Thứ Hai, 9 tháng 5, 2011

Cái tôi sử thi trong thơ kháng chiến chống Mỹ: Những “ngập ngừng, xao xuyến”

Lê Thị Bích Hồng


Trước yêu cầu của lịch sử, sử thi vẫn là yếu tố chủ đạo trong nền văn học cách mạng, nhưng những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, trạng thái sử thi của đời sống tinh thần xã hội vốn gắn với tính chất hào hùng của cuộc kháng chiến như “một môi trường dẫn truyền và cộng hưởng cảm xúc” cũng lắng dần. Cái tôi sử thi vốn là âm hưởng chủ đạo của thơ chống Mỹ không còn là loại hình thuần nhất và độc tôn sau khi đã hoàn tất sứ mệnh của nó với tư cách là sự thể hiện đến đỉnh cao của tinh thần công dân và tính chiến đấu.

Sự nhạt dần yếu tố sử thi

Cảm hứng chủ đạo trong nhiều tập thơ ra đời vào nửa cuối những năm 70 vẫn là cảm hứng sử thi về cuộc kháng chiến chống Mỹ và chiến thắng của dân tộc, nhưng đã có nhiều nét mới từ cảm hứng đến chất liệu và giọng điệu. Có “độ chênh” nhất định giữa cảm hứng ngợi ca và sự khắc nghiệt của hiện thực đời sống sau chiến tranh. Dù thơ và cả nền văn học chống Mỹ không hề xa rời vấn đề đất nước, đời sống xã hội, nhưng quan điểm tiếp cận đã có phần chuyển dịch theo cái nhìn cá nhân. Có thể thấy một sự chuyển dịch thầm lặng, bền bỉ và cả sự “ngập ngừng”, phân hoá trong cái tôi sử thi - vốn là âm hưởng chủ đạo của nền thơ chống Mỹ. Sự nở rộ của hàng loạt trường ca do nhu cầu nội tại của thể loại trong những năm 80 của thập kỷ trước, cùng số tác phẩm viết trong chiến tranh được công khai trước bạn đọc với cái nhìn trầm tĩnh có thể thấy yếu tố phi sử thi “đậm dần trong sự vận động của thơ, trở thành tiếng nói đối thoại với sử thi”1. Đó chính là dấu hiệu dự báo về sự đổi mới căn bản về cả tư duy và thi pháp thơ, phần nào làm phong phú diện mạo thơ, cái tôi trữ tình nhìn từ số phận con người cá nhân bấy lâu bị “khuất lấp”. Có sự “giao thoa xao xuyến” giữa cái nhìn sử thi với các yếu tố thế sự, giữa giọng điệu cao vút với giọng điệu trầm lắng, giữa lý tưởng với hiện thực, giữa không gian công cộng với không gian đời tư, giữa khúc anh hùng ca và sắc màu bi tráng…

Bản chất của thơ trữ tình là sự ý thức về cái tôi, về giá trị bản thân, về quyền sống, quyền làm người. Khát vọng bức thiết của con người là tự do cá nhân và dân chủ xã hội. Sự thức tỉnh nhu cầu xã hội, nhu cầu của con người luôn là một đòi hỏi bức thiết và chính đáng. Song khi đất nước có giặc ngoại xâm thì lợi ích của dân tộc và nhân dân hòa làm một, sự nghiệp giải phóng dân tộc đồng thời là sự nghiệp giải phóng con người. Như một lẽ tự nhiên, văn học nói chung và thơ chống Mỹ nói riêng đã ưu tiên đặt vấn đề tự do độc lập lên trên hết, vì lợi ích của Tổ quốc, vì nhiều nhiệm vụ khác lớn hơn, cái tôi cá nhân tạm thời “nén lại”, lặng lẽ lùi lại bình diện sau và vì thế “Cái tinh tế cỏ hoa tạm thời chưa nghĩ đến” (Chế Lan Viên).

Có thể thấy những dấu hiệu đổi mới này thể hiện trước hết ở lớp nhà thơ đứng ở mũi nhọn cuộc chiến đấu, đối mặt với gian lao thử thách, trực tiếp xáp mặt với kẻ thù. Bên cạnh cái cao cả, anh hùng, vĩ đại được phóng chiếu hết chiều kích vốn là thế mạnh của sử thi, cái tôi trữ tình tiềm ẩn nhiều trăn trở, dằn vặt của con người trước sự chọn lựa: Sống - chết, được - mất, chiến thắng - hy sinh… Con người được nhìn nhận từ nhiều bình diện, thơ nói nhiều hơn nỗi đau của con người do chiến tranh, buồn vui một đời người trong cuộc sống, những nỗi niềm ẩn chứa bên trong chưa dễ tỏ bày. Thực tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ tác động mạnh vào cảm xúc nhà thơ. Thơ chống Mỹ có dáng dấp một dàn đồng ca, một dàn hợp xướng lớn bởi nó được sinh thành trong một bối cảnh tinh thần đặc biệt của “Những năm đất nước có chung tâm hồn, có chung khuôn mặt” (Chế Lan Viên), và khi nhà thơ “tự hát” thì cũng ý thức được:

Nhưng giọng anh đơn lẻ
Sánh sao bằng đồng ca
(Nhớ đồng ca, hát đồng ca-Phạm Tiến Duật)

Nhưng ngay trong dàn đồng ca ấy đã bắt đầu hé mở góc nhìn khác khá đa dạng và nhiều chiều về cuộc sống qua các trường ca viết sau chiến tranh. Thu Bồn đóng góp Ba–dan khát (1977), Thanh Thảo cùng Những người đi tới biển (1977), Trần Vũ Mai viết ở làng Phước Hậu (1978), Hữu Thỉnh sáng tác Đường tới thành phố (1979), Nguyễn Đức Mậu chiêm nghiệm về cống hiến, hy sinh của người lính trong Trường ca sư đoàn (1980)...

Thêm vào đó, sự “nhạt dần” cái tôi sử thi còn được thể hiện ở số những tác phẩm viết trong những năm 70, 80 của thế kỷ trước, như tập “Cửa mở” của Việt Phương, bài thơ “Viết về số không” của Phạm Tiến Duật, đặc biệt các tập thơ của Lưu Quang Vũ, như :Mây trắng của đời tôi (1989), Bầy ong trong đêm sâu (1993), Thơ tình Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ (1994 ), Lưu Quang Vũ Thơ và Đời(1997) và gần đây nhất tập thơ Gió tình yêu thổi trên đất nước tôi (2010) được công khai trước bạn đọc khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã lùi xa 36 năm.

Cái tôi cá nhân và những trăn trở về số phận con người

Cái tôi phi sử thi biểu hiện tập trung ở sự trăn trở về số phận con người và nỗi đau trong chiến tranh. Vì thế, chưa chờ cuộc chiến tranh chống Mỹ kết thúc, chưa bước ra khỏi vầng hào quang của cái tôi sử thi, tiếng nói tự ý thức về mình với khát vọng chân thực đã xuất hiện trong thơ, tiềm ẩn như mạch nước ngầm.

Thơ kháng chiến chống Mỹ đã đề cập đến “mặt khuất lấp của con người”. So với thơ, cách thể hiện của văn xuôi có nhiều ưu thế. Ngay từ giữa những năm chiến tranh chống Mỹ, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nghĩ rằng cuộc chiến đấu cho quyền sống của mỗi con người sẽ còn lâu dài và khó khăn hơn cả cuộc chiến đấu cho quyền sống của dân tộc. Sau khi cuộc chiến tranh kết thúc, truyện ngắn Bức tranh của ông ra đời cùng với thông điệp “phê phán và bác bỏ mạnh mẽ những luận điểm nhân danh cái chung, mượn cớ lợi ích cộng đồng mà bỏ qua, thậm chí chà đạp lên nỗi đau khổ và số phận của mỗi cá nhân”. Nói về số phận con người, thơ có cách thể hiện riêng. Nó không trực diện phân tích, mổ xẻ mọi khía cạnh tâm lý con người như văn xuôi. Nhưng thơ có thế mạnh của riêng nó để nói đến tận cùng những “trăn trở”, “dằn vặt”, “xót đau”. Hiện thực chiến tranh với đầy đủ sự khốc liệt thể hiện qua số phận cá nhân và thế giới nội tâm phức tạp. Dấu ấn chiến tranh, ở môi trường tiền tuyến hay hậu phương cũng đều chạm khắc lên số phận con người. Tư duy thơ chống Mỹ vốn quen nói về con người đại diện cho phẩm chất, trí tuệ cộng đồng với lòng dũng cảm, xả thân vì sự nghiệp hơn là những “con người bé bỏng” trong cõi nhân gian; ít nói tới mặt trái, thương đau hơn ngợi ca, cổ vũ. Vượt khỏi khuynh hướng chung của cả nền thơ, một số nhà thơ có cái nhìn khác, chất thơ khác so với các nhà thơ cùng thời trong sự tuyệt đối hoá cái đẹp, cái cao cả thuộc về người anh hùng. Tuy không phải dòng chính, thơ đã tuôn những mạch ngầm từ các phụ lưu, chi lưu.

Sự nhạt dần yếu tố sử thi cũng được tiềm ẩn trong chiều sâu khôn cùng của con người. Bên cạnh con người mang phẩm chất anh hùng, xả thân cho sự nghiệp giải phóng dân tộc - vốn là thế mạnh trong cảm hứng sử thi, thì cũng đã xuất hiện (tuy chưa nhiều) sự đa dạng kiểu người. Phân tách theo kiểu cơ học, con người là sự tổng hợp của hai phần: “con” và “người”, và trong thơ hai chữ con người đã được đẩy tới những đối cực: “thánh thần và ác quỷ”, “cao thượng và thấp hèn”, “thành thật và giả dối”... Tư duy hời chống Mỹ quen xây dựng hình ảnh kỳ vĩ “Hái mặt trời hồng”, say với con người lý tưởng “Như khí phách Trần Lê, Như oai vũ Quang Trung” (Bài ca xuân 68-Tố Hữu). Thơ nhấn mạnh “chất người” ở sự cao cả, phi thường. Nhưng bên cạnh những hào quang chiến thắng, thơ kháng chiến chống Mỹ còn ẩn chứa muôn mặt đời thường (cảnh nghèo nàn, sự thương đau, những thói xấu, các hiện tượng tiêu cực xã hội...).

Trong số những nhà thơ chống Mỹ ấy, Lưu Quang Vũ quá nhạy cảm để cảm nhận, hé mở một cách nhìn khác về chiến tranh từ phía hậu phương. Thơ anh nói nhiều đến sự mất mát, chia lìa - điều không dễ viết trong thời điểm ấy. Đó là bi kịch chiến tranh với “Những đứa bé nằm ngủ trong mồ”, với người mẹ “bới gạch vụn tìm con” (Cầu nguyện) và bao người chết “vùi thân dưới hố bom”, là “Khăn tang trắng xoá” - biểu trưng cho những mất mát khủng khiếp đã được Phạm Tiến Duật thể hiện trong bài thơ Viết về số không (nhiều người vẫn quen gọi là Vòng trắng). Đất nước hiện lên trong cảnh nghèo nàn “Tết hoà bình đầu tiên-Đất nước nghèo xơ xác” (Nói với con cuối năm). Những chi tiết gợi về một thời cả dân tộc thắt lưng buộc bụng chi viện cho chiến trường miền Nam, mọi thứ đều thiếu thốn “Chăn rách, chiếu manh quần áo lạ” (Đêm Đông chí uống rượu với bác Lâm và bác Khánh nói về những cuộc chia tay thời loạn), “Hoà bình đến mong manh-Nhiều tin đồn mà chẳng có gì ăn-Người đông, phố chật” (Liên tưởng tháng Hai), “Trời trong veo dưới những vũng nước mưa-Người trên phố xếp hàng dài mua củi” (Viết lại một bài thơ Hà Nội), “Thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu nhà...Trẻ con thiếu nơi học hành dạy dỗ” (Viết lại một bài thơ Hà Nội); khó khăn vây bủa hiện lên trên từng khuôn mặt “Quần áo và mặt người màu cỏ héo” (Viết lại một bài thơ Hà Nội); nhiều cảnh đổ nát hiện lên “Cổng nhà thờ gạch vỡ” (Chiều cuối), “Mưa ướt đầm trên gạch vỡ tan hoang” (Cầu nguyện). Đi dọc con đường dân tộc từ thuở hồng hoang cho đến ngày chiến thắng, bài thơ “Đất nước đàn bầu” hiện lên một Tổ quốc đau thương, nhọc nhằn, nghèo khó “Dân tộc tôi bốn ngàn năm áo rách...Dân tộc trải xót xa nhiều nỗi khổ”, nhưng thấm đượm giá trị nhân văn “Phải thương nhau mới sống được trên đời”. Thơ anh thoát ra khỏi ràng buộc của những quan niệm vốn định hình, nói bằng giọng nói khác không ồn ã so với nhiều nhà thơ cùng thời viết về chiến tranh. Cảm nhận về mất mát, bi thương xuất hiện trong thơ Lưu Quang Vũ khá sớm. Nhà thơ nói tới những miền khuất lấp (điều nhạy cảm khó viết), ở sự khốc liệt, tàn phá của chiến tranh, ở số phận của dân tộc, nhân dân từ nhiều góc nhìn hết sức nhân bản và cũng bằng chính trái tim nghệ sĩ rất mực khắc khoải của anh. Những câu thơ trên được viết ra do nhu cầu thúc bách nội tâm của bản thân, tuy không đại diện cho số đông lúc đó, nhưng nó là suy nghĩ, là nỗi lòng, là tâm trạng của con người nhìn, cảm biết nỗi đau và nghịch cảnh của đồng loại. Điều ấy không dễ thấy trong thơ những năm chiến tranh. Phải sau chiến tranh, các nhà thơ chống Mỹ mới thức nhận điều đó một cách đầy đủ.

Nhạy cảm trước mọi biến thái của cuộc sống là phẩm chất người nghệ sĩ. Trong tập Cửa mở, nhà thơ Việt Phương đưa vào thơ bao nỗi niềm, tâm sự còn ngổn ngang. Việc nhận ra phần “con” ẩn chứa trong chất “người” không chỉ xuất hiện trong thơ Việt Phương, nhưng điều quan trọng, nhà thơ đã viết và viết được (qua tập thơ từng gây nhiều tranh cãi đầu những năm 70 của thế kỷ trước), lại ở thời điểm không dễ viết “Ta cứ nghĩ đồng chí rồi thì không ai xấu nữa-Trong hàng ngũ ta chỉ có chỗ của yêu thương”. Nhà thơ đã đưa vào thơ cặp phạm trù đối lập về phẩm chất người “Cao thượng người xấu xa người là thế-Lời của lòng và câu mẽ đầu môi” (Ta nhìn trời đêm nay và ta đọc). Nhà thơ Việt Phương đã thể hiện một “kiểu người” thiếu chính kiến bản thân, chịu sự chi phối nghiêm ngặt của cách nghĩ chung, nói và “nghĩ mượn” qua câu thơ khá táo bạo:

Ta nhất quyết đồng hồ Liên xô tốt hơn đồng hồ Thuỵ Sĩ...
Mường tượng rằng trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ

Nhà thơ luôn tự vấn lương tâm, thành thực với mình, gia tăng “chất người trong ta” bằng “cộng sản thêm chút nữa” và hơn thế “Trút vỏ thần tượng đi càng lồng lộng chất người” (Cuộc đời yêu như vợ của ta ơi).

Trong âm hưởng hùng ca, say sưa với hào quang chiến thắng, thơ chống Mỹ thường tránh nói nỗi đau “Đã có thời nỗi đau ta phải giấu-Ta đánh mất ta trong mỗi con người” (Trương Nam Hương), để “Những câu thơ chỉ dội tiếng ta cười” (Chế Lan Viên). Hoặc nếu phải đối diện với hiện thực nghiệt ngã thì các nhà thơ vẫn cố gắng “xoa dịu” vết đau bằng sức mạnh tinh thần:

Một tháng vã hành quân
Hai chân phồng rộp cả
Quấn băng rồi vẫn đau
Nhiều lúc đi bằng đầu
(Mùa xuân đi đón-Hữu Thỉnh)

Chung sức cùng đội ngũ văn nghệ sĩ, các nhạc sĩ cố gắng lấy “tiếng hát” để “át tiếng bom” và “át cả thương đau”. Nhưng dù không động chạm nỗi đau, nhưng vết thương cố giấu vẫn âm ỉ, sâu xoáy trong lòng, tự nó tràn trào. Mỗi thế hệ nhà thơ cảm nhận về nỗi đau riêng - chung theo mạch đi riêng. Với nhà thơ lớp trước (Chế Lan Viên, Tố Hữu...), trước đó ít thấy bộc lộ nỗi đau trong thơ, nhưng những năm cuối chiến tranh, điều khó viết ấy được đề cập một cách trực diện và thấm thía:

Đau sóng nước muôn phương thân vạc, thân cò
...Khói thịt người làm mắt ta cay hơn khói đốt nhà
(Thơ bổ sung-Chế Lan Viên)

Tố Hữu cũng vậy, chưa thời điểm nào ông nói nhiều đến nỗi đau như tập thơ Máu và hoa: “máu thắm trong lòng đất”, “Lá cờ này là máu, là da”, “đường qua máu chảy”, “Hôn nỗi đau tan nát Phù Lai”... Nỗi đau ấy đã “chuyển hoá” một cách vật chất hơn, cụ thể hơn qua những con người bằng xương, bằng thịt, chứ không còn là sự cắn răng chịu đựng, thách thức với cái chết của con người ý chí - vốn phổ biến trong sáng tác trước đó của ông. Tố Hữu đã nói được phần nào nỗi đau của dân tộc trong thơ là vậy.

Trong tập Cửa mở, nhà thơ Việt Phương dùng chữ “đau” để đa dạng những cung bậc của nó. Có nỗi đau lớn mang hình vũ trụ “Nỗi đau trái đất” và lại có “nỗi đau trong mỗi cuộc đời”. Có “nỗi đau qua đi rất nhanh”, nhưng cũng lại có “Nỗi đau thấm vào ta rất lâu” trải suốt “những đêm dài nặng trĩu”. Có “nỗi đau mồ côi” và có cả những “nỗi đau sinh nở”. Có “Nỗi đau người” và nối đau chuyển sang vạn vật vô tri... Trong đó, theo ông không có nỗi đau nào sánh được với “nỗi đau người”. Nỗi đau ấy triền miên, tăng dần cấp độ :

Ta đau lắm những nỗi đau sinh nở
(Cuộc đời yêu như vợ của ta ơi)

Hơn nữa, nỗi đau “không sao chuyển thành niềm vui được” (Nỗi đau trái đất) khi nhà thơ cảm nhận đầy đủ sự hy sinh vĩ đại của nhân dân “Máu ta chẳng thắm hồng và ta tìm thấy thước đo” (Ta nhìn trời đêm nay và ta đọc), thấm thía niềm đau :

Thời gian trườn đi quằn quại
Ta uống một dòng đau nhói
Đau ngay trong cả nụ cười
(Cây sấu quê hương)

Cùng thế hệ các nhà thơ trẻ, Thanh Thảo đem đến tiếng thơ đầy ắp trăn trở, những suy ngẫm về các cặp phạm trù đối lập giữa được - mất, sống - chết, chung - riêng, cá nhân - cộng đồng, gia đình - Tổ quốc... Thơ anh nói nhiều chiến thắng, nhưng còn nói nhiều hơn mất mát, hy sinh “Mặt nước trôi quê hương không còn nguyên vẹn”. ý thức về thế hệ, bên cạnh lòng tự hào còn có cả nỗi xót xa thấm thía “Thằng bạn tôi dăm năm-Nhìn một ngôi sao trong hố bom nhoè nước” (Một người lính nói về thế hệ mình). Thanh Thảo đã viết những câu thơ đầy ám ảnh về “tuổi thọ” của chiếc áo lính :

Những năm
Chiếc áo dính chặt vào thân bạc màu ngắn nhanh rồi rách
Những năm
Một chiếc áo có thể sống lâu hơn một cuộc đời
Rồi tới lúc chúng con thay áo khác
Nhưng khi cởi áo ra
Con không còn gì thay được!
(Những người đi tới biển)

Cảm thức cô đơn

Sự nhạt dần cảm hứng sử thi có thể thấy ở cảm thức cô đơn của cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ và không nhiều nhà thơ khác những năm cuối chiến tranh. Lưu Quang Vũ được đông đảo công chúng mến mộ với tư cách nhà viết kịch và đặc biệt ở lĩnh vực thơ, anh đã có 12 tập thơ “nhuần chín”, trong đó nhiều tập đã hoàn chỉnh được nhà thơ đặt tên: Hương cây, Mây trắng của đời tôi, Cỏ tóc tiên, Cuốn sách xếp lầm trang... và một số tập khác đang sắp xếp dở dang, cần viết bổ sung. Ngoài nửa tập thơ: phần Hương cây (thơ in chung với Bằng Việt trong tập Hương cây - Bếp lửa (1968) được bạn đọc yêu thích cùng những cái tên quen thuộc như Bằng Việt, Nguyễn Mỹ, Lê Anh Xuân, Nguyễn Duy... ở vẻ tươi tắn, cách nhìn đời hồn hậu, lạc quan chung của những người làm thơ trẻ hồi ấy, hầu như phần lớn thơ của anh chưa được in, chưa công khai trước bạn đọc. Mãi đến thập kỷ 80, 90 của thế kỷ trước (sau khi anh qua đời - 1988), các tập Mây trắng của đời tôi, Bầy ong trong đêm sâu, Thơ tình Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ và Lưu Quang Vũ Thơ và Đời mới được gia đình và bạn hữu sưu tập để xuất bản.

Thơ của anh qua từng mốc thời gian cuộc đời riêng gắn với những biến đổi, thăng trầm chung của đất nước. Thời gian đầu thơ Lưu Quang Vũ giàu cảm xúc tinh tế, những rạo rực đầu đời - tình bạn, tình yêu, tình quân dân, tình yêu quê hương đất nước... đan xen một cách ý vị bằng cảm xúc trong trẻo, non tươi, man mác “Bồi hồi nghe hương bưởi, hương chanh” (Lá bưởi lá chanh). Nhưng vào những năm 1971-1973 - khoảng thời gian diễn ra những bi kịch, khủng hoảng trong cuộc đời riêng, thơ anh ngổn ngang những nỗi niềm tâm sự. Đây chính là thời điểm anh “ẩn mình”, “rút ruột”, “vắt mình đến cùng kiệt” để viết nên những vần thơ trĩu nặng cảm thức cô đơn. Anh viết chân thành - chân thành đến tàn nhẫn (chữ dùng của Vũ Quần Phương) cho riêng mình, cho nhu cầu của bản thân nén chặt trong cả hai mươi bài thơ trong tập Cuốn sách xếp lầm trang - tên một bài thơ cũng là tên của cả tập thơ hoàn chỉnh, đã chủ định đặt tên, nhưng hiện vẫn ở dạng bản thảo của gia đình, chưa in trọn vẹn, mang rất nhiều “dằn vặt, nhiều nghĩ ngợi, có phấn đấu và có cả thất vọng” . Sự cô đơn đậm đặc, triền miên thường trực đã đi cùng Lưu Quang Vũ trong suốt năm tháng không bình yên. Với anh, nỗi cô đơn là một trạng thái buở vây từ cả hai phía: khách quan do hoàn cảnh bị động và chủ quan do cái tôi nhà thơ chủ động tách mình ra khỏi sự đơn điệu, buồn tẻ, chọn con đường riêng cho mình: “Tôi chán cả bạn bè” vì họ “chẳng nói được câu gì mới” ; “Tôi bỏ ra đi” và “họ ngồi ở lại ; cuối cùng chỉ một mình nhà thơ trong “phố vắng ban đêm” (Có những lúc). Anh đã cô đơn ngay trên con đường mình chọn “Anh là con ong bay giữa trời lận đận-Trời đêm dài chẳng có một ngôi sao” (Bầy ong trong đêm sâu). Chọn cô đơn, nghĩa là nhà thơ đã chọn đề tài vốn là “cấm kỵ” trong thời điểm cả dân tộc tập trung sức mạnh cộng đồng. Anh thấy mình là người lính cô đơn giữa đồng đội “cô đơn giữa trung đoàn...Nỗi cô đơn hoàn toàn, nỗi cô đơn khủng khiếp” (Mấy đoạn thơ). Quá nhạy cảm khiến anh nhận ra sự cô đơn của những người xung quanh khi chính họ không cảm biết được “Những lá thư không biết gửi về đâu-Những hải cảng không có tàu cập bến” (Lá thư). Là một công dân, anh tự thấy mình cô đơn giữa xã hội “Anh bỏ hồ trong, bỏ vườn cây mát-Đi tìm chân trời nhưng chỉ thấy cô đơn” (Những ngày chưa có em); lạc lõng giữa bạn bè “Mặt tôi âm u như rừng rậm-Nghe em cười giữa bè bạn đông vui” (Có những lúc); lẻ loi giữa lớp học ồn ào; đổ vỡ trong tình yêu đôi lứa; xa lạ ngay bên cạnh những người ruột thịt thân yêu “Tôi là đứa con cô đơn ngay khi ngồi cạnh mẹ”... Điều đáng sợ nhất không chỉ bạn bè, tình yêu chối từ “Em sập cửa lại rồi, một mình “nhận bao cái tát” (Mấy đoạn thơ), mà thơ – nơi anh ký thác nhiều nhất nỗi niềm của mình vẫn nằm yên trong bản thảo, bạn đọc không ai khác là mình “Khi những bài thơ anh viết ra-Chỉ một mình anh đọc” (Nếu đó là tội lỗi).

Bên cạnh giọng điệu chung phấn khởi tự hào, cổ động cho đánh giặc chi phối bởi tinh thần sử thi, thì những bài thơ, tập thơ này quả có “lạc điệu”, khó có chỗ đứng trong lòng bạn đọc vào chính thời điểm nó ra đời.

Thơ chống Mỹ không chỉ đề cập nỗi đau với ý nghĩa nằm ngoài nỗi đau khi tinh thần sử thi vẫn chiếm giữ vị trí chủ đạo, mà còn thể hiện nỗi đau được ý thức như một tổn thất không dễ gì bù đắp của con người vật chất, con người trần thế không chịu áp lực sử thi, trở về với cái tôi nhân bản. Thơ đã góp một thành tựu trong việc thể hiện con người, khát vọng con người từ cái nhìn phi sử thi. Đặt mục đích ưu tiên cho lợi ích cộng đồng, dù cái tôi nhìn từ số phận cá nhân chưa phải là vấn đề cần được quan tâm, song nó đã có chỗ đứng ở ngay trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược.

Khi yếu tố sử thi nhạt dần, cái tôi trữ tình thiếu đi chất tráng ca, nhưng bù lại nó đã tìm thấy tiếng nói khác đầy ắp tâm trạng, nỗi trăn trở, sự day dứt, lo âu đầy trách nhiệm về chiến tranh vệ quốc, về hy sinh, mất mát, về nhu cầu, khát vọng của con người. Văn học hé mở khát vọng bức thiết, đòi hỏi quan tâm đến mỗi số phận cá nhân. Mối quan tâm cộng đồng đã nhường chỗ cho số phận cá nhân. Đó chính là cơ sở để thức tỉnh ý thức cá nhân và tinh thần nhân bản sẽ trở thành nền tảng tư tưởng và cảm hứng chủ đạo bao trùm của nền văn học sau năm 1975.

________________________________________________________

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét