Thứ Năm, 27 tháng 1, 2011

Nỗi niềm hoài cổ

Nhà văn Di Li

- Tôi có cô bạn lấy chồng Mỹ, giờ sống ở San Francisco. Cô ấy bảo rằng cái thời còn du học ở London, năm nào cũng cứ đến giờ khắc giao thừa là cô lại cảm thấy vô cùng cô đơn và nhớ nhà.

Tôi chưa sống lâu nơi xứ người bao giờ, càng chưa bao giờ được hưởng một cái Tết Nguyên đán ở nơi không phải nhà của mình nên ngạc nhiên vì điều này lắm. Tôi cứ cho rằng người Việt sinh sống ở nước ngoài chỉ có thể cô đơn khi nước người vào Giáng sinh, nước người nhộn nhịp náo nức đón dịp nghỉ lễ và quần tụ gia đình, lúc ấy mình thấy mình thừa ra thì mới đâm cảm thấy lạc lõng. Chứ ngày Tết Nguyên đán, người xứ họ vẫn đi làm bình thường, thì đâu có cảm giác ấy. Song sau rất nhiều người Việt ở nước ngoài cũng nói với tôi cảm giác này, cái cảm giác cứ đến ngày Tết Nguyên đán là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương trong lòng họ lại rộn lên, hệt một phản xạ có điều kiện.
Cô bạn tôi kể về cái Tết đầu tiên ở London, cô cũng chuẩn bị cho ngày lễ như ở nhà: dọn dẹp thật sạch nhà cửa; không có hoa đào, hoa mai hay cây quất làm cảnh nhưng cô mua được một bó hoa để trang hoàng cho căn phòng thuê bé tí tẹo của mình. “Sáng mồng Một tôi cũng tìm được đến một ngôi chùa của Việt Nam sau hàng giờ liền ngồi trên xe buýt, để thắp nén hương cầu an” - cô nói.
William C.Westmoreland (1914-2005) từng giữ chức Tư lệnh Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam 1964-1968, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ 1968-1972. Năm 1976 xuất bản hồi ký “A Soldier Reports” (tạm dịch: Tường trình của người lính).
Với người phương Tây, có lẽ Giáng sinh là dịp duy nhất để họ quây quần đủ đầy cùng gia đình sau một năm vô cùng bận rộn. Dù ở bất cứ đâu trên thế giới, thế nào Giáng sinh họ cũng phải bay về nhà tham dự giờ khắc thiêng liêng này. Tết Tây họ dành cho bạn bè là phần nhiều, còn Giáng sinh nhất thiết phải được ở bên những người thân. Tết Nguyên đán đối với dân mình có khi còn quan trọng hơn Giáng sinh đối với người phương Tây. Người ta bận rộn cho Tết từ cả tháng trước đó. Tướng Westmoreland* cũng đã miêu tả trong hồi ký của mình về Tết của Việt Nam: “Người Mỹ không có cái lễ nào giống dù là giống một cách xa xôi với cái Tết Việt Nam bắt đầu từ ngày đầu năm âm lịch. Dù so sánh nó với lễ Giáng sinh, lễ Tạ ơn và ngày 4-7 cũng không đủ để nói lên tầm quan trọng mà người Việt Nam gắn bó với cái Tết của họ. Trước Tết hàng mấy tuần lễ, các bà nội trợ Việt Nam đã gói bánh chưng bằng nếp dẻo bên trong những chiếc lá dong mùi rất thơm. Người ta bày bán chè, bánh kẹo, rượu, nếp, mua sắm quần áo mới, trang hoàng nhà ở bằng các thứ hoa. Người thân chuẩn bị về quê làm lễ cúng ông bà, tổ tiên. Trẻ em mường tượng sẽ được mừng tuổi bằng kẹo bánh và giấy bạc 5 đồng. Không có gì, thậm chí cả một cuộc chiến tranh để sống còn, lại có thể cản được lễ Tết”. Các tài liệu sau này cũng cho thấy rằng trong dịp Tết Mậu Thân, ít ra tới nửa quân số của Quân đội Sài Gòn về quê ăn Tết và chính Tổng thống miền Nam Nguyễn Văn Thiệu cũng về quê vợ ăn Tết ở Mỹ Tho.

Tôi từng chứng kiến nhiều chủ doanh nghiệp nước ngoài nổi khùng lên vì cứ đến Tết là nhân viên nghỉ rất dài ngày. Họ muốn công việc của họ được liên tục. Thậm chí ngay cả khi công việc đang đến hồi nước rút mà đùng cái vào Tết thì dù có trả lương gấp đôi, gấp ba nhân viên cũng không làm. Sống chết gì nhân viên cũng phải nghỉ ăn Tết. Có một số khách nước ngoài đi du lịch bụi Việt Nam vào dịp Tết Nguyên đán chỉ với mục đích khám phá lễ hội thì thực gặp hạn. Họ than phiền rằng quán xá, cửa hàng cửa hiệu đóng cửa im ỉm. Chỗ vui chơi không có, ăn uống thì không, chỉ còn thú vui duy nhất là vãn cảnh chùa và đi xem pháo hoa vào đêm Giao thừa.
Nói vậy là để thấy Tết Nguyên đán của chúng ta quan trọng đến thế nào, nhưng quan trọng đôi khi không đồng nghĩa với việc đón chờ nó. Càng ngày tôi càng thấy nhiều người than phiền về cái nỗi “sợ Tết”, “chán Tết”. Tôi còn nhớ nguyên vẹn cảm xúc của những cái Tết cách đây hai chục năm, khi mà tôi háo hức chờ đợi một bộ quần áo mới, khi mà tôi quẩn quanh cha mẹ trong không khí chộn rộn của cái sự sắm Tết và chuẩn bị cho Tết. Mẹ tôi chất kìn kìn trên xe những lá dong, gạo nếp, gà trống thiến, bưởi bòng và dăm cành lay-ơn, thược dược, violet mỗi lần đi chợ về. Cha tôi chọn mua một bánh pháo dài hai mét mà ông dự đoán năm nay nó sẽ nổ rất đanh. Chúng tôi làm mứt bí, mứt cà chua, cà rốt thơm phức mùi đường sấy. Và tôi góp phần trang trí kim tuyến lên những cành đào. Nhưng càng ngày những cảm giác ấy càng mờ nhạt như một thứ hồi ức đã trải dài từ xa lắc. Ngày nay chúng ta không cần phải chờ đến Tết mới được sắm quần áo mới, không phải chờ đến Tết mới được ăn con gà, miếng bánh chưng và mứt bí. Những thứ ấy có quanh năm. Thậm chí giờ không chỉ lay-ơn, thược dược, violet mà ngày thường chúng ta cũng mua hoa về cắm trong lọ, đủ thứ hoa xa xỉ, từ các loại hồng Đà Lạt cho đến ly trắng, rum, salem và địa lan. Không cần chờ đến Tết mới tích cóp tiền mua chiếc vô tuyến mới mà nhiều nhà giờ phòng nào cũng có vô tuyến. Trước, ngày mùng Năm chợ còn lác đác. Nay mùng Hai người ta đã họp chợ, chỉ có điều là đắt, giá cả tăng và chỉ giảm dần cho đến tận Nguyên tiêu. Hàng quán mùng Ba hầu như đã mở cửa. Thậm chí chuỗi nhà hàng Ý Pepperonis còn quảng cáo từ năm trước rằng sẽ mở hàng ngay từ sáng mùng Một, nhân viên mang đồ phục vụ tận nhà. Vậy là các thực khách cứ thế nhấc điện thoại gọi pizza, spaghetti về ăn thay bánh chưng, canh măng và bóng xào cho đỡ cái sự nấu nướng. Ngày Tết xưa vắng tanh, đường phố trong cái lạnh đang ngấm vào tận da thịt cũng là mang lại cảm xúc. Nhưng Tết giờ phố phường không còn vắng lắm nữa, và khí hậu dường cũng đang nóng dần lên.
Nhiều người sợ Tết. Đàn ông sợ Tết sẽ cản trở công việc đang chạy. Đàn bà sợ Tết Ôsin về quê hết sẽ phải nai lưng ra mà làm Ôsin. Tết là phải thăm viếng, tiếp đón họ hàng, cả những người ưa thích và những người không ưa thích. Tết là phải đôn đáo ngược xuôi lo quà biếu, người biết ơn nhiều và người biết ơn ít, mỗi người quà một kiểu. Phức tạp lắm. Mệt mỏi lắm. Tết cũng là phát khổ cho những người đơn chiếc. Cũng có những người, vì lý do mưu sinh mà Tết không được về thăm quê nhà, đành đoạn ở lại thành phố, mới thấy cái thời khắc Giao thừa ấy như tra tấn, mới chỉ đành mong mong cho qua ba ngày Tết.
Vài năm trở lại đây, Tết người ta bỏ nhà đi du lịch nhiều. Thanh niên trai trẻ trong hội phượt đi du lịch bụi túm năm tụm ba đã đành, giờ đến cả người già cũng thấy chán Tết mà đi du lịch. Chỉ có điều người trẻ trốn đi du lịch từ 25 tháng Chạp cho đến hết mùng Năm mới về, còn người già chỉ dám khởi hành từ mùng Hai, để Giao thừa và mùng Một vẫn làm đầy đủ phận sự cúng gia tiên và vấn an các bậc trưởng lão trong họ. Thành thử các công ty du lịch hốt bạc trong dịp lễ Tết, một dịp tưởng chừng như không ai muốn đi đâu ngoài cửa nhà.
Năm vừa rồi tôi đón Tết ở Sa Pa, Hà Khẩu. Đằng nào thì cũng được hưởng không khí Tết với đào với mận và những dòng người Mông, Dao lũ lượt ngoài cổng chợ phiên. Thị trấn Sa Pa vẫn náo nức như thường vì các cửa hàng cửa hiệu hầu như không đóng cửa để phục vụ khách du lịch. Ngày Tết, người ta vẫn có thể vào quán bar uống một ly cocktail hay ngồi hút shisha bên lò sưởi. Phố đồ nướng vỉa hè vẫn hoạt động rôm rả với đủ món cơm lam, khoai nướng và trứng gà nướng. Nhà hàng kiểu Pháp vẫn phục vụ súp kem nấm bí đỏ và tôm sốt rượu vang. Tịnh chẳng hề thấy vị bánh chưng, canh măng đâu nữa. Thôi thì giờ không khí Tết đã khác xưa nhiều. Cũng may người ta chưa thay đào, quất, mận, mai bằng những giống hoa khác. Nếu không, những gì người Việt ở hải ngoại đang cố gắng sắm sanh, trang hoàng cho ngày Tết rồi ra cũng chỉ còn là một nỗi niềm hoài cổ.

______________________________________________

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét