp một phát, sốt cả tuần lễ. Không một cắc đi viện, nghe thiên hạ mách nước cứ đắp hết lá này tới lá kia. Rồi teo. Cứ tưởng đời teo theo cái chân. Ai dè lại hay.
Sau mấy lần tổng động viên, làng có vẻ xơ xác, hanh hao như gái tới ngày kiêng cữ. Rặt những người già, đàn bà và trẻ nhỏ. Quay trước quay sau còn mỗi lão Hạng là đàn ông đang tuổi lao động. Làng thiếu hẳn sinh khí. Chưa sớm đã ra đồng. Tối mịt mới về. Cứ cắm đầu xuống đất. Cắm vào với việc. Chẳng buồn về nhà. Tất bật và lếch thếch. Tất bật vì sợ nhàn rỗi mà nhớ giường, nhớ chồng. Lếch thếch vì có gọn, có đẹp cũng để làm gì, khéo đẹp ra nhìn lại thấy tủi. Mà như vậy thì còn gì là cái giống người. Cái chuyện nam nữ, đực cái, nói ra người ta vả vào miệng bảo tục tĩu, vớ vẩn, nhưng đố ai không đấy, có mà chết héo, nhất là đám nào chạm vào rồi, chả không mong mòn mong mỏi thì chớ làm người. Lão Hạng chữ nghĩa ậm ờ thật nhưng cái giống ấy lão hiểu. Trông bò ba năm lão biết tỏng. Cứ mỗi lần hùng hục húc vào xong, nhìn bò đực bò cái mặt phởn lên là lão hiểu.

_________________________________________________

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét